Giao diện mới của VnDoc Pro: Dễ sử dụng hơn - chỉ tập trung vào lớp bạn quan tâm. Vui lòng chọn lớp mà bạn quan tâm: Lưu và trải nghiệm

Lý thuyết Ngữ văn 10 Cánh diều bài 34

VnDoc xin giới thiệu bài Lý thuyết Ngữ văn 10 bài 34: Kiêu binh nổi loạn - Ngô gia văn phái sách Cánh diều hay, ngắn gọn nhất giúp học sinh nắm được nội dung chính của bài, dễ dàng chuẩn bị bài và học tốt môn Văn 10

1. Tìm hiểu chung

1.1. Nhóm tác giả Ngô gia văn phái

- Ngô gia văn phái là một nhóm tác giả Việt Nam gồm 20 tác giả thuộc 9 thế hệ trên dưới 200 năm, từ đầu thế kỷ thứ 17 đến đầu thế kỷ thứ 20.

- Quê quán: Họ thuộc dòng họ Ngô Thì ở làng Tả Thanh Oai, huyện Thanh Oai, trấn Sơn Nam (nay thuộc huyện Thanh Trì, Hà Nội).

- Phong cách nghệ thuật:

+ Thiết tha, trong trẻo nhưng sâu lắng

+ Pha chút hài hước dí dỏm

- Tác phẩm chính: Hoàng Lê nhất thống chí là tác phẩm tiêu biểu nhất, Đại Nam Quốc túy, Hoàng Việt hưng long chí, …

1.2. Khái quát thể loại tiểu thuyết

- Tiểu thuyết là tác phẩm tự sự cỡ lớn. Tiểu thuyết có khả năng phản ánh đời sống rộng lớn, không bị giới hạn về không gian và thời gian; cốt truyện phức tạp; được xây dựng trên nhiều sự kiện, cảnh ngộ, nhiều mối xung đột; miêu tả nhiều tuyến nhân vật, nhiều quan hệ chồng chéo với những diễn biến tâm lí phức tạp, đa dạng. Tiểu thuyết có nhiều loại, ở bài 5 tập trung vào tiểu thuyết chương hồi.

1.3. Tác phẩm Kiêu binh nổi loạn

a. Xuất xứ

- Đoạn trích Kiêu binh nổi loạn là hồi thứ hai của tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí.

b. Thể loại

- Tiểu thuyết chương hồi.

c. Bố cục

Có thể chia làm bốn phần:

- Phần 1: Cuộc trò chuyện giữ Thế tử Trịnh Tông với hạ nhân và quan thần.

- Phần 2: Kế sách của Vũ Bằng được mọi người đồng tình, ủng hộ.

- Phần 3: Tình thế bất lực, thảm hại, bi đát và cái chết của Quận Huy.

- Phần 4: Sự thắng thế của thế tử Tông.

d. Tóm tắt nội dung văn bản

Hoàng Lê Nhất thống chí phản ánh thời kì lịch sử từ lúc Trịnh Sâm lên ngôi chúa (1768) đến lúc Nguyễn Ánh lên ngôi vua (1802). Đoạn trích Kiêu binh nổi loạnkể chuyện kiêu binh nổi loạn, giết Quận Huy Hoàng Đình Bảo, phế Trịnh Cán, lập Trịnh Tông lên ngôi chúa.

2. Đọc hiểu văn bản

2.1. Cuộc trò chuyện giữ Thế tử Trịnh Tông với hạ nhân

- Lời nói của Dự Vũ, Gia Thọ đều có tính chất xúi giục, hậu thuẫn cho Trịnh Tông làm phản.

+ “ Nhà Chúa bỏ con cả, lập con út, thiên hạ đều căm ghét nhất là quân lính”

+ “ Lòng người như thế nếu lấy nghĩa khí mà khích đ ộ ng… thì mọi việc ắt thành”

=> Thế tử nghe ra tỏ ra mừng lắm bèn gọi quan thần vào họp bàn

2.2. Kế sách của Vũ Bình

- Không khí: Quân lính hăng hái đến h ộ i họp nhưng còn sự thanh thế của Quận Huy nên không biết giải quyết thế nào cho ổn thỏa, giữa lúc đó Vũ Bằng liền đưa ra kế sách của mình.

- Kế sách của Vũ Bằng: “Chỉ sợ anh em không cùng m ộ t bụng thôi. Chứ nếu ba quân đồng lòng, thì bất quá chỉ thừa dịp cũng cơm sáng xong, đánh m ộ t hồi trống trong phủ làm hiệu rồi kéo ùa cả vào, nắm cẳng hắn, vứt chỏng gọng xuống dưới thềm m ộ t cái là xong thôi mà!”

=> Kế sách sáng suốt, đúng đắn, phù hợp được mọi người đồng tình ủng hộ.

2.3. Tình thế bất lực, thảm hại, bi đát và cái chết của Quận Huy

- Quận Huy đã lường trước được cái chết của mình “Ngày mai có biến, tôi sẽ chết. Nhưng tôi chết cũng phải có dăm ba mạng đi theo”

-> Mặc dù được răn nên bế tân chúa đi trốn nhưng Qu ậ n Huy vẫn thong thả, khẳng khái, cho rằng việc mình làm là đúng, không việc gì phải hốt hoảng.

- Quận Huy nghe lời các quan bắt, trói Vũ Bằng à đem chém.

- Khí thế của quân kiểu binh: hò reo, hăng hái, quát tháo, cùng cầm binh khí xô lấn nhau mà vào trong phủ.

- Hành động và thái độ của Qu ậ n Châu

+ Hành động: dụ quân lính: “Làm lính phải biết lễ phép… ta sẽ trình bày giúp” và mở cửa cho quân lính xông vào.

+ Thái độ: run sợ, sơ hãi trước lời đe dọa của quân lính.

- Tình thế của Qu ậ n Huy:

+ Dương cung định bắn - chẳng may cung đứt dây.

+ Vớ súng để nạp đạn - mồi lửa tịt không cháy

+ Quân lính thừa dịp vùng lên, dùng móc câu liêm móc cổ Qu ậ n Thuy kéo xuống, đánh đấm túi bụi, giết chết ngay tại chỗ.

+ Em ruột Qu ậ n Huy cũng bị đập cho vỡ đầu rồi vứt xác xuống hồ Thủy Quân.

=> Tình thế bất lực, bi đát, thảm hại.

2.4. Sự thắng thế của thế tử Tông

- Sau cái chết của anh em Qu ậ n Huy, quân lính vui mừng phò thế tử Tông lên phủ đường.

+ “Xin ngồi cao thêm nữa để thiên hạ đều thấy được mặt rồng, cho thỏa lòng vui của mọi người!”, “Cứ thế lên lên xuống xuống y như người ta giỡn quả cầu hoặc rước pho tượng Phật."

+ “Mấy hôm trước, ngày nào trời cũng u ám. Hôm ấy, tự dưng bầu trời lại trong sáng, mọi người đều cho đó là cái điềm thái bình”.

- Kiêu binh được lệnh lộng hành phá hủy nhà cửa Qu ậ n Huy kiến cho Trịnh Tông mất kiểm soát.

3. Tổng kết

3.1. Về nội dung

- Văn bản sử dụng tư liệu hết sức cụ thể, tỉ mỉ: về lai lịch tính cách các nhân vật, về địa chỉ của các vụ việc, về âm mưu của các phe phái, về quá trình hình thành, phát triển và kết thúc của sự kiện. Qua đó thể hiện tình cảnh khủng hoảng của xã hội lúc bấy giờ.

3.2. Về nghệ thuật

- Bút pháp tả thực của lối chép sử biên niên không che dấu tiếng cười mỉa mai và xót xa trước tình cảnh đất nước bị mục nát từ chính quyền trung ương.

4. Bài tập minh họa

Bài tập: Phân tích đoạn trích Kiêu binh nổi loạn - Ngô gia văn phái, SGK Ngữ văn 10 tập 2 Cánh Diều.

Hướng dẫn giải:

- Đọc lại đoạn trích Kiêu binh nổi loạn - Ngô gia văn phái, SGK Ngữ văn 10 tập 2 Cánh Diều

- Lên ý tưởng và viết bài, có thể tham khảo các nội dung chính sau:

+ Đoạn trích đã cho thấy sự thối nát của phủ chúa Trịnh

+ Mục đích nổi loạn của kiêu binh là trả thù, rửa hận

+ Đoạn trích cho thấy Trịnh Tông, Thánh mẫu chỉ là đám bèo bọt trôi nổi trên bề mặt dòng thác lịch sử

+ Tuyên bố về nền hòa bình dân tộc

Lời giải chi tiết:

Đoạn trích “Kiêu binh nổi loạn” trong Hoàng Lê nhất thống chí đã cho thấy sự thối nát của phủ chúa Trịnh: cha, con, anh, em tranh giành quyền lực, việc phế con trưởng lập con thứ hoàn toàn do quyền lợi ích kỉ của phe đảng, không vì quyền lợi của đất nước, của nhân dân. Cuộc tranh giành đó Trịnh Tông là kẻ đang bị thất thế, có nguy cơ bị hại, phải nhờ mẹ là thái phi họ Dương kêu với quận Huy mới bảo toàn được tính mệnh.

Lính kiêu binh phần nhiều đều thuộc phe của Trịnh Tông. Tông mà bị diệt trừ thì họ mất chỗ dựa và có thể bị diệt theo. Số phận của các đám gia thần, tôi tớ, binh lính của các tập đoàn phong kiến xưa nay là vậy. Có thể kế các nhân vật kiêu binh như: Dự Vũ, đầu bếp của Tông; Gia Thọ là gia thần, Bằng Vũ là gia binh. Chúng căm ghét quận Huy như kẻ thù của chúng. Vì thế, lời nói của Dự Vũ, Gia Thọ đều có tính chất xúi giục, hậu thuẫn cho Tông làm phản. Tông mời cơm ngỏ ý chỉ là một biểu hiện phó thác chính thức, lái mũi nhọn chĩa vào quận Huy.

Mục đích nổi loạn của kiêu binh là trả thù, rửa hận. Lời nói của Dự Vũ đã cho thấy quân lính “căm ghét”, “hậm hực” khinh bỉ cách làm của chúa Trịnh và quận Huy, chỉ muốn diệt trừ cho hả giận. Đề xuất kế sách của Bằng Vũ chứng tỏ quân lính rất khinh nhờn thế lực của phủ chúa: “Đánh một hồi trống làm hiệu, rồi kẻo ùa cả vào, nắm cẳng hắn, vứt chỏng gọng xuống dưới thềm một cái là xong thôi mà!”.

Sự can thiệp của bọn quý tộc, thân tộc trong phủ như quận Viêm, con hắn là Chiếu lĩnh bá, quận Hoàn, Thánh mẫu... cho thấy chúng chỉ muốn lợi dụng để hớt lấy công hoặc che chắn để bảo vệ quyền lợi mình. Tiêu biểu cho thái độ bàng quan là Viêm quận công. Tiêu biểu cho thái độ hớt công là Bùi Bật Trực và Chiếu lĩnh bá. Mặt khác qua sự can thiệp này ta thấy phủ chúa hoàn toàn bất lực, kiêu binh lộng hành, làm chủ tình thế. Ở nơi tập trung quyền hành trung ương chỉ là một đám lưu manh họp chợ để giở thói côn đồ thanh toán nhau!

Đoạn văn đã miêu tả một cuộc nổi loạn của binh lính. Thế lực của họ thật mạnh. Xuất phát từ lòng căm phẫn, khinh bỉ, muốn rửa hận, trả thù, quân kiêu binh đã tụ tập, bàn định và thống nhất với nhau rất nhanh. Họ nổi lên chi phối các sự kiện lịch sử. Họ mớm lời và xúi giục Trịnh Tông, họ quyết định cách nổi loạn, bầu người chủ mưu, không cần chỉ dụ của ai hết. Trịnh Tông phó thác chỉ là kẻ ăn theo, Trần Hữu Cầu viết hịch chỉ là một việc hiếu sự. Bằng Vũ quyết định ngày khởi sự, không cần tâu với Thánh mẫu. Khi nghe tiếng trống, quân lính “nhảy nhót, hăng hái, cầm binh khí xô lấn nhau mà vào trong phủ”, “họ hò reo quát tháo long trời lở đất”.

Đoạn giết quận Huy đã thể hiện sức mạnh của kiêu binh. Họ dọa quận Châu. Thoạt đầu, do thói quen phục tùng, họ sợ quận Huy, song chỉ được một lát, từ tư thế ngồi họ nhao nhao đứng dậy vây lấy voi chiến, ném gạch ngói vào voi, dùng câu liêm kéo quản tượng xuống giết, rồi kéo quận Huy xuống đánh chết, mổ bụng lấy gan ăn sống, sau đó lấy đá ghè chết em quận Huy. Tất cả sự nổi loạn, tàn bạo đã thể hiện cụ thể, sống động, nó cho thấy sức mạnh của đám đông có thể làm nổi thuyền, có thể làm lật thuyền.

Trịnh Tông đúng là ông chúa bù nhìn, hắn lên ngôi chúa hoàn toàn nhờ sự đưa đẩy tình cờ của số phận, tất cả chỗ dựa là đám lính tráng tự phát nổi lên. Cho nên khi đã làm chúa rồi, vẫn không sao làm chủ được đám âm binh làm loạn: phá nhà, giết người, cướp của... Trịnh Tông trở thành nhân vật hài hước khi được bọn lính tráng đặt lên cái mâm rồi nâng lên hạ xuống như “giỡn quả cầu” trong tiếng reo hò của đám loạn quân và dân hàng phố đông như họp chợ.

Kiêu binh đã lập Trịnh Tông lên, cảnh khiêng Tông trên chiếc mâm gỗ, đưa lên, đưa xuống, mọi người xúm lại đông như họp chợ. Hai tiếng “họp chợ” thật mỉa mai! Họ lại đặt sập gụ ngoài phủ đường để đưa Tông lên ngôi. Mấy chữ “ngoài phủ đường” cũng hài hước, chẳng có chút uy nghiêm nào. Họ lại xin di phá tất cả dinh cơ quận Huy, làm náo động kinh thành liền trong mấy ngày. Trái lại với sức mạnh bạo lực của kiêu binh, giai cấp thống trị tỏ ra hoàn toàn bất lực và thảm hại.

Sự bất lực thảm hại của phe quận Huy đã quá rõ. Không đề phòng, thiếu mưu lược, sờ đến cung thì cung đứt dây, sờ đến súng thì súng không nổ! Hai anh em Huy bị giết nhanh chóng! Chúa thì chạy trốn, đói bụng khóc nheo nhéo phải dọa bị bắt mới không khóc nữa. Những kẻ nắm quyền quốc gia trong phủ mà như thế, thật là hài hước hết mức!

Phe theo Tông cũng bất lực không kém. Quận Châu lúc đầu theo Huy đứng trong cửa định lên giọng đe quân lính. Kiêu binh mới đe một câu liền mở cửa ngay. Thế mà khi kiêu binh đã giết hết anh em quận Huy rồi, Châu còn phất cờ đuôi báo và khua chiêng thu quân, làm như mình đã là người chỉ huy quân đội của phe Trịnh Tông vậy!

Đoạn trích cho thấy Trịnh Tông, Thánh mẫu chỉ là đám bèo bọt trôi nổi trên bề mặt dòng thác lịch sử. Tông chỉ là con rối trong tay kiêu binh. Chỉ của Thánh mẫu chỉ là bản viết tức thời trước việc đã rồi. Khi kiêu binh thừa thế đốt phá, trả thù riêng, “Tông hạ chỉ ngăn cấm mà họ vẫn không thôi” chứng tỏ Tông chẳng có chút uy quyền nào cả. Khi chúa vờ giết phứa “một người thường dân” (vì không dám đụng vào kiêu binh!) thì việc phá phách mới tạm ngừng, nhưng việc bắt người vẫn đang tiếp tục. Đoạn văn đã cho thấy làn sóng nổi loạn của quân lính và số phận bèo bọt của một vương triều, chứng tỏ sự thối nát cùng cực của một chế độ.

Có thể nói quận Huy và Trịnh Tông ở hai phía là những nhân vật của một tấn bi hài kịch lịch sử nói về sự suy sụp của triều đại họ Trịnh. Một triều đại phong kiến lâu đời, hiển hách đã rơi vào tình trạng suy sụp một cách thảm hại. Bố chết nằm đấy, anh em đã xung đột, tranh nhau ngai vàng. Đám lính tráng nổi lên làm chủ cả thành Thăng Long, phá nhà, đốt nhà, cướp của, giết người vô tội vạ v.v... Quận Huy bị phanh thây. Trịnh Cán bị phế truất. Tất cả là do bọn lính tráng, bọn bồi bếp tự phát nổi lên. Trịnh Tông lên ngôi mà bất lực trước đám, âm binh bất trị... Đúng là tấn bi kịch lịch sử.

Nhưng chất hài của tấn kịch lịch sử này cũng rất rõ: Những nhân vật đã bị lịch sử lên án, đã hết vai trò lịch sử, vẫn cố khẳng định uy quyền của mình và trở thành những vai hề như quận Huy vẫn tin ở uy quyền của mình, biết trước âm mưu nổi loạn của đám kiêu binh vẫn không thèm phòng bị gì, một mình giữa đám loạn quân hung hãn vẫn quát tháo thị oai. Nhưng bắn cung cung gãy, bắn súng súng không nổ... cuối cùng bị kéo cổ xuống đất. Đúng là hài hước. Trịnh Tông thì tuy vẫn được gọi bằng những danh hiệu những từ ngữ trang trọng cao quy của bậc đế vương: thế tử, mặt rồng, Thánh chúa... nhưng ngai vàng chỉ là cái mâm đặt trên vai đám lính tráng, để cho hàng phố đến xem như họp chợ.

Những tư liệu được trình bày hết sức cụ thể, tỉ mỉ: về lai lịch tính cách các nhân vật, về địa chỉ của các vụ việc, về âm mưu của các phe phái, về quá trình hình thành, phát triển và kết thúc của sự kiện.… Nghĩa là những tư liệu đủ để dựng lại bộ mặt, không khí của lịch sử một cách cụ thể, sinh động. Bút pháp tả thực của lối chép sử biên niên không che dấu một nụ cười mỉa mai và xót xa trước tình cảnh đất nước bị rữa nát từ chính quyền trung ương. Cơn hấp hối vào giờ chót của một triều đại bao giờ cũng chẳng là một màn bi hài của lịch sử?

5. Trắc nghiệm

Như vậy, VnDoc đã gửi tới các bạn Lý thuyết Ngữ văn 10 bài 34: Kiêu binh nổi loạn - Ngô gia văn phái. Ngoài ra, các em học sinh có thể tham khảo môn Hóa 10 Cánh diều, Lý 10 Cánh diềuToán 10 Cánh diều tập 1, Sinh 10 Cánh diều đầy đủ khác.

Chia sẻ, đánh giá bài viết
1
3 Bình luận
Sắp xếp theo
  • Điện hạ
    Điện hạ

    😍😍😍😍😍😍😍😍

    Thích Phản hồi 08:19 27/05
    • Sunny
      Sunny

      😃😃😃😃😃😃😃

      Thích Phản hồi 08:19 27/05
      • Vợ nhặt
        Vợ nhặt

        🤙🤙🤙🤙🤙🤙🤙

        Thích Phản hồi 08:19 27/05
        🖼️

        Gợi ý cho bạn

        Xem thêm
        🖼️

        Ngữ Văn 10 Cánh Diều tập 2

        Xem thêm