Đoàn thuyền đánh cá - Nội dung bài thơ, Hoàn cảnh sáng tác, Dàn ý phân tích tác phẩm

Đoàn thuyền đánh cá - Nội dung bài thơ, Hoàn cảnh sáng tác, Dàn ý phân tích tác phẩm được VnDoc sưu tầm và đăng tải. Trong một bài văn điều đầu tiên là chúng ta phải hiểu nội dung bài thơ và hoàn cảnh sáng tác để từ đó hoàn thiện bài văn phân tích hay hơn. Dưới đây là nội dung bài thơ và hoàn cảnh sáng tác của bài đoàn thuyền đánh cá, các em tham khảo nhé.

Sơ đồ tư duy bài Đoàn thuyền đánh cá

Sơ đồ tư duy bài Đoàn thuyền đánh cá

Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá (Huy Cận)

Nội dung bài thơ Đoàn thuyền đánh cá

Mời các em học sinh và thầy cô tham khảo tài liệu: Phân tích 2 khổ đầu bài Đoàn thuyền đánh cá

Đoàn thuyền đánh cá

(Huy Cận)

Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then, đêm sập cửa.
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.

Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,
Cá thu biển Đông như đoàn thoi
Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng.
Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!

Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng,
Ra đậu dặm xa dò bụng biển,
Dàn đan thế trận lưới vây giăng.

Cá nhụ cá chim cùng cá đé,
Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,
Cái đuôi em quẫy trăng vàng choé,
Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.

Ta hát bài ca gọi cá vào,
Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao,
Biển cho ta cá như lòng mẹ,
Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.

Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng,
Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng,
Vảy bạc đuôi vàng loé rạng đông,
Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng.

Câu hát căng buồm với gió khơi,
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.
Mặt trời đội biển nhô màu mới
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.

I. Đôi nét về tác giả Huy Cận

1. Tiểu sử tác giả Huy Cận

Huy Cận (1919 - 2005) tên khai sinh là Cù Huy Cận quê ở làng Ân Phú, huyện Hương Sơn sau đó thuộc huyện Đức Thọ (nay là xã Ân Phú, huyện Vũ Quang), tỉnh Hà Tĩnh.

Ông lúc nhỏ học ở quê, sau vào Huế học trung học, đậu tú tài Pháp; rồi ra Hà Nội học trường Cao đẳng Canh nông. Từ năm 1942, ông tham gia phong trào sinh viên yêu nước và Mặt trận Việt Minh, Huy Cận đã tham dự Quốc dân đại hội ở Tân Trào (tháng 8 năm 1945) và được bầu vào Ủy ban Giải phóng (tức Chính phủ Cách mạng lâm thời sau đó). Huy Cận cũng từng cộng tác với nhóm Tự Lực Văn Đoàn.

Sau Cách mạng tháng Tám, ông liên tục tham gia chính quyền cách mạng, giữ nhiều trọng trách khác nhau như: Thứ trưởng Bộ Văn hóa, Bộ trưởng đặc trách công tác Văn hóa - Nghệ thuật tại Văn phòng Hội đồng Bộ trưởng, kiêm Chủ tịch Ủy ban Trung ương Liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam.

2. Sự nghiệp văn học của tác giả Huy Cận

Huy Cận yêu thích thơ ca Việt Nam, thơ Đường và chịu nhiều ảnh hưởng của văn học Pháp. Ông là một trong những tác giả xuất sắc của phong trào Thơ mới.

Mỗi bài thơ của Huy Cận đều mang một phong cách đáng chú ý và có một điểm chung là hàm súc, triết lý. Ông là một đại biểu xuất sắc cho phong trào thơ mới với hồn thơ ảo não.

Sáng tác của Huy Cận trước Cách mạng tháng 8 mang nét sầu não, buồn thương. Còn sau Cách mạng tháng 8 thì lại mang nét tươi vui. Có thể thấy rằng các sáng tác của Huy Cận luôn bám sát hiện thực cuộc sống, thời đại.

Huy Cận có năng lực cảm nhận cuộc sống thật đặc biệt, có thể nghe được từ những biểu hiện tinh vi của tạo vật đến những biến đổi lớn lao trong vũ trụ vô cùng vô tận. Hồn thơ Huy Cận luôn vận động giữa nhiều đối cực: vũ trụ - cuộc đời, sự sống - cái chết, nỗi buồn - niềm vui, hiện thực - lãng mạn.

Huy Cận là nhà thơ lớn, nhà văn hóa lớn tầm cỡ thế giới. Tuy am hiểu nhiều nền văn minh, văn hóa của nhân loại, hồn thơ ông vẫn đậm đà bản sắc dân tộc. Với vốn văn hóa sâu rộng, năng lực xúc cảm, suy nghĩ phong phú và quan điểm nghệ thuật rõ ràng, Huy Cận đã góp vào thi đàn một tiếng thơ có hương sắc riêng, làm rạng rỡ diện mạo tâm hồn dân tộc

II. Đôi nét về tác phẩm Đoàn thuyền đánh cá

1. Hoàn cảnh sáng tác

Giữa năm 1958, Huy Cận có một chuyến đi thực tế dài ngày ở vùng mỏ Quảng Ninh. Từ chuyến đi thực tế ấy, hồn thơ Huy Cận thực sự nảy nở dồi dào cảm hứng về thiên nhiên đất nước. Bài thơ được sáng tác trong thời gian ấy và in trong tập “Trời mỗi ngày lại sáng”

2. Bố cục: 3 phần

Phần 1 (2 khổ đầu): Cảnh đoàn đánh cá ra khơi

Phần 2 (4 khổ tiếp theo): Cảnh đoàn thuyền đánh trên biển

Phần 3 (khổ cuối): Hình ảnh đoàn thuyền trở về

3. Giá trị nội dung

Bài thơ là khúc tráng ca ca ngợi cuộc sống lao động tập thể của người dân chài trong công cuộc xây dựng và tái thiết đất nước, đồng thời bộc lộ niềm vui, niềm tự hào của nhà thớ trước khung cảnh thiên nhiên đất nước giàu đẹp.

4. Giá trị nghệ thuật

Bài thơ có sự sáng tạo trong việc xây dựng hình ảnh thơ bằng liên tưởng, trí tưởng tượng phong phú. Âm hưởng thơ khỏe khoắn hào hùng và sáng tạo.

III. Dàn ý phân tích Đoàn thuyền đánh cá

Dàn ý phân tích bài thơ Đoàn thuyền đánh cá mẫu 1

1. Mở bài

Giới thiệu tác giả Huy Cận và bài thơ Đoàn thuyền đánh cá.

2. Thân bài

- Khổ thơ 1: Giữa lúc thiên nhiên và vạn vật nghỉ ngơi, đi vào giấc ngủ thì con người lại bắt đầu công cuộc lao động của mình. Con người lao động không mệt mỏi, luôn vững tinh thần, công việc dù có lặp lại nhưng không hề nhàm chán, vẫn mang đến những cảm giác phấn chấn, náo nức, say mê ở người ngư dân.

- Khổ 2: Những câu hát vui tươi cất lên đã sưởi ấm cái màn đêm tăm tối, khơi gợi niềm phấn khởi trong con người, xua đi những khó khăn mệt mỏi, mang lại một không khí lao động vô cùng hào hùng và lãng mạn. Người dân cất cao tiếng hát của bài ca lao động, gọi đàn cá đến giăng lưới. Việc người dân căng buồm ra khơi là công việc ngày đêm không ngừng nghỉ thể hiện sự chăm chỉ, cần cù, chịu thương chịu khó của họ.

- Khổ 3 và 4: Hình ảnh con thuyền đánh cá giữa đêm trăng, vừa mang vẻ đẹp lãng mạn, thi vị lại cũng vừa hào hùng và mạnh mẽ, đồng thời miêu tả dáng vẻ phì nhiêu, giàu có nơi biển cả.

- Khổ 5 + 6: Huy Cận miêu tả sự giàu có của thiên nhiên, biển cả với nhiều loại cá khác nhau, quẫy đuôi uốn lượn. Trước sự giàu có đó, người ngư dân cất cao bài ca gọi cá vào chài lưới. Không chỉ săn bắt hải sản, con người còn thể hiện tình yêu, sự biết ơn với biển cả thiên nhiên qua việc so sánh biển cả với lòng mẹ, nuôi dưỡng bao thế hệ con người nơi đây và giúp họ có cuộc sống tốt đẹp hơn.

- Khổ 7: "Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng", câu thơ vừa thể hiện chuyến ra khơi bội thu của những người nông dân, cũng thể hiện sức mạnh của họ trong công việc kéo lưới giữa biển khơi đầy vất vả. Sau khi kéo cá về, người nông dân thu xếp chài lưới cẩn thận và đón một ngày mới vui vẻ.

- Khổ 8: Vẻ đẹp lớn lao kì vĩ của người lao động sánh ngang với thiên nhiên, con người đã dần đứng lên trong công cuộc chinh phục thiên nhiên, họ có lòng tự tin, tinh thần hăng say lao động không ngừng nghỉ.

3. Kết bài

Khái quát lại giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm.

Dàn ý phân tích bài thơ Đoàn thuyền đánh cá mẫu 2

I. Mở bài

- Giới thiệu đôi nét về tác giả Huy Cận và bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá”:

Huy Cận nổi tiếng trong phong trào thơ mới với thơ “Lửa thiêng”, ông hay viết về thiên nhiên và vũ trụ, trước cách mạng thơ ông phảng phất buồn nhưng sau cách mạng hồn thơ Huy Cận trở nên ấm nóng, tươi vui

“Đoàn thuyền đánh cá” là bài thơ tiêu biểu của ông – là khúc tráng ca ca ngợi cuộc sống lao động làm chủ biển khơi làm chủ cuộc đời

II. Thân bài

1. Khúc hát ra khơi (khổ 1+2)

• Khổ 1:

- Hai câu đầu: Đoàn thuyền ra khơi trong cảnh hoàng hôn (2 câu thơ đầu)

Phép so sánh “mặt trời xuống biển” ví như “hòn lửa” cho thấy màu sắc đỏ rực và hình dạng tròn đầy của mặt trời

Nhà thơ liên tưởng vũ trụ như ngôi nhà lớn với màn đêm là cánh cửa còn sóng biển là then cài

⇒ Vũ trụ đang bước vào trạng thái nghỉ ngơi gợi sự bình yên, con người ra khơi vào thời điểm về đêm

- Hai câu sau: Dân chài cất cao tiếng hát tạo sự khỏe khoắn (2 câu thơ cuối)

Người dân chài ra khơi theo một tập thể - “Đoàn thuyền”

Từ “lại” cho thấy đó là một công việc thường xuyên, quen thuộc của họ, cứ màn đêm buông xuống thì họ lại ra khơi

Ẩn dụ “câu hát căng buồm” cho thấy câu hát cũng như có sức mạnh góp gió căng buồm đẩy con thuyền ra khơi

⇒ Vũ trụ bước vào trạng thái nghỉ ngơi thì con người bắt đầu ra khơi đánh cá với khí thế phơi phới và niềm vui đang chinh phục biển khơi

• Khổ 2: Câu hát thể hiện mong ước đánh nhiều cá và sự tự hào về sự giàu có của biển

“Cá bạc, cá thu” gợi sự giàu có phong phú của biển

So sánh “cá thu biển đông như đoàn thoi” – từng đàn cá lao trên mặt biển như đoàn thoi mang ánh sáng lấp lánh dệt muôn luồng sáng trên tấm thảm biển

Ẩn dụ, nhân hóa “đêm ngày dệt biển” tạo ra nhiều sắc màu chuyển động

Nhà thơ cất tiếng gọi cá thật dịu dàng “đến dệt lưới ta đoàn cá ơi”: vừa là lời gọi vừa là niềm mong ước đánh được nhiều cá vừa xen cả sự lạc quan tươi vui và tự hào về biển

2. Khúc hát đánh cá trên biển (khổ 3+4+5+6)

• Khổ 3: Người dân ra khơi với tư thế tầm vóc lớn lao

Nghệ thuật phóng đại “Lướt giữa mây cao với biển bằng”- con thuyền đánh cá vốn nhỏ bé giờ đây qua cái nhìn của tác giả đã sánh ngang tầm vũ trụ

Nghệ thuật ẩn dụ: “lái gió buồm trăng”: thiên nhiên hòa hợp, cùng con người lao động

⇒ Các biện pháp nghệ thuật trên làm nổi bật tầm vóc của con người và đoàn thuyền

Không khí lao động đang trở nên hứng khởi “Ra đậu dặm xa dò bụng biển”- mặc đêm tối, mặc gió khơi người dân chài vẫn ra khơi dò lồng cá trong lòng biển

Ẩn dụ: “Dàn đan thế trận”- cuộc sống đánh cá của người dân chài như một trận chiến đấu ác liệt

⇒ sự kết hợp giữa hiện thực (đoàn thuyền) với chất lãng mạn (thuyền lái gió, trăng treo trên cánh buồm) tạo nên những vần thơ đẹp và sâu sắc

• Khổ 4: Cảnh biển đẹp trong đêm

Nhà thơ đã liệt kê những loài cá quý của biển: cá nhụ, cá chim, cá đé cho thấy sự phong phú và quý giá của biển

Nhân hóa “Cái đuôi e quẫy” kết hợp với các tính từ chỉ màu sắc: làm cho lời thơ thêm sinh động

Phép so sánh “đuôi cá” với “ngọn đuốc”: hình ảnh so sánh thú vị giàu liên tưởng

Nhà thơ gọi cá bằng một cách gọi rất dịu dàng - “em” ẩn chứa sự yêu mến với cá và biển cả quê hương

“Đêm thở sao lùa nước Hạ Long”: Màn đêm trước biển như một sinh mệnh

⇒ Thiên nhiên trên biển đêm thực sự rực rỡ sắc màu như một bức tranh sơn mài

• Khổ 5: Tinh thần lao động hăng say và lòng biết ơn biển

“Ta hát bài ca gọi cá vào”: Người dân chài đã biến công việc nặng nhọc thành bài ca vui tươi ⇒ Tiếng hát của người dân chài có khả năng kì diệu là gọi cá vào lưới

⇒ bút pháp lãng mạn khi miêu tả giúp cho công việc đánh cá đêm trở nên thơ mộng

Những người dân chài vô cùng biết ơn biển cả “biển cho ta cá như lòng mẹ”

So sánh biển với lòng mẹ cho thấy biển nuôi sống nhân dân từ bao đời nay

⇒ Nói lên lòng tự hào và biết ơn biển

• Khổ 6: Cảnh thu hoạch cá

“Sao mờ kéo lưới kịp trời sáng”: người dân thu hoạch cá vào lúc trơi đã gần sáng hăng say.

“Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng”: công việc trở nên khẩn trương với hi vọng đón chờ chùm cá nặng, cho hình dung thấy những cánh tay sắn chắc, cuồn cuộn, tư thế hiên ngang, làn da nhuộm nắng gió, nhuộm cả vị mặn mòi của biển cả.

Kéo lưới lên là khi trời đã sáng, bình minh lên là kết thúc công việc đánh cá.

⇒ Bút pháp lãng mạn được sử dụng làm nổi bật vẻ thơ mộng khi đã kết thúc công việc đánh cá đêm.

“Vẩy bạc đuôi vàng lóe rạng đông”: mọi vật đều tràn ngập sức sống ⇒ Cảnh biển vào lúc mình minh bao la kì vĩ ⇒ Đoàn thuyền đang khẩn trương để trở về

3. Khúc ca khải hoàn (Khổ 7)

“Câu hát căng buồm với gió khơi”: gió thổi đưa câu hát của người dân chài bay cao, bay xa trên biển

“Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời”: Đoàn thuyền lướt sóng trở về như đua cùng thời gian để nhanh chóng trở về bến cảng.

⇒ Câu hát lúc trở về say sưa hơn bao giờ hết, vì một đêm lao động vất vả đã được đề đáp một cách xứng đáng.

“Mặt trời đội biển nhô màu mới”: niềm hi vọng, sự ngợi ca cuộc sống mới của người dân ngày càng ấm no, hạnh phúc, được làm chủ cuộc sống của mình.

Từ láy “huy hoàng”: là ánh sáng huy hoàng của niềm vui niềm tin vào một cuộc đời tốt đẹp.

⇒ Vẻ đẹp của con người, thiên nhiên hòa hợp nhuần nhuyễn thành vẻ đẹp thực sự tráng lệ

III. Kết bài

Khẳng định những giá trị nghệ thuật làm nên thành công của bài thơ: hình ảnh thơ đẹp, xây dựng bằng sự liên tưởng phong phú, âm hưởng mạnh mẽ, bút pháp lãng mạn xen hiện thực

Bài thơ là khúc hát ngợi ca con người lao động trên biển đồng thời là niềm say mê tự hào của con người làm chủ quê hương.

Phân tích vẻ đẹp người lao động trong bài thơ Đoàn thuyền đánh cá

1. Mở bài

Giới thiệu nhà thơ Huy Cận và bài thơ Đoàn thuyền đánh cá.

2. Thân bài

a. Khổ thơ 1 và 2:

Hoàn cảnh ra khơi: Buổi hoàng hôn ấm áp, yên bình.

Vũ trụ là một ngôi nhà lớn mà màn đêm là cánh cửa, ngọn sóng là then.

→ Giữa lúc thiên nhiên nghỉ ngơi thì con người lại bắt đầu công cuộc lao động của mình.

"Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi", từ "lại" vừa tạo ra sự đối lập giữa tứ thơ ở hai câu trên và hai câu thơ dưới, vừa biểu hiện sự lặp lại của công việc giống như mọi ngày, giống như bao nhiêu năm tháng đã đã qua đoàn thuyền đánh cá vẫn tiếp tục ra khơi không ngừng nghỉ.

Con người lao động không mệt mỏi, luôn vững tinh thần, công việc dù có lặp lại nhưng không hề nhàm chán vẫn mang đến những cảm giác, phấn chấn, náo nức, say mê ở người ngư dân.

b. Khổ 3:

Những câu hát vui tươi cất lên đã sưởi ấm cái màn đêm tăm tối, khơi gợi niềm phấn khởi trong con người, xua đi những khó khăn mệt mỏi, mang lại một không khí lao động vô cùng hào hùng và lãng mạn.

"Đến dệt lưới ta đoàn cá ơi!", câu hát với một tâm hồn ngập tràn niềm vui và sức sống, niềm trông đợi vào một mẻ lưới đầy. Cách xưng hô, thân thiết mời gọi ấy càng kéo gần khoảng cách giữa mẹ thiên nhiên và con người.

c. Khổ 4 và 5:

Hình ảnh con thuyền đánh cá giữa đêm trăng, vừa mang vẻ đẹp lãng mạn, thi vị lại vừa hào hùng và mạnh mẽ, đồng thời miêu tả sự giàu có nơi biển cả.

Con người không chỉ lao động bằng sức mạnh mà còn dựa vào lòng dũng cảm, sẵn sàng ra tận khơi xa "dò bụng bể", đồng thời còn vận dụng đầu óc để vạch ra kế hoạch rõ ràng, tạo "thế trận lưới vây giăng" sao cho được nhiều cá, tôm.

d. Khổ 6:

Vẻ đẹp của người ngư dân còn hiện lên thông qua tấm lòng yêu mến và trân trọng thiên nhiên. "Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng", câu thơ vừa thể hiện chuyến ra khơi bội thu của những người nông dân, cũng thể hiện sức mạnh của họ trong công việc kéo lưới giữa biển khơi đầy vất vả.

e. Khổ 7:

Khúc ca khải hoàn trở về với chuyến bội thu.

Vẻ đẹp lớn lao kì vĩ của người lao động sánh ngang với thiên nhiên, con người đã dần đứng lên trong công cuộc chinh phục thiên nhiên, họ có lòng tự tin, tinh thần hăng say lao động không ngừng nghỉ.

3. Kết bài

Khẳng định lại giá trị nội dung, nghệ thuật của tác phẩm.

Phân tích 2 khổ thơ đầu bài Đoàn thuyền đánh cá

1. Mở bài

Giới thiệu nhà thơ Huy Cận, bài thơ Đoàn thuyền đánh cá và dẫn dắt vào khổ thơ 1, 2 của bài thơ.

2. Thân bài

a. Khổ thơ thứ nhất

So sánh: mặt trời - hòn lửa: tạo cảm giác gần gũi, quen thuộc, khiến người đọc dễ hình dung.

Nhân hóa: sóng cài then, đêm sập cửa: khiến cho thiên nhiên trở nên sinh động, có hồn hơn.

Hoàn cảnh ra khơi: Buổi hoàng hôn ấm áp, yên bình.

Vũ trụ là một ngôi nhà lớn mà màn đêm là cánh cửa, ngọn sóng là then.

→ Giữa lúc thiên nhiên nghỉ ngơi thì con người lại bắt đầu công cuộc lao động của mình.

"Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi", từ "lại" vừa tạo ra sự đối lập giữa tứ thơ ở hai câu trên và hai câu thơ dưới, vừa biểu hiện sự lặp lại của công việc giống như mọi ngày, giống như bao nhiêu năm tháng đã đã qua đoàn thuyền đánh cá vẫn tiếp tục ra khơi không ngừng nghỉ.

Con người lao động không mệt mỏi, cất cao tiếng hát, luôn vững tinh thần, công việc dù có lặp lại nhưng không hề nhàm chán vẫn mang đến những cảm giác, phấn chấn, náo nức, say mê ở người ngư dân.

b. Khổ thơ thứ hai

Câu hát của người lao động gắn liền với biển khơi, với những loài cá (cá bạc, cá thu,…)

Sự giàu có của biển cả: cá thu như đoàn thoi, đêm ngày dệt biển,… Mẹ thiên nhiêu luôn ưu ái trao cho người dân lao động nơi đây những tinh hoa tốt đẹp nhất.

Khúc hát lao động hùng tráng của con người thể hiện tinh thần lạc quan, yêu đời, yêu lao động vô cùng đẹp đẽ của con người nơi đây.

3. Kết bài

Khái quát lại giá trị nội dung, nghệ thuật của 2 khổ thơ nói riêng và bài thơ nói chung.

IV. Văn mẫu phân tích bài thơ Đoàn thuyền đánh cá

Xuân Diệu đã từng mở đầu bài “Tựa” với những dòng viết đầy trang trọng và sâu sắc: “Đời xưa có một người thi sĩ lành như suối nước ngọt, hiền như cái lá xanh; gần chàng, người ta cảm nghe một nỗi hoà vui, như đứng giữa thiên nhiên, tâm hồn thơ thới…Ấy là Huy Cận đó - một thi sĩ thiên nhiên”. Có lẽ chúng ta đã từng bắt gặp Huy Cận với lớp sầu nơi đáy hồn nhân thế hay những lời than thầm, rền rĩ trước vạn vật. Nhưng đến với thi phẩm “Đoàn thuyền đánh cá”, ta sẽ gặp lại chàng Huy Cận ở một dáng vẻ khác trong sự chìm đắm với thiên nhiên lộng lẫy nơi biển cả quê hương và nét đẹp lao động của con người Việt Nam.

Hai khổ thơ đầu, tác giả viết về cảnh đoàn thuyền đánh cá ra khơi:

“Mặt trời xuống biển như hòn lửa,

Sóng đã cài then, đêm sập cửa.

Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,

Câu hát căng buồm cùng gió khơi.

Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng,

Cá thu biển Đông như đoàn thoi

Đêm ngày dệt biển muôn luồng sáng.

Đến dệt lưới ta, đoàn cá ơi!”

Thời điểm đoàn thuyền đánh cá ra khơi là lúc hoàng hôn buông xuống trên biển: “Mặt trời xuống biển như hòn lửa/Sóng đã cài then, đêm sập cửa”. Các hình ảnh so sánh, nhân hóa, ẩn dụ được nhà thơ sử dụng rất tài tình. Cách so sánh “như hòn lửa” gợi ra vẻ đẹp huy hoàng, mỹ lệ của mặt trời. Thiên nhiên trở nên có hồn, sinh động với những động tác “cài then”, “sập cửa”. Vũ trụ là một ngôi nhà rộng lớn, màn đêm là cánh cửa, những con sóng trập trùng là then cài. Khi thiên nhiên nghỉ ngơi lại là lúc con người bắt đầu công cuộc lao động hăng say. Khác với nhịp điệu êm đềm, du dương ở trên, hai câu thơ: “Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi/Câu hát căng buồm cùng gió khơi” mang nhịp điệu liền mạch, thể hiện khí thế mạnh mẽ, sự nhiệt huyết của những người ngư dân. Chữ “lại” cho thấy tâm thế chủ động, sự quen thuộc của con người với công việc. Con người làm chủ tự nhiên, tràn đầy hứng khởi cất lên khúc hát tưng bừng. Dường như câu hát cũng chứa đựng sức mạnh phi thường, cùng với gió thổi căng cánh buồm, đẩy đoàn thuyền ra khơi. Ba sự vật và hiện tượng gồm cánh buồm, gió và câu hát kết hợp với nhau bằng biện pháp tu từ ẩn dụ khiến câu thơ trở nên vừa khỏe khoắn, chân thực lại vừa lãng mạn, hào hùng.

Tâm tư của người ngư dân được gửi gắm ở khổ thơ thứ hai. Trong lời hát của họ xuất hiện hình ảnh “cá bạc”, “cá thu như đoàn thoi” cho thấy tình yêu đối với công việc. Con tàu của họ dệt nên những câu chuyện của biển cả, mang sự hạnh phúc cho đời sống, lời ca của họ tỏa rạng “muôn luồng sáng” giữa màn đêm. Khơ thơ thể hiện trọn vẹn niềm vui tươi, sự say mê và phác họa nên cái giàu đẹp của biển cả quê hương.

Sang bốn khổ thơ tiếp theo, ta lắng nghe khúc hát đánh cá trên biển của đoàn thuyền. Chính sự tinh tế trong cảm xúc, óc quan sát tài tình đã giúp nhà thơ phát hiện những vẻ đẹp của cảnh đánh cá trên biển trong đêm trăng. Điểm nhìn của nhân vật trữ tình là điểm nhìn di động, được đặt trên con thuyền nên cảnh và người được miêu tả rất chân thực, hùng tráng và thơ mộng. Đầu tiên, đoàn thuyền lướt sóng để tìm luồng cá, bủa lưới vây giăng:

“Thuyền ta lái gió với buồm trăng

Lướt giữa mây cao với biển bằng,

Ra đậu dặm xa dò bụng biển,

Dàn đan thế trận lưới vây giăng.”

Con thuyền tưởng như nhỏ bé giữa thiên nhiên bao la nay lại hiện lên kỳ vĩ, hào hùng, tràn đầy sức sống, mang tầm vóc vũ trụ. Con người và tự nhiên không đối chọi mà gắn bó, hòa quyện với nhau. Gió trời như vươn cánh tay chèo lái con thuyền khiến tầm vóc của chủ nhân của con thuyền - người đánh cá cũng trở nên sánh ngang với trời đất. Ánh trăng đêm chiếu rọi trên cánh buồm tạo thành “buồm trăng” đầy thi vị. Con người nổi bật ở vị trí trung tâm của bức tranh, chinh phục cả đất trời, biển lớn. Những chi tiết “đậu dặm xa”, “dò bụng biển”, “đan thế trận” cho thấy những hoạt động cụ thể của đoàn thuyền đánh cá trong cuộc đấu gay cấn với thiên nhiên. Từ đó, đoạn thơ cho thấy sự hăng hái, lòng dũng cảm, niềm say mê với nghề nghiệp cùng trí tuệ tinh anh nơi những người ngư dân.

Khổ thơ thứ tư mở ra trong mắt người đọc khung cảnh giàu đẹp của biển cả. Cái đẹp đẽ, trù phú của biển khơi đã tô điểm thêm bức tranh lao động:

“Cá nhụ cá chim cùng cá đé,

Cá song lấp lánh đuốc đen hồng,

Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe.

Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.”

Biện pháp liệt kê cho thấy sự phong phú của biển cả quê hương và tầm am hiểu sâu sắc của tác giả. Các loại cá vừa đa dạng, vừa quý hiếm lại rất đẹp. Nào cá nhụ, cá chim, cá đé rồi cá song. Hình ảnh ẩn dụ “Cá song lấp lánh đuốc đen hồng” đã tả thực hình dáng loài cá song, trên thân có những chấm nhỏ màu đen hồng nhưng cũng tạo nên sự lộng lẫy, kỳ vĩ cho cảnh vật, gợi hình ảnh cả đàn cá song như một cây đuốc lấp lánh giữa trời đêm. Nghệ thuật nhân hóa “Cái đuôi em quẫy trăng vàng chóe” với cách gọi “em” thân thương cho thấy tình yêu của tác giả dành cho biển cả và miêu tả hoạt động quẫy đuôi của một chú cá. Hình ảnh đẹp lung linh, huyền ảo như bước ra từ trang cổ tích. Đặc sắc nhất chính là câu thơ cuối: “Đêm thở: sao lùa nước Hạ Long.” Một lần nữa, Huy Cận lại thành công với biện pháp nhân hóa, truyền cho thiên nhiên hơi thở sống động. Tác giả tả nhịp điệu dập dìu của sóng mà gợi ra cả nhịp thở của vũ trụ. Biển mang một tâm hồn, sức sống riêng.

Khổ thơ thứ năm là cảnh gõ thuyền xua cá vào lưới:

“Ta hát bài ca gọi cá vào,

Gõ thuyền đã có nhịp trăng cao.

Biển cho ta cá như lòng mẹ

Nuôi lớn đời ta tự buổi nào.”

Thiên nhiên cũng góp vui vào khúc nhạc của con người, cùng ngư dân gõ những nhịp phách rộn ràng cho công việc. Trăng in xuống nước, sóng đánh từng nhịp xô bóng trăng tạo cảm giác như gõ vào mạn thuyền. Cách so sánh “Biển cho ta cá như lòng mẹ” thể hiện niềm tự hào, trân trọng và biết ơn của người ngư dân với biển cả quê hương. Biển cả cung cấp cho con người biết bao điều quý giá, nuôi dưỡng con người “tự buổi nào” như một người mẹ ân tình. Mở rộng ra, tình yêu với biển cũng chính là tình yêu sâu nặng với quê hương đất nước.

Đến khổ thơ thứ sáu, thời gian lúc này là khi đêm tàn, những ngôi sao dần lui về nhường chỗ cho ánh sáng:

“Sao mờ, kéo lưới kịp trời sáng

Ta kéo xoăn tay chùm cá nặng.

Vảy bạc đuôi vàng loé rạng đông,

Lưới xếp buồm lên đón nắng hồng.”

Khung cảnh lao động như một bức tranh sơn mài rực rỡ. Chi tiết “kéo xoăn tay chùm cá nặng” làm nổi bật dáng vẻ gân guốc, cường tráng, khỏe khoắn đồng thời cho thấy đây là một mẻ cá bội thu. Các hình ảnh “vẩy bạc”, “đuôi vàng” gợi lên hình ảnh cá đầy ắp trong khoang thuyền, dấu hiệu của một cuộc sống đủ đầy, hạnh phúc. Công sức lao động của con người đã thu về những thành quả xứng đáng. Ánh nắng hồng rực rỡ tỏa rạng, chào đón con người trở về sau công cuộc chinh phục thiên nhiên vĩ đại.

Khổ thơ cuối chính là khúc ca khải hoàn tràn đầy khí thế:

“Câu hát căng buồm với gió khơi,

Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.

Mặt trời đội biển nhô màu mới,

Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.”

Câu đầu của khổ cuối và câu cuối của khổ đầu chỉ khác nhau ở chữ “cùng” và “với” gợi lên điệp khúc của cả bài. Tiếng hát của đoàn thuyền đánh cá ngân vang từ khi khởi hành tới khi trở về. Đoàn thuyền trở về trong tư thế chiến thắng, hào hùng, ngập tràn niềm vui phơi phới. Câu thơ thứ hai lại một lần nữa nhấn mạnh tầm vóc sánh ngang vũ trụ của con người. Hình ảnh “Mặt trời đội biển nhô màu mới” đem đến cảm giác tươi sáng, trong trẻo mà hết sức rực rỡ, mới mẻ của buổi bình minh. Đó còn là ẩn dụ cho tương lai tươi sáng của đất nước, niềm tin của con người vào cuộc sống mới. Lời thơ kết bài đẹp lung linh, không chỉ tả thực ánh rạng đông huy hoàng phản chiếu trong muôn triệu mắt cá mà còn mở ra cái nhìn “muôn dặm” tràn đầy hân hoan.

Bài thơ có nhiều sáng tạo trong việc sử dụng thể thơ bảy chữ, nhịp thơ linh hoạt , giọng điệu hào hùng tươi vui, các hình ảnh thơ giàu sự liên tưởng độc đáo và các biện pháp nghệ thuật nhân hóa, so sánh, liệt kê, ẩn dụ, hoán dụ.

Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá” đã truyền cho người đọc một niềm tin mãnh liệt và sức sống mới mẻ, giúp ta càng thêm yêu và trân quý những người lao động, những con người cần cù, dũng cảm. Đồng thời, những vần thơ ấy đã khơi gợi biết bao lòng tự hào về quê hương mình. Huy Cận đúng là "một người của đời, một người ở giữa loài người", thơ ông đẹp đẽ biết bao khi chứa đựng hương vị quê hương và cuộc sống con người! Thật hãnh diện biết bao về mảnh đất yêu dấu đã sinh thành nên hồn thơ vĩ đại ấy:

“Tôi sinh ra ở vùng cao

có những ngọn núi như xương

trường mở làm mới làn da

Gió từ sông như hồn bay”

V. Mở bài phân tích bài thơ Đoàn thuyền đánh cá

Mở bài phân tích bài thơ Đoàn thuyền đánh cá mẫu 1

Thiên nhiên và con người đều có những vẻ đẹp vô tận riêng chưa bao giờ hết làm rung động trái tim con người. Đã có rất nhiều tác giả thành công khi khai thác đề tài này và trong số đó ta không thể không nhắc đến nhà thơ Huy Cận với bài thơ Đoàn thuyền đánh cá. Với ngòi bút tài hoa của mình, tác giả đã vẽ ra trước mắt bạn đọc một bức tranh tuyệt mĩ giữa con người và biển cả.

Mở bài phân tích bài thơ Đoàn thuyền đánh cá mẫu 2

Huy Cận được biết đến là nhà tài năng với sức sáng tạo bền bỉ không ngừng cùng rất nhiều tác phẩm nổi tiếng. Một trong số đó ta không thể không nhắc đến bài thơ Đoàn thuyền đánh cá, bài thơ đã khắc họa rõ nét, chi tiết vẻ đẹp hòa hợp giữa thiên nhiên và con người miền biển để mang đến cho bạn đọc những cảm xúc mới mẻ nhất, ấn tượng nhất.

Mở bài phân tích bài thơ Đoàn thuyền đánh cá mẫu 3

Kho tàng văn học Việt Nam có rất nhiều tác phẩm hay, nổi tiếng mang những giá trị nhân văn sâu sắc, một trong số đó ta không thể không nhắc đến tác phẩm Đoàn thuyền đánh cá của nhà thơ Huy Cận. Với ngòi bút tài hoa của mình, Huy Cận đã vẽ ra trước mắt bạn đọc một bức tranh thiên nhiên miền biển dồi dào sức sống vô cùng đáng quý, đáng yêu và để lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong lòng lớp lớp các thế hệ độc giả.

Mở bài phân tích Đoàn thuyền đánh cá - Mẫu 4

Nổi tiếng từ phong trào Thơ mới, Huy Cận đến với nền thơ với lời thơ thấm thía bao nỗi buồn, tràn ngập cái sầu nhân thế. Thiên nhiên trong tập thơ thường bao la, hiu quạnh, đẹp nhưng thường buồn. Nỗi buồn đó dường như vô cớ, siêu hình. Nhưng xét đến cùng, chủ yếu là buồn thương về cuộc đời, kiếp người, về quê hương đất nước. Hồn thơ "ảo não", bơ vơ đó vẫn cố tìm được sự hài hòa và mạch sống âm thầm trong tạo vật và cuộc đời.

---------------------------

Tài liệu về tác phẩm Đoàn thuyền đánh cá

Mời các bạn tham khảo thêm tài liệu: Soạn văn lớp 9 ,Tài liệu học tập lớp 9

Đánh giá bài viết
88 141.189
Sắp xếp theo

    Tác giả - Tác phẩm Ngữ văn 9

    Xem thêm