Phần 1: Từ đầu đến “làm ăn sinh sống” đây là hành trình trở về quê hương của nhân vật “tôi”.
Phần 2: Tiếp đến “mang đi sạch trơn”: Nói về hình ảnh quê hương và con người trong quá khứ và thực tại của nhân vật.
Phần 3: Còn lại: Những suy nghĩ của nhân vật tôi trên đường ra đi.
Đoạn văn tự sự kể theo ngôi thứ ba:
Ông lão vờ vờ đứng lảng ra chỗ khác, rồi đi thẳng. Tiếng cười nói xôn xao của đám người tản cư lên ấy vẫn dõi theo.
…
Ông Hai cúi gằm mặt xuống mà đi. Ông thoáng nghĩ đến mụ chủ nhà.
(Làng- Kim Lân)
=> Người kể chuyện giấu mặt, không tham dự vào câu chuyện.
Đoạn văn tự sự kể theo ngôi thứ nhất:
Trong giờ phút cuối cùng, không còn đủ sức trăng trối lại điều gì, hình như chỉ có tình cha con là không thể chết được, anh đưa tay vào túi móc cây lược đưa cho tôi và nhìn tôi một hồi lâu. Tôi không đủ lời lẽ để tả lại cái nhìn ấy… đôi mắt của anh.
(Chiếc lược ngà)
– Vai trò kể theo ngôi thứ nhất: sự kiện, nhân vật được nhìn dưới mắt nhân vật tôi với những nhận xát, cảm xúc chủ quan nên sinh động nhưng cũng có thể phiến diện, một chiều trong cách nhìn, đánh giá.
– Vai trò của người kể theo ngôi thứ ba: tất cả được đánh giá theo điểm nhìn của tác giả. Tuy nhiên, đối với một số tác phẩm hiện đại, người kể chuyện có thể đứng ở nhiều điểm nhìn, do đó sự kiện, nhân vật hiện lên ở nhiều chiều, nhiều cách đánh giá.
– Nội dung chính của văn bản tự sự là kể chuyện (hay trần thuật), bao gồm các yếu tố: các sự kiện, nhân vật, người kể chuyện. Bên cạnh đó còn có miêu tả, nghị luận.
– Miêu tả nội tâm trong văn tự sự làm cho những suy nghĩ, cảm xúc của nhân vật bộc lộ ra ngoài.
– Nghị luận trong văn bản tự sự vừa có thể bộc lộ tính cách, vừa thấy được quan điểm, thái độ đánh giá của tác giả đối với sự việc ấy.
Các ví dụ:
- Đoạn văn tự sự sử dụng yếu tố miêu tả nội tâm:
“Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.”
(Kiều ở lầu Ngưng Bích – Truyện Kiều – Nguyễn Du)
- Đoạn văn tự sự dùng yếu tố nghị luận:
“Tôi nghĩ bụng: Đã gọi là hi vọng thì không thể nói đâu là thực đâu là hư. Cũng giống như những con đường trên mặt đất, kì thực trên mặt đất vốn làm gì có đường. Người ta đi mãi thì cũng thành đường thôi”.
(Cố hương – Lỗ Tấn)
- Đoạn văn sử dụng kết hợp yếu tố miêu tả nội tâm và nghị luận:
“Thứ suy rộng ra và chua chắn nhận ra rằng cái sự buồn cười ấy là bất thương, chẳng riêng gì nhà ý mà có lẽ chung cho khắp mọi nơi. Bao giờ và ở đâu cũng thế thôi. Thằng nào chịu khổ quen rồi thì cứ mà chịu mãi đi! Mà thương những kẻ ăn nhiều nhất, hưởng nhiều nhất thì lại chính là những kẻ không cần ăn một tí nào hoặc không đáng hưởng một ly nào”.
(Sống mòn, Nam Cao)
So sánh giữa văn bản thuyết minh có yếu tố miêu tả, tự sự và văn bản miêu tả, tự sự:
- Giống nhau: mục đích để hiểu rõ về đối tượng, đề tài.
- Khác nhau:
+ Thuyết minh phản ánh chính xác, khách quan, trung thành với đối tượng; hạn chế sử dụng yếu tố tưởng tượng, sử dụng nhiều đến số liệu, sử dụng miêu tả và tự sự với mục đích làm rõ vấn đề, đối tượng thuyết minh.
+ Miêu tả, tự sự: có thể phát huy tính tưởng tượng, hư cấu, thường sử dụng nhiều thủ pháp nghệ thuật. Chỉ đơn thuần là tả và kể.
- Vai trò, vị trí, tác dụng của biện pháp nghệ thuật và yếu tố miêu tả: vai trò thứ yếu, làm cụ thể, sinh động hơn cho bài văn thuyết minh.
- Ví dụ thuyết minh về ngôi chùa Cổ: Giải thích kết cấu, những đặc điểm kiến trúc, hoặc giải thích khái niệm nào đó trong quan niệm của nhà Phật thể hiện ở cấu trúc ngôi chùa. Miêu tả để người nghe hình dung ra dáng vẻ, màu sắc, không gian hình khối, cảnh vật chung quanh ngôi chùa.
- Những nội dung lớn:
+ Văn bản thuyết minh; kết hợp giữa thuyết minh với miêu tả, lập luận và một số biện pháp nghệ thuật.
+ Văn bản tự sự: Kết hợp tự sự với miêu tả và đối thoại, độc thoại, độc thoại nội tâm trong tự sự; người kể và ngôi kể trong văn bản tự sự.
- Nội dung trọng tâm: Văn bản tự sự.
- Phép tu từ nói quá là cách nói quá mức sự thật (số lượng, mức độ) để diễn tả được sự thật (về bản chất). Như vậy ở đây, chỉ trừ ba trường hợp (đẹp tuyệt vời, không một ai có mặt, sợ vã mồ hôi), còn lại đều là nói quá.
- Cách nói có sử dụng phép nói quá:
▪️ đẹp tuyệt vời
▪️ một tấc đến trời
▪️ một chữ bẻ đôi không biết
a. Đoạn thơ dùng ba lần phép so sánh liên tiếp hai dãy núi Trường Sơn như hai con người, như hai miền Nam – Bắc, như hai hướng của một dải rừng. Tất cả thể hiện sự gắn bó không gì có thể chia cắt dù có sự khác biệt với nhau.
b. Ẩn dụ ngầm vì tâm hồn con người như dây đàn làm cho lòng người xao xuyến thể hiện tâm hồn nhạy cảm, dễ rung động trước mọi vẻ đẹp cuộc đời, một người một cách hoàn toàn hơn.
c. Biện pháp nhân hóa kết hợp điệp ngữ: tre, giữ, anh hùng được lặp lại nhiều lần tạo sự nhẹ nhàng câu văn, nhấn mạnh vai trò cây tre trong cuộc kháng chiến cứu nước.
a. - Lời dẫn trực tiếp: Có lẽ các bà đều rất tốt, bà tớ ngày trước cũng rất tốt...
- Lời dẫn gián tiếp: Ngày trước, trước kia, đã có thời...
- Không phải là lời dẫn : Cuộc sống buồn tẻ của chúng; về những con chim tôi bẫy được đang sống ra sao và nhiều chuyện trẻ con khác; tôi kể chuyện cổ tích.
b. Nhân vật “thằng lớn” dùng từ có lẽ vì nhân vật chưa dám khẳng định chắc chắn điều mình nói (các bà đều rất tốt) => Tuân thủ phương châm hội thoại về chất.
- Lời dẫn trực tiếp: "Mã Giám Sinh", "Huyện Lâm Thanh cũng gần", "Mua ngọc đến Lam Kiều ...Sính nghi xin dạy bao nhiêu cho tường”, "Giá đáng nghìn vàng ... Dớp nhà nhờ lượng người thương dám nài”.
- Cách xưng hô, nói năng của Mã Giám Sinh vừa trịnh thượng, vô học, vừa kiểu cách giả tạo. Lời của mụ mối đưa đẩy, vòng vo, nhún nhường giả tạo, đúng là kẻ chuyên nghề mối lái.
Những từ láy nao nao, nho nhỏ, sè sè, rầu rầu vừa tả cảnh, vừa tả tâm trạng nhân vật. Nó gợi vẻ hoang vắng, buồn tẻ của ngôi mộ vô chủ và tâm trạng nao nao buồn của ba chị em Thúy Kiều vào thời điểm cuối ngày hội đạp thanh đồng thời báo hiệu một sự kiện sắp xảy ra. Sè sè, rầu rầu trong câu thơ đã diễn tả được tâm trạng se sắt, rầu rĩ của Thúy Kiều trước số phận một con người tài sắc bạc mệnh, như báo hiệu cho một số phận đầy biến động và lo âu của nàng sau này.