Trước sân nhà em có một khu vườn nho nhỏ, mẹ dùng để trồng rau xanh cho cả nhà. Những luống rau cải xanh ngắt, xòe tán lá vung vẩy trước gió trông như những bàn tay đang hứng ánh mặt trời ấm áp buổi sáng. Hàng xóm của nhà cải là gia đình chị dưa leo , chúng được mẹ em bắc giàn cho leo lên, đến tuổi trưởng thành dưa leo sinh ra những đứa con thật mập mạp, xinh xắn , hái vào ăn sống rất ngon. Kế bên dưa leo là họ hàng nhà chị đậu cô ve, tuy thân hình mảnh mai yếu đuối nhưng lại rất khéo léo, uyển chuyển quấn thân mình quanh giàn mẹ em đã bắc sẵn , những chú đậu dài, non mơn mởn chen chúc nhau treo đầy giàn , nhìn thật vui mắt.
Tác giả sử dụng Tả sự vật bằng từ ngữ dùng để tả người để nhân hóa cây tre
+ Bóng tre trùm lên âu yếm làng bản, xóm thôn.
+ Tre ăn ở với người đời đời kiếp kiếp.
+ Tre, nứa, mai, vầu giúp người trăm nghìn công việc khác nhau.
Những hình ảnh miêu tả cây tre gợi người đọc nghĩ đến những đức tính cao quý của dân tộc Việt Nam là:
- Tre trông thanh cao, giản dị, chí khí như người.
- Cây tre xanh, nhũn nhặn, ngay thẳng, thuỷ chung, can đảm.
Ở đâu tre cũng xanh tốt. Dáng tre vươn mộc mạc, mầm tre tươi nhũn nhặn.
->> D đúng
Viễn Phương là một trong những gương mặt nhà thơ tiêu biểu nhất trong lực lượng văn nghệ giải phóng miền Nam thời kỳ chống Mỹ cứu nước. Những sáng tác của ông đều hướng đến khám phá những sắc thái, những cung bậc tình cảm đa dạng trong đời sống của con người. Bài thơ “Viếng lăng Bác” ra đời vào tháng 4 năm 1976 khi cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ đã hoàn toàn thắng lợi, nước ta hoàn toàn độc lập và lăng Chủ tịch Hồ Chí Minh được khánh thành. Nhân dịp đó, nhà thơ Viễn Phương đã lần đầu ra thăm thủ đô Hà Nội và viếng lăng Bác Hồ. Bài thơ được in trong tập thơ Như mây mùa xuân (1978) của tác giả. Tác phẩm gồm bốn khổ thơ, là niềm cảm xúc, tấm lòng thành kính của nhà thơ trong hành trình vào lăng viếng Bác.
Ở ngay khổ thơ đầu tiên, chúng ta có thể thấy được niềm cảm xúc dạt dào của nhà thơ Viễn Phương khi đứng trước lăng Bác Hồ:
“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”
“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác” là lời giới thiệu ngắn gọn và chân thành của nhà thơ, câu thơ cũng tựa như lời tâm sự của một người con phương xa khi có dịp về thăm Bác. Ấn tượng đầu tiên khi đến thăm lăng của nhà thơ chính là hình ảnh “hàng tre bát ngát” trong sương. Thán từ “ôi” đã thể hiện được nỗi xúc động và cảm xúc trào dâng của nhà thơ khi bắt gặp hình ảnh hàng tre. Tre không chỉ là loài cây quen thuộc trong đời sống của con người mà còn là biểu tượng cho những phẩm chất tốt đẹp của con người Việt Nam: Đoàn kết, kiên cường, dù trải qua bao thăng trầm “bão táp mưa sa” vẫn “đứng thẳng hàng”. Cụm từ “bão táp mưa sa” là ẩn dụ cho những khó khăn, thử thách mà cả dân tộc ta đã phải trải qua suốt bốn ngàn năm lịch sử của đất nước. Bằng tình yêu nước, ý chí kiên cường và tinh thần đoàn kết dân tộc, quân và dân ta đã vượt qua mọi sóng gió, thăng trầm để bảo vệ độc lập, tự do của Tổ quốc.
Bước sang khổ thơ thứ hai là cảm xúc của nhà thơ khi ông được hoà mình vào dòng người vào lăng viếng Bác:
“Ngày ngày dòng người đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”
“Mặt trời” là vật thể của tự nhiên, mọc rồi lặn theo một quy luật, mặt trời mang đến ánh sáng, sự sống cho con người và vạn vật trên Trái Đất. Đất nước Việt Nam cũng có một “mặt trời trong lăng” đẹp đẽ, “đỏ” vô cùng, đó là Bác Hồ. Bác đã mang đến ánh sáng của sự sống, xua đi đêm trường tăm tối cho hàng triệu con người Việt Nam. Nhà thơ Tố Hữu cũng đã từng có lời so sánh như thế trong bài thơ “Sáng tháng năm”: “Người rực rỡ một mặt trời cách mạng/Mà đế quốc là loài dơi hốt hoảng”. Thế nhưng, mặt trời trong thơ Viễn Phương vẫn mang đến thật nhiều cảm xúc đặc biệt bởi nó được thắp lên bởi tình cảm kính yêu tha thiết dành cho vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc.
“Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ”, đoàn người nối nhau vào lăng viếng Bác cứ nối dài thành “dòng” vô tận. “Dòng người” ấy cứ lặng lẽ tiến vào lăng Bác trong niềm tiếc thương, kính yêu vô bờ với Bác. Bởi vì đối với dân tộc Việt Nam, Bác Hồ chính là vị Cha già vô cùng kính yêu, sự ra đi của Người là một mất mát vô cùng to lớn đối với đất nước ta. Điệp từ “ngày ngày” được Viễn Phương đặt ở đầu câu thơ để nhấn mạnh sự thường xuyên, liên tục của những người con đất Việt tới thăm viếng Bác. Dòng người đó như một “tràng hoa” dài vô tận để kính dâng lên “bảy mươi chín mùa xuân” của Người. Bác Hồ ra đi ở tuổi bảy mươi chín, chính vì vậy nhà thơ Viễn Phương đã sử dụng hình ảnh hoán dụ “bảy mươi chín mùa xuân” để bày tỏ niềm thương nhớ tới Bác Hồ kính yêu, bày tỏ niềm biết ơn một con người đã dùng cả cuộc đời của minh để cống hiến cho sự nghiệp cứu nước.
Ở khổ thơ thứ ba, khi Viễn Phương đã tiến hẳn vào trong lăng và được nhìn thấy di hài của Người, nhà thơ đã không giấu được sự xúc động:
“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim”
Bác Hồ đã mãi đi xa, thế nhưng với nhà thơ, cũng là với mọi người con trên đất nước Việt Nam, Bác chỉ như đang yên giấc ngủ sau những giờ phút hết lòng lo toan cho sự nghiệp nước nhà.
Bầu trời qua vạn năm đều không thay đổi, lúc nào cũng mang một màu xanh ngan ngát. Thế nhưng con người lại phải trải qua sinh lão bệnh tử, được sinh ra, lớn lên, già đi rồi mất đi. Thế nhưng, Bác Hồ mãi là “trời xanh” đẹp đẽ, vĩnh hằng trong trái tim hàng triệu con người Việt Nam. Dù Bác đã ra đi nhưng Bác vẫn còn sống mãi trong trái tim, khối óc của những người ở lại. “Vẫn biết” Bác vẫn luôn ở đây, vẫn sống mãi với con người, non sông Việt Nam thế nhưng nghĩ đến việc Bác không còn nữa, trái tim nhà thơ vẫn “nhói” lên đầy đau đớn “Mà nghe đau nhói ở trong tim”.
Khép lại bài thơ là những cảm xúc lưu luyến, bịn rịn của nhà thơ khi phải từ biệt Bác Hồ để trở về miền Nam:
“Mai về miền Nam thương trào nước mắt
Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đoá hoa toả hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”
Đến giây phút trở về, trong lòng nhà thơ dâng lên bao nhiêu niềm cảm xúc lưu luyến, nuối tiếc. Không muốn rời xa Bác, thế nên nhà thơ đã ước nguyện mình được hoá thân thành vật nhớ bé như chim, như hoa, như những cây tre “trung hiếu” để được mãi mãi ở bên cạnh Bác. Nhà thơ đã sử dụng điệp ngữ “muốn làm” tới ba lần để nhấn mạnh ước nguyện nhỏ bé mà mãnh liệt của mình. Khổ thơ cuối đã thể hiện niềm ước vọng cháy bỏng, mãnh liệt của nhà thơ cũng là của muôn triệu người dân đất nước Việt Nam này. Hình ảnh của những cây tre trong khổ cuối bài thơ đã tạo ra sự hô ứng với hình ảnh “hàng tre xanh ngát” ở phần mở đầu. Hình ảnh hàng tre giống như hàng triệu con người Việt Nam vẫn quây quần bên Bác, đó là những con người “trung hiếu” ngày đêm canh giữ cho giấc ngủ bình yên của Bác.
Bài thơ “Viếng lăng Bác” được viết theo thể thơ tám chữ ngắn gọn và cô đọng. Giọng điệu thơ vừa trang nghiêm thành kính lại tha thiết, dịu dàng. Các biện pháp nghệ thuật như ẩn dụ, hoán dụ, so sánh được sử dụng hết sức linh hoạt và uyển chuyển. Ngôn ngữ thơ rất giản dị, gần gũi, cùng hình ảnh thơ giàu sức gợi và cô đúc đã thể hiện những cảm xúc chân thành cùng lòng thành kính, biết ơn vô bờ của nhà thơ đối với Bác Hồ khi lần đầu tiên ông được tới thăm lăng Bác.
Viếng lăng Bác của Viễn Phương là một bài thơ rất hay nói thể hiện tấm lòng thành kính và biết ơn sâu sắc của những người con Việt Nam đối với Bác Hồ kính yêu. Đã gần năm mươi năm qua đi nhưng nó vẫn còn nguyên những giá trị tốt đẹp, tạo dấu ấn sâu đậm trong lòng người đọc chúng ta.
a. Mặt trời
b. Mặt trời được nhân hóa bằng cách sử dụng các từ ngữ miêu tả ông mặt trời giống như con người
Em thấy Mi-sa và Xa-sa là 2 người bạn mang lại niềm vui cho mọi người bằng những câu chuyện tưởng tượng đầy thú vị, 2 bạn cũng rất tốt bụng khi an ủi em I-ra, không nói dối hay đổ thừa cho người khác.
Việc I-go là nói dối khác với trò chơi tán dóc của Mi-sa và Xa-sa là tưởng tượng