Theo Nghị định 147/2024/ND-CP, bạn cần xác thực tài khoản trước khi sử dụng tính năng này. Chúng tôi sẽ gửi mã xác thực qua SMS hoặc Zalo tới số điện thoại mà bạn nhập dưới đây:
- Nghệ thuật sử dụng ngôn từ hết sức điêu luyện, sử dụng tiếng nói của dân tộc (Là tác phẩm truyện thơ Nôm). Trong truyện Kiều, ngôn ngữ dân tộc đã đạt đến đỉnh cao rực rỡ. Ngôn ngữ trong sáng, chuẩn mực, giàu sức gợi cảm, chính xác, đẹp đẽ (ngôn ngữ tả vẻ đẹp chị em Thuý Kiều, ngôn ngữ tả cảnh ngày xuân), có sự kết hợp hài hoà giữa ngôn ngữ dân gian và ngôn ngữ bác học.
- Nghệ thuật tả cảnh thiên nhiên nổi lên hai nét chính:
+ Trực tiếp tả cảnh thiên nhiên bằng bút pháp ước lệ.
+ Tả cảnh để ngụ tình - Nghệ thuật miêu tả nhân vật (Nguyễn Du có biệt tài miêu tả nhân vật).
- Nghệ thuật miêu tả nhân vật:
Khắc họa nhân vật bằng bút pháp ước lệ, tượng trưng (Chị em Thúy Kiều được so sánh với vẻ đẹp thiên nhiên).
Khắc họa tính cách nhân vật điển hình qua miêu tả ngoại hình, ngôn ngữ, cử chỉ. Chỉ bằng vài ba dòng thơ, tác giả đã tái hiện được chân dung nhân vật (Mã Giám Sinh – Ghế trên ngồi tót sỗ sàng, mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao)
Miêu tả đời sống nội tâm nhân vật thông qua ngôn ngữ đối thoại và nghệ thuật tả cảnh ngụ tình (Kiều ở lầu Ngưng Bích).
- Khẳng định, đề cao con người (Chị em Thúy Kiều)
- Lên án, tố cáo thế lực tàn bạo chà đạp lên con người (Mã Giám Sinh mua Kiều)
- Thương cảm trước những đau khổ, bi kịch của con người (Mã Giám Sinh mua Kiều, Kiều ở lầu Ngưng Bích).
- Đề cao tấm lòng nhân hậu, đề cao ước mơ công lý chính nghĩa (Thúy Kiều báo ân báo oán).
♦ Thời đại, gia đình và cuộc đời Nguyễn Du:
– Thời đại:
+ Đó là giai đoạn cuối thế kỉ XVIII – đầu thế kỉ XIX với nhiều biến cố.
+ Đây là giai đoạn lịch sử đầy biến động với hai đặc điểm nổi bật: chế độ phong kiến Việt Nam khủng hoảng trầm trọng, bão táp phong trào nông dân khởi nghĩa nổi lên khắp nơi, đỉnh cao là khởi nghĩa Tây Sơn đánh đổ các tập đoàn phong kiến Lê, Trịnh, Nguyễn, quét sạch hai mươi vạn quân Thanh xâm lược.
+ Trong hoàn cảnh ấy, Nguyễn Du đã sống phiêu bạt nhiều năm trên đất Bắc rồi về ở ẩn tại quê nội Hà Tĩnh , sau đó lại làm quan cho triều Nguyễn.
– Gia đình:
+ Nguyễn Du sinh ra trong một gia đình đại quý tộc, nhiều đời làm quan và có truyền thống về văn học.
+ Cha là Nguyễn Nghiễm, đỗ tiến sĩ, từng giữ chức Tể tướng.
+ Anh cùng cha khác mẹ là Nguyễn Khản cũng từng làm quan to dưới triều Lê – Trịnh.
– Cuộc đời:
+ Nguyễn Du là người có kiến thức sâu rộng, am hiểu văn hóa dân tộc và văn chương Trung Quốc.
+ Cuộc đời từng trải, đi nhiều, tiếp xúc nhiều đã taọ cho Nguyễn Du một vốn sống phong phú và niềm cảm thông sâu sắc với những đau khổ của nhân dân.
+ Nguyễn Du là một thiên tài văn học, một nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn.
+ Nhân cách cao đẹp.
♦ Tóm tắt “Truyện Kiều”:
Là con gái một gia đình trung lưu lương thiện, Thuý Kiều sống bên cạnh cha mẹ và hai em là Thuý Vân, Vương Quan. Trong ngày hội Đạp Thanh, gần nấm mồ Đạm Tiên – một hình ảnh báo hiệu định mệnh oan nghiệt sau này của nàng- Thuý Kiều gặp Kim Trọng. Mối tình đầu chớm nở. Nhân nhặt được chiếc thoa rơi của Thuý Kiều, Kim Trọng bày tỏ nỗi lòng với Kiều và hai bên đính ước.
Khi Kim Trọng về quê hộ tang chú, gia đình Kiều bị vu oan, cha và em bị bắt. Kiều phải bán mình chuộc cha.
Lần lượt bọn buôn người Mã Giám Sinh, Sở Khanh, Tú Bà dùng mọi thủ đoạn lừa gạt, dồn Thuý Kiều vào cuộc sống ô nhục. Nàng được Thúc Sinh, một khách làng chơi hào phóng, yêu thương và cứu vớt ra khỏi cuộc sống ở lầu xanh. Vợ cả Thúc Sinh là Hoạn Thư bày mưu bắt Kiều về hành hạ và đày đoạ nàng. Kiều trốn đến nương nhờ Sư Giác Duyên ở nơi cửa Phật. Sợ bị liên luỵ, Giác Duyên gửi nàng cho Bạc Bà, không ngờ Bạc Bà lại lừa bán nàng cho một chủ lầu xanh. Ở đây, nàng gặp người anh hùng Từ Hải. Từ Hải chuộc nàng về làm vợ. Khi sự nghiệp thành, Từ Hải giúp Kiều báo ân báo oán. Do mắc lừa Hồ Tôn Hiến, tên đại thần tráo trở, Từ Hải bị giết. Kiều bị nhục phải hầu rượu, đánh đàn trong tiệc mừng công của quân triều rồi lại bị ép gả cho một viên thổ quan. Đau xót và tủi nhục, Kiều nhảy xuống sông Tiền Đường tự tử nhưng lại được Giác Duyên cứu. Lần thứ hai, Kiều nương nhờ nơi cửa Phật.
Kim Trọng sau khi hộ tang chú, chàng trở lại tìm người yêu. Hay tin thảm khốc, Kim Trọng vô cùng đau đớn. Theo lời dặn của Kiều, cha mẹ Kiều cho Thuý Vân kết duyên với Kim Trọng. Không nguôi tình xưa, Kim Trọng lặn lội tìm kiếm và chàng đã gặp lại Kiều, cả gia đình đoàn tụ. Trong ngày đoàn viên vui vẻ, để bảo vệ ” danh tiết” và tỏ lòng kính trọng người yêu, Kiều đổi tình vợ chồng thành tình bạn.
* Người anh hùng với lý tưởng đạo đức cao đẹp qua hình tượng Lục Vân Tiên (Lục Vân Tiên cửu Kiều Nguyệt Nga).
+ Lý tưởng theo quan niệm tích cực của Nho gia: “Nhớ câu kiến ngãi bất vi - Làm người thế ấy củng phi anh hùng”.
+ Lý tưởng theo quan niệm đạo lý của nhân dân: trừng trị cái ác, cứu giúp những người hoạn nạn.
* Người anh hùng dân tộc qua hình tượng Nguyễn Huệ trong Quang Trung đại phá quân Thanh.
+ Lòng yêu nước nồng nàn:
+ Quả cảm, tài trí:
+ Nhân cách cao đẹp;
- Ăn chơi xa hoa, trụy lạc (Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh).
- Hèn nhát, thuầnn phục ngoại bang một cách nhục nhã (Hoàng Lê nhất thống chí.
- Giả dối, bất nhân, vì tiền mà táng tận lương tâm (Mã Giám Sinh mua Kiều).
Người phụ nữ qua Chuyện người con gái Nam Xương và Truyện Kiều :
Vẻ đẹp người phụ nữ:
- Nhan sắc tài năng: chị em Thúy Kiều nghiêng nước nghiêng thành, Kiều thì thông minh thiên bẩm, giỏi về cầm kì thi họa. Vũ Nương tư dung tốt đẹp.
- Tâm hồn, tình cảm:
▪️ Hiếu thảo, thủy chung: Thúy Kiều luôn nhớ thương Kim Trọng, bán mình cứu cha và em. Vũ Nương thủy chung , luôn giữ khuôn phép, chăm sóc mẹ chồng.
▪️ Khát vọng tự do, chính nghĩa: Thúy Kiều báo ân, báo oán phân minh. Vũ Nương lấy cái chết bày tỏ trong sạch, nhờ Phan Lang nói với chồng lập đàn giải oan.
Bi kịch số phận:
- Chịu đau khổ, oan khuất: Vũ Nương bị nghi oan, không minh oan được, phải gieo mình xuống dòng Hoàng Giang. Kiều phải trải qua bao dâu bể cuộc đời.
- Tình yêu tan vỡ: Tình yêu Thúy Kiều với Kim Trọng tan vỡ.
- Nhân phẩm bị chà đạp: Vũ Nương bị chồng nghi oan.Thúy Kiều bị coi như một món hàng đem ra mua bán, bị giam hãm trong nỗi cô đơn tuyệt vọng.
Ở khổ thơ thứ hai, tác giả đã diễn tả những khó khăn khi chiếc xe mất đi tấm kính chắn:
Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng
Nhìn thấy con đường chạy thẳng vảo tim
Thấy sao trời và đột ngột cánh chim
Như sa như ùa vào buồng lái.
Thiếu đi kính xe cũng đồng nghĩa với việc những người lính lái xe gặp phải rất nhiều những trở ngại trong quá trình làm nhiệm vụ chi viện. Không có kính khiến cho những cơn gió mang theo bụi đất nơi chiến trường lùa vào buồng lái, làm cho những đôi mắt cay xè,trở ngại tầm nhìn của những người lính lái xe “Nhìn thấy gió vào xoa mắt đắng”. Con đường phía trước như “chạy thẳng vào tim” người chiến sĩ, đó là con đường giải phóng miền Nam đang chờ ở phía trước. Không còn kính, bầu trời đầy sao và những cánh chim “như sa như ùa vào buồng lái”. Thiên nhiên như những người bạn đồng hành cùng các anh ra chiến trận.
Đó là những cảm giác, những ấn tượng được tác giả diễn tả sinh động, chân thật, thể hiện tinh thần lạc quan của người lính. Hình ảnh vè những chiếc xe không kính ấy không chỉ tái hiện lại những gian khổ, khó khăn của một thời kì lịch sử đầy dữ dội của dân tộc mà còn làm nổi bật lên tinh thần yêu nước cùng quyết tâm giải phóng miền Nam của những người lính cụ Hồ trong kháng chiến.
Qua hình ảnh người lính trong bài thơ, có thể cảm nhận được phẩm chất anh hùng, khí phách dũng cảm, bất chấp gian nguy và hồn nhiên yêu đời của thế hệ trẻ thời kỳ kháng chiến chống Mĩ.
So với hình ảnh người lính trong bài Đồng chí, hình ảnh người lính trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính được xem như sự nối tiếp phẩm chất anh hùng của các thế hệ anh bộ đội Cụ Hồ qua các cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ oanh liệt của nhân dân ta.
Ngôn ngữ giọng điệu của bài thơ đã góp phần quan trọng trong việc khắc họa hình ảnh người chiến sĩ lái xe Trường Sơn. Giọng thơ ngang tàng có cả chất nghịch ngợm phù hợp với đối tượng miêu tả là những chàng trai trong chiếc xe không có kính:
“Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi”
Giọng điệu ấy làm cho lời thơ gần với lời văn xuôi, lời đối thoại, rất tự nhiên nhưng vẫn rất thú vị, rất thơ.
Hình ảnh người lính lái xe trên tuyến đường Trường Sơn:
- Tư thế ung dung, hiên ngang, sảng khoái đến bất tận Ung dung buồng lái ta ngồi ... ùa vào buồng lái.
- Thái độ bất chấp khó khăn, nguy hiểm Không có kính ừ thì có bụi...ừ thì ướt áo... mặc kệ gió vào mắt, mặc kệ mưa bom, xe vẫn cứ đi.
- Tình đồng đội thắm thiết: bắt tay qua cửa kính vỡ, chia sẻ khó khăn.
- Ý chí chiến đấu vì miền Nam: một trái tim căm thù giặc, quyết tâm chiến đấu.