Theo Nghị định 147/2024/ND-CP, bạn cần xác thực tài khoản trước khi sử dụng tính năng này. Chúng tôi sẽ gửi mã xác thực qua SMS hoặc Zalo tới số điện thoại mà bạn nhập dưới đây:
Mở đầu bài thơ, tác giả Huy Cận mở ra trước mắt người đọc cảnh bao la, rộng lớn và tâm thế hào hứng trước khi ra khơi của ngư dân.
Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then đêm sập cửa.
Biện pháp so sánh làm nổi bật vẻ đẹp rực rỡ, tráng lệ của buổi hoàng hôn trên biển. Dường như vũ trụ chuyển mình vào trạng thái nghỉ ngơi “sóng cài then”, “đêm sập cửa”. Thiên nhiên vũ trụ đi vào trạng thái nghỉ ngơi không tàn lụi, ngược lại, rất huy hoàng. Chính trong khung cảnh đó, hình ảnh con thuyền đánh cá ra khơi, chứa đựng niềm cảm hứng yêu đời, say mê lao động của ngư dân. Họ với công việc quá quen thuộc “lại ra khơi” đầy hào hứng và say mê, hóa thân trong “khúc hát căng buồm cùng gió khơi”. Sự hòa quyện đẹp đẽ, trữ tình giữa thiên nhiên, vũ trụ với người lao động cho thấy niềm thiết tha yêu đời, lạc quan của những người làm chủ tương lai, đất nước.
Qua những bức tranh về thiên nhiên và con người lao động trong bài thơ, tác giả đã thể hiện tình yêu say đắm, mãnh liệt trước biển khơi bao la hùng vĩ, giàu có vô tận. Biển cả là những cảnh đẹp làm say đắm lòng người, biển còn là nguồn sống, mang lại cuộc đời no ấm cho những người ngư dân. Con người trong thời đại mới hăng hái say mê lao động, làm chủ thiên nhiên, xây dựng cuộc sống mới. Tâm trạng sôi nổi, vui tươi, khỏe khoắn của con người giữa bức tranh thiên nhiên tráng lệ là sự hòa quyện, là sức sống mới đang được dựng xây trên vùng đất mới. Cảm xúc của tác giả là sự ngập tràn hi vọng về một cuộc sống mới đang bắt đầu
a) Nhiều từ "hát" được nhắc lại trong bài thơ:
- Câu hát căng buồm cùng gió khơi.
- Hát rằng: cá bạc biển Đông lặng.
- Ta hát bài ca gọi cá vào.
- Câu hát căng buồm cùng gió khơi.
Đó là khúc ca sảng khoái của người lao động đánh cá thể hiện niềm phấn khởi trước những thành quả lao động của mình.
b) Bài thơ theo thể tự do, mỗi dòng thơ gồm 7 tiếng, âm điệu bài thơ biến đổi phong phú.
- Trong khổ 1:
Mặt trời xuống biển/ như hòn lửa.
Sóng đã cài then/ đêm sập cửa.
Âm điệu thơ khép lại với thanh trắc của các vần cuối với nhịp 4/3 mạnh mẽ.
Đoàn thuyền đánh cá/ lại ra khơi
Câu hát căng buồm/ cùng gió khơi.
Âm điệu thơ mở ra với thanh bằng của các vần cuối nhẹ nhàng, khoáng đạt.
- Những khổ thơ giữa phối hợp âm điệu thơ với những động tác dồn dập dệt biển, dàn đan thế trận, đêm thở sao lùa, kéo xoăn tay, lưới xếp, buồm lên... tạo nên những âm hưởng rộn ràng, sảng khoái biểu hiện được sự hăng say khẩn trương lao động và niềm phấn khởi của người đánh cá.
Bài thơ tạo được âm hưởng vừa khỏe khoắn, vừa sôi nổi lại vừa phơi phới, bay bổng. Góp phần tạo nên âm hưởng ấy là các yếu tố lời thơ, nhịp điệu, vần,... Lời thơ dõng dạc, điệu thơ như khúc hát say mê, hào hứng, phơi phới (bốn lần lặp lại lời “hát” trong bài thơ).
Đặc biệt cách gieo vần có nhiều biến hoá linh hoạt, các vần trắc xen lẫn vần bằng, vần liền xen với vần cách. Các vần trắc tạo sự dữ dội, sức mạnh, các vần bằng tạo sự vang xa, bay bổng...
Thiên nhiên như rộng mở với màu sắc mới của bình minh trên biển:
Mặt trời đội biển nhô màu mới.
Vần: “ơi" là âm hưởng làm nền cho câu hát vang dội niềm vui sau một đêm dài lao động trên biển.
c) Kết luận
• Bài thơ Đoàn thuyền đánh cá đã khắc hoạ nhiều hình ảnh đẹp tráng lệ, thể hiện sự hài hoà giữa thiên nhiên và con người lao động, bộc lộ niềm vui, niềm tự hào của nhà thơ trước đất nước và cuộc sống.
• Bài thơ có nhiều sáng tạo trong việc xây dựng hình ảnh bằng liên tưởng, tưởng tượng phong phú độc đáo, có âm hưởng khỏe khoắn, hào hùng, lạc quan.
Bài thơ có nhiều hình ảnh đẹp, tráng lệ, thể hiện vẻ đẹp của thiên nhiên:
Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then đêm sập cửa
Mặt trời được so sánh như một hòn lửa rực rỡ đang hạ dần xuống màn biển chiều hôm. Sức nóng rực rỡ của mặt trời được xoa dịu bởi mặt biển rộng lớn, bao la. Biển cả lúc này như mọt ngôi nhà kì vĩ, những con sóng là then cửa cài chặt cánh cửa đêm đen. Vũ trụ đi vào trạng thái nghỉ ngơi theo nhịp tuần hoàn của thời gian. Và khi ấy, một ngày làm việc của những người ngư dân bắt đầu:
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi
Ở khổ thơ thứ ba, hình ảnh con thuyền kĩ vĩ giữa thiên nhiên bao la, rộng lớn. Chất lãng mạn bao trùm cả bức tranh lao động, cả con thuyền đánh cá, biến công việc nặng nhọc thành niềm vui, lòng yêu đời chan chứa.
Thuyền ta lái gió với buồm trăng
Lướt giữa mây cao với biển bằng.
Ra đậu dặm xa dò bụng biển
Dàn đan thế trận lưới vây giăng
Bút pháp nghệ thuật trong bài thơ nổi bật là bút pháp lãng mạn, cảm xúc dạt dào của nhà thơ cùng với những hình ảnh kì vĩ, đã làm nổi bật vẻ đẹp của con người lao động giữa thiên nhiên bao la
Hình ảnh người lao đông và công việc của họ được đặt vào không gian rộng lớn của biển trời, trăng sao để làm tăng thêm kích thước, tầm vóc và vị thế của con người. Nhà thơ đã sử dụng thủ pháp phóng đại cùng với những liên tưởng mạnh bạo, bất ngờ để sáng tạo hình ảnh về người lao động:
- Câu hát căng buồm cùng gió khơi
- Thuyền ta lái gió với buồm trăng
- Lướt giữa mây cao với biển bằng
- Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời
Nổi bật trong biện pháp xây dựng hình ảnh của tác giả là người lao động được sáng tạo trong cảm hứng lãng mạn, hoà hợp giữa thiên nhiên và con người.
Hồ Xuân Hương là một trong nữ thi văn nổi tiếng trong xã hội cũ. Bà được mệnh danh là “Bà Chúa thơ Nôm”. Trong các bài thơ của bà đều nói lên tiếng nói cảm thương người phụ nữ và khẳng định đề cao và ý thức đầy bản lĩnh. Theo đó, tác phẩm “Tự Tình” của bà được coi là bài thơ bộ lộ những cảnh éo le, buồn tủi, cay đắng của người phụ nữ. Đồng thời cũng nói lên khát vọng mong cầu hạnh phúc của người phụ nữ xã hội xưa. Đặc biệt tác phẩm tự tình 3 là bài thơ nổi tiếng nói lên “tiếng lòng” người phụ nữ. Thân phận người phụ nữ đầy chua xót, tủi hổ, đau đớn
Chiếc bách buồn về phận nổi nênh
Giữa dòng ngao ngán nỗi lênh đênh.
Phân tích tự tình 3 – Nếu bài tự tình thứ nhất mở đầu bằng âm tanh tiếng gà gáy văng vẳng, thì bài tự tình thứ 3 lại là một chiếc bách đầy tâm trạng. Chiếc bách chính là hình ảnh của chiếc thuyền với tâm trạng buồn về phận nổi lênh đênh. Chiếc thuyền chính là người con gái giữa dòng đời. Một chiếc thuyền nhỏ lênh đênh giữa cuộc đời buồn thay cho cuộc đời của mình “giữa dòng ngao ngán nỗi lênh đênh”. Nếu giữa dòng sông mênh mông ấy là hình ảnh chiếc bách nhỏ lênh đênh không biết trôi về đâu, thì giữa dòng đời rộng lớn, hình ảnh người con gái góa trẻ cũng không biết sẽ trôi về đâu.
Nỗi bi ai, đau khổ không chỉ ở trong 2 câu thơ đầu mà trong câu thơ sau, cũng diễn tả nỗi truân chuyên của người phụ nữ góa trẻ.
Lưng khoang tình nghĩa đường lai láng,
Nửa mạn phong ba luống bập bềnh.
Tình và nghĩa vẫn đương còn chan hòa dào dạt. Vậy mà sóng gió vẫn cứ ập tới, đe dọa liên tiếp vỗ vào mạn thuyền. Hai câu thơ này đều mang tâm trạng buồn rầu, ngao ngán cho thân phận người phụ nữ. Cây muốn yên mà gió chẳng lặng. Cuộc sống người phụ nữ xã hội xưa mấy khi được hạnh phúc. Hạnh phúc tưởng chừng trong tầm tay nhưng cũng lại vỡ tan. Vậy là đang “như chim liền cành” bống nhiên đứt gánh giữa đường.
Nếu bốn câu đề là tâm trạng buồn tủi của người phụ nữ góa trẻ thì hai câu sau thể hiện sự buông xuôi của người phụ nữ:
Cầm lái mặc ai lăm đỗ bến.
Dong lèo thây kẻ rắp xuôi ghềnh.
Phân tích tự tình 3 – Trong ý thơ, tác giả mặc cho ai lăm le cầm lái để đưa thuyền vào đậu bến. Dù cho dog lèo để cho cánh buồm vượt qua ghềnh thác mà trôi xuôi tác giả cũng không quan tâm. Động từ “Mặc” ở đây thể hiện sự buông xuôi thực sự. Cuộc đời người góa phụ trẻ giờ đây giống như chiếc thuyền trôi lênh đênh ngoài biển khơi, ai muốn lái muốn chèo đều không còn là nỗi bận tâm nữa rồi. Chỉ ai câu thơ nói lên sự bất lực của người phụ nữ trong xã hội xưa. Dù có khao khát hạnh phúc thì cũng không thể thay đổi được hoàn cảnh, vận mệnh. Không thể thay đổi được sự thật phũ phàng của xã hội là biển khơi, đẩy đưa thuyền đi theo ghềnh thác cũng đành phải theo mà không thể chống cự.
Tiếp theo tâm trạng này là hai câu cuối.
Ấy ai thăm ván cam lòng vậy,
Ngán nỗi ôm đàn những tấp tênh.
Rất nhiều động từ thể hiện sự chấp nhận, buồng xuôi như “cam lòng” “ôm nỗi”. Tác giả tự hỏi, còn ai nữa sẽ đếnvới mình đây? Mà nếu có ai đến thì cũng cam lòng mà không thể chống cự được. Mặc dù người phụ nữ hiểu rằng, bước sang một chiếc thuyền khác thì cuộc đời cũng vẫn “tấp tênh”, cũng không có gì khởi sắc. Nhưng dẫu vậy cũng cam lòng vì tình thế không thể khác được.
Thân phận người phụ nữ trong xã hội xưa đã nhỏ bé, bị áp bức, bị xã hội hà khắc thì thân phận người góa phụ trẻ còn thê lương hơn. Người góa phụ trẻ không có lựa chọn, ai muốn đẩy thuyền trôi đâu thì đẩy. Chỉ biết cam lòng, ôm nỗi đau vào lòng. Thấu hiểu nỗi đau đớn, oan ức, bất công của người phụ nữ, Hồ Xuân Hương đã lấy thi ca để nói lên tiếng lòng. Bà chính là đại diện cho những người phụ nữ mạnh mẽ, đòi quyền sống, quyền mưu cầu hạnh phúc và lên án sự bất công, hà khắc của xã hội.
Người phụ nữ xưa nhỏ bé, chịu bao áp bức vậy mà vẫn phải “tam tòng tứ đức”, giỏi việc nhà, đảm đang, khéo léo. Trong khi đàn ông năm thê bảy thiếp là chuyện thường tình. Đàn bà trẻ góa một lần coi như cuộc đời là cánh bèo trôi dạt, không có lựa chọn, không có quyền lên tiếng, dù vào tay ai cũng cam lòng.
Không chỉ tự tình 3 mới nói lên nỗi bất công hà khắc của xã hội, bài thơ tự tình 1 và 2 của Hồ Xuân Hương cũng là tiếng lòng người phụ nữ. Bản thân Hồ Xuân Hương cũng lận đận đường tình duyên, cuộc đời phong bã bão táp. Tác giả cũng là người con gái đẹp, có mư cầu hạnh phúc nhưng bị xã hội phong kiến đàn áp nên hạnh phúc khó kiếm tìm. Nhiều lần đứt đoạn, nhiều lần suy sụp, chới với, nhưng Hồ Xuân Hương luôn có cái nhìn sâu sắc về cuộc đời, thấu hiểu và dám lên tiếng.
Kết thúc tự tình 3 vẫn chỉ là tâm trạng buông xuôi, cam lòng của người góa phụ trẻ. Nhưng kết thúc đó cũng là tiếng lòng khao khát muốn được hạnh phúc, muốn vùng vẫy. Bài thơ lột tả chân thực xã hội phong kiến bất công, hà khắc với người phụ nữ. Thân phận người góa phụ rẻ rúng, bèo dạt lênh đênh. Qua đây, chúng ta càng thấu hiểu hơn và cảm thông hơn cho những người phụ nữ xã hội cũ. Và càng cảm phục ý chí, tài năng, tâm hồn của “Bà chúa thơ Nôm – Hồ Xuân Hương”.
▪️ Bài thơ được triển khai theo trình tự chuyến ra khơi của đoàn thuyền đánh cá. Theo trình tự đó, có thể thấy bố cục của bài thơ như sau:
- Phần 1 (hai khổ đầu) Cảnh đoàn thuyền ra khơi và tâm trạng náo nức của con người.
- Phần 2 (bốn khổ tiếp): Cảnh hoạt động của đoàn thuyền đánh cá trên biển.
- Phần 3 (khổ cuối): Cảnh đoàn thuyền đánh cá trở về.
▪️ Không gian, thời gian
- Không gian là mặt biển bao la, rộng lớn với sự hiện diện của mặt trời, mặt biển, trăng sao, mây, gió.
- Thời gian là nhịp tuần hoàn của vũ trụ: Từ lúc hoàng hôn buông xuống, trời biển vào đêm đến lúc mặt trời đội biển nhô lên, một ngày mới bắt đầu. Nhịp tuần hoàn của vũ trụ điểm nhịp thời gian cho đoàn thuyền đánh cá làm việc.
Trong khung cảnh đối diện với Thúy Kiều, Hoạn Thư đã rất bình tĩnh đưa ra những lập luận, lí lẽ để biện minh cho bản thân mình. Lập luận của Hoạn Thư rất chặt chẽ, vừa có lí, vừa có tình, vừa nhận tội Vừa bào chữa, vừa đề cao người, lại vừa minh oan cho mình.
Trước hết, Hoạn Thư đưa ra giải thích sự ghen tuông là tâm lý chung của đàn bà, để mong Kiều thấy đó là lẽ thường tình mà người phụ nữ nào cũng đều thấu hiểu. Sau đó, Hoạn Thư kín đáo kể công đã chạnh lòng thương xót mà cho Kiều ra chép kinh ở Quan Âm Các: Nghĩ cho khi gác viết kinh và dẫu biết mà không bắt giữ khi nàng bỏ trốn khỏi nhà họ Hoạn: Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo. Tiếp theo, Hoạn Thư bày tỏ nỗi lòng, chồng chung nên những hờn ghen là tất yếu, đều là cảnh chồng chung nên chẳng thể nhường nhau được. Sắc sảo và khôn ngoan hơn, cuối cùng Hoạn Thư nhận hết tội lỗi về mình và xin Kiều khoan dung. Trước những lời lẽ của Hoạn Thư, Kiều phải thừa nhận rằng ả "Khôn ngoan đến mực nói năng phải lời" và đã chấp nhận tha cho Hoạn Thư.
Thông qua những lời lẽ biện minh, lập luận chặt chẽ của Hoạn Thư, Nguyễn Du đã tô đậm tính cách của nhân vật, làm cho nội dung tự sự trở nên mạch lạc, khúc chiết.
Lời văn trong đoạn trích (a), mục I.1 là lời của ông giáo. Ông giáo đang thuyết phục chính mình rằng vợ ông không ác để “chỉ buồn chứ không nỡ giận”.
a, Đoạn trích “Lão Hạc”
- Nêu vấn đề: Nêu không chịu đào sâu tìm hiểu bản chất con người mà chỉ xét các hiện tượng bên ngoai thì rất dễ có ác cảm với người khác
- Phát triển vấn đề: Xuất phát từ những quy luật của tự nhiên “Một người đau chân .... che lấp mất”
- Kết thúc vấn đề: Ông giáo không lỡ giận vợ mình
◾ Đoạn trích “Thúy Kiều báo ân báo oán”. Hoạn Thư đưa ra những lí lẽ
- Nói tới quan hệ xã hội: “Chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai”
- Nói về chuyện đàn bà với nhau “Ghen tuông ấy cũng người ta thường tình”
- Nhắc nhở đạo lí làm người “Nghĩ cho khi gác viết kinh – Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo”
b,
- Luận điểm
◾ Đoạn a: “Nếu ta không cố .... bao giờ ta thương”
◾ Đoạn b: Nói tới quan hệ xã hội: “Chồng chung chưa dễ ai chiều cho ai”. Nói về chuyện đàn bà với nhau
“Ghen tuông ấy cũng người ta thường tình”. Nhắc nhở đạo lí làm người “Nghĩ cho khi gác viết kinh – Với khi khỏi cửa dứt tình chẳng theo”
- Tác giả đưa ra những dẫn chứng để làm nổi bật luận điểm
- Câu văn trong văn bản tự sự thường là câu trần thuật
- Các từ ngữ dùng để lập lập là các từ ngữ mang tính chất khẳng định.
Câu (a) dùng sai từ béo bổ (có lợi cho sức khỏe), nên sửa thành từ béo bở (mang lại nhiều lợi nhuận).
Câu (b) dùng sai từ đạm bạc (chỉ sự ăn uống hay cuộc sống ở mức độ tối thiểu), người viết muốn nói sự bạc bẽo trong cách đối xử của Dương Lỗ, vì thế nên sửa thành từ tệ bạc (sự vô ơn, không trọng tfnh, trọng nghĩa).
Câu (c) dùng sai từ tấp nập (đông người qua lại), sửa lại thành từ tới tấp (liên tiếp, dồn dập).