Giao diện mới của VnDoc Pro: Dễ sử dụng hơn - chỉ tập trung vào lớp bạn quan tâm. Vui lòng chọn lớp mà bạn quan tâm: Lưu và trải nghiệm

Soạn bài Tỏ lòng

Soạn bài Tỏ lòng (hay Thuật hoài) do Phạm Ngũ Lão sáng tác được VnDoc sưu tầm và giới thiệu với các bạn để tham khảo về tinh thần và ý chí ngoan cường của những con người ấy sẽ vẫn mãi là lí tưởng cho nghị lực và sự phấn đấu của tuổi trẻ hôm nay và mai sau giúp học tập tốt môn Ngữ Văn lớp 10 chuẩn bị cho bài giảng của học kỳ mới sắp tới đây của mình.

1. Soạn bài: Tỏ lòng (Thuật hoài) mẫu 1

1.1. Câu 1 (trang 116 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1)

- Bản dịch chưa sát với nguyên tác chữ Hán của câu thơ, từ “múa giáo” chưa thể hiện được hết ý nghĩa của hai từ “hoành sóc”.

+ Từ “hoành sóc” là cầm ngang ngọn giáo mà trấn giữ non sông. Cả ý nghĩa lẫn âm hưởng của từ “hoành sóc” tạo nên cảm giác kì vĩ và lớn lao hơn..

- Trong câu thơ đầu, hình ảnh con người xuất hiện trong bối cảnh không gian, thời gian rộng lớn.

+ Không gian mở theo chiều rộng của núi sông, chiều cao của sao Ngưu thăm thẳm.

+ Thời gian được đo bằng năm (cáp kỉ thu - mấy năm).

- Con người được đặt trong không gian kì vĩ trở nên vĩ đại hơn.

=> Hình ảnh con người hiên ngang, mang tầm vóc của con người vũ trụ, non sông.

1.2. Câu 2 (trang 116 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1)

Câu thơ “Tam quân tì hổ khí thôn ngưu” có hai cách hiểu:

- Cách hiểu thứ nhất, có thể hiểu là: “ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu”.

- Cách hiểu thứ hai, có thể hiểu là: “Ba quân hùng mạnh khí thế át sao Ngưu”.

=> Quân đội nhà Trần mạnh cả về trí và lực, đầy đủ binh hùng tướng mạnh cùng những vị đại tướng quân trí, dũng song toàn…

=> Cái thế ấy đúng là đủ sức làm thay đổi cả trời đất.

1.3. Câu 3 (trang 116 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1)

Món “nợ công danh” mà nhà thơ nói đến ở đây vừa là khát vọng lập công, lập danh (mong để lại tiếng thơm, sự nghiệp cho đời) vừa có ý “chưa hoàn thành nghĩa vụ đối với dân, với nước”.

- Thời trung đại, trang nam nhi sống theo lí tưởng “Phải có danh gì với núi sông”, với họ lập công danh đóng góp tài sức cho đất nước là một món nợ đời phải trả.

1.4. Câu 4 (trang 116 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1)

Ý nghĩa nỗi “thẹn” trong câu thơ cuối:

- Thể hiện vẻ đẹp, giá trị nhân cách của người anh hùng. Phạm Ngũ Lão ‘thẹn” vì chưa có được tài năng mưu lược như Vũ hầu Gia Cát Lượng để giúp dân, giúp nước.

- Nỗi thẹn của con người có trách nhiệm với đất nước, non sông.

→ Cái tâm ngời sáng của con người có tư tưởng trung quân ái quốc.

1.5. Câu 5 (trang 116 sgk Ngữ Văn 10 Tập 1)

Bài thơ khắc họa thành công hình ảnh người anh hùng hiên ngang, lẫm liệt, bất khuất cùng với lý tưởng và hoài bão cao đẹp =>Hào khí Đông A.

=>Bài học lớn về lý tưởng và lẽ sống cho thế hệ trẻ.

Các bài soạn văn lớp 10 tập 1 siêu ngắn khác:

2. Soạn bài: Tỏ lòng (Thuật hoài) mẫu 2

2.1. KIẾN THỨC CƠ BẢN

2.1.1. Hào khí Đông A

Hào khí Đông A là hào khí đời Trần (chữ Đông và chữ A trong tiếng Hán ghép lại thành chữ Trần). Cụm thuật ngữ này từ lâu đã được dùng để chỉ cái không khí oai hùng, hào sảng của thời Trần (thời kì mà chúng ta có những chiến công lừng lẫy khi cả ba lần đều đánh tan sự xâm lược của giặc Nguyên- Mông).

Hào khí Đông A là chỉ cái khí thế hừng hực của niềm vui chiến thắng, chỉ cái khát khao mang tính thời đại mà ở đó ai ai cũng muốn góp sức dựng xây hay dang tay bảo vệ cho sự vững bền mãi mãi của non sông đất nước mình.

Hào khí Đông A từ xã hội đi vào thơ văn trở thành sự kết tinh cho những biểu hiện cao đẹp của lòng yêu nước. Có không ít tác phẩm nổi tiếng mang hơi thở của Hào khí Đông A: Thuật hoài (Tỏ lòng) của Phạm Ngũ Lao, Tụng giá hoàn kinh sư (Phò giá về kinh) của Trần Quang Khải, Hịch tướng sĩ văn của Trần Quốc Tuấn,...

2.1.2. Tỏ lòng là một bài thơ ngắn nhưng lại mang đậm dấu ấn của cả một thời (dấu ấn về âm hưởng của hào khí Đông A). Bài thơ là một bức tranh kì vĩ, hoành tráng bởi vẻ đẹp của hình tượng người anh hùng vệ quốc hiên ngang, lẫm liệt với lí tưởng và nhân cách lớn lao. Bài thơ cũng là vẻ đẹp của thời đại với khí thế hào hùng mang tinh thần quyết chiến và quyết thắng.

2.2. RÈN KĨ NĂNG

2.2.1. So sánh câu thơ đầu trong nguyên tác chữ Hán với câu thơ dịch, ta thấy hai từ "múa giáo" chưa thể hiện được hết ý nghĩa của hai từ "hoành sóc". "Hoành sóc" là cầm ngang ngọn giáo mà trấn giữ non sông. Từ ý nghĩa lẫn âm hưởng, từ "hoành sóc" đều tạo ra cảm giác kì vĩ và lớn lao hơn.

Trong câu thơ đầu này, con người xuất hiện trong bối cảnh không gian và thời gian đều rộng lớn. Không gian mở theo chiều rộng của núi sông và mở lên theo chiều cao của sao Ngưu thăm thẳm. Thời gian không phải đo bằng ngày bằng tháng mà đo bằng năm, không phải mới một năm mà đã mấy năm rồi (cáp kỉ thu). Con người cầm cây trường giáo (cũng đo bằng chiều ngang của non sông), lại được đặt trong một không gian, thời gian như thế thì thật là kì vĩ. Con người hiên ngang ấy mang tầm vóc của con người vũ trụ, non sông.

2.2.2. Câu thơ "Tam quân tì hổ khí thôn ngưu" có hai cách hiểu: Thứ nhất, ta có thể hiểu là "ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu". Nhưng cũng có thể giải thích theo cách khác, với cách hiểu là: Ba quân hùng mạnh khí thế át sao Ngưu. Có thể nói quân đội nhà Trần mạnh cả về trí và lực, không những nó có được đầy đủ binh hùng tướng mạnh mà còn có những vị đại tướng quân trí dũng song toàn (như: Trần Quốc Tuấn, Trần Quang Khải, Phạm Ngũ Lão, Trần Nhật Duật...). Vì thế thật không quá khoa trương khi nói: cái khí thế ấy đúng là đủ sức làm đổi thay trời đất.

2.2.3. Tỏ lòng là bài thơ nói chí. Đó là cái chí của những bậc nam nhi trong thiên hạ. Chính vì thế, món "nợ công danh" mà nhà thơ nói đến ở đây vừa là khát vọng lập công, lập danh (mong để lại tiếng thơm, sự nghiệp cho đời) vừa có ý "chưa hoàn thành nghĩa vụ đối với dân, với nước". Theo quan niệm lí tưởng của trang nam nhi thời phong kiến thì công danh được coi là một món nợ đời phải trả. Trả xong nợ công danh mới hoàn thành nghĩa vụ với đời, với dân, với nước. Ở phần cuối của bài thơ, tác giả vẫn "thẹn" vì mình ch­a được như Vũ Hầu Gia Cát Lượng, nghĩa là vẫn muốn lập công lập danh để giúp nước giúp đời.

2.2.4. Trong câu thơ cuối, nỗi "thẹn" đã thể hiện vẻ đẹp nhân cách của người anh hùng. Phạm Ngũ Lão "thẹn" vì chưa có được tài năng mưu lược như Vũ Hầu Gia Cát Lượng (Khổng Minh - đời Hán) để giúp dân cứu nước, thẹn vì trí và lực của mình thì có hạn mà nhiệm vụ khôi phục giang sơn, đất nước còn quá bộn bề. Nỗi thẹn của Phạm Ngũ Lão cũng là những day dứt của Nguyễn Trãi hay của Nguyễn Khuyến sau này. Đó là những nỗi thẹn có giá trị nhân cách - nỗi thẹn của những con người có trách nhiệm với đất nước, non sông.

2.2.5. Người xưa nói "Quốc gia lâm nguy, thất phu hữu trách". Câu nói ấy quả rất đúng với tinh thần của bài thơ "Tỏ lòng".

Đọc những dòng thơ hào hùng khí thế, ta có thể cảm nhận rât rõ vẻ đẹp sức vóc và ý chí của những trang nam nhi thời đại nhà Trần. Âm hưởng anh hùng ca của thời đại do những con người ấy tạo nên và cũng chính âm hưởng ấy tôn lên vẻ đẹp anh hùng của họ. Họ đã từ bỏ lối sống tầm thường, ích kỉ, để sẵn sàng chiến đấu và hy sinh cho sự nghiệp cứu nước, cứu dân. Tinh thần và ý chí ngoan cường của những con người ấy sẽ vẫn mãi là lí tưởng cho nghị lực và sự phấn đấu của tuổi trẻ hôm nay và mai sau.

Trên đây VnDoc.com đã giới thiệu tới bạn đọc tài liệu: Soạn bài Tỏ lòng. Để có kết quả cao hơn trong học tập, VnDoc xin giới thiệu tới các bạn học sinh tài liệu Đề thi học kì 1 lớp 10, Soạn bài lớp 10, Học tốt Ngữ văn 10, Tài liệu học tập lớp 10 mà VnDoc tổng hợp và đăng tải.

Ngoài ra, các bạn có thể tham khảo thêm các tài liệu sau đây để việc học trở nên dễ dàng hơn:

Chia sẻ, đánh giá bài viết
5
Sắp xếp theo
    🖼️

    Gợi ý cho bạn

    Xem thêm
    🖼️

    Soạn bài lớp 10

    Xem thêm