Giao diện mới của VnDoc Pro: Dễ sử dụng hơn - chỉ tập trung vào lớp bạn quan tâm. Vui lòng chọn lớp mà bạn quan tâm: Lưu và trải nghiệm

Tư tưởng của Nguyễn Trãi trong Đại cáo bình Ngô

Ngữ văn 10: Tư tưởng của Nguyễn Trãi trong Đại cáo bình Ngô

VnDoc mời bạn đọc tham khảo tài liệu Tư tưởng của Nguyễn Trãi trong Đại cáo bình Ngô, hy vọng qua bộ tài liệu các bạn học sinh sẽ nắm chắc nội dung bài học một cách đơn giản và có kết quả cao hơn trong học tập.

Tư tưởng của Nguyễn Trãi trong Đại cáo bình Ngô mẫu 1

Năm 1428, đất nước ta sạch bóng quân Minh xâm lược, Nguyễn Trãi thay lời nhà vua để viết nên Bình Ngô đại cáo đọc trong lễ tuyên bố kết thúc chiến tranh, nước Đại Việt từ nay bước sang giai đoạn bốn phương biển cả thái bình.

Điều làm nên giá trị nội dung bất hủ của tác phẩm chính là tư tưởng nhân nghĩa truyền thống đã được Nguyễn Trãi đúc kết như một chân lí ngay trong hai câu mở đầu.

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân

Quân điếu phạt trước lo trừ bạo

Tư tưởng ẩy, chân lí ấy là nền tảng của mọi suy nghĩ, hành động, chiến lược, chiến thuật và quyết tâm chiến đấu, chiến thắng của quân dân ta trong cuộc kháng chiến chống kẻ thù xâm lược phương Bắc. Hơn ai hết, Nguyễn Trãi thấm nhuần quan điểm tiến bộ của Nho giáo, coi dân là gốc (dân vi bản), ý dân là ý Trời. Ông cho rằng, bất cứ triều đại nào muôn tồn tại dài lâu và vững mạnh đều phải dựa vào dân, đặt mục đích yên dân lên hàng đầu bởi dân có yên thì nước mới thịnh.

Từ triết lí nhân nghĩa thủy chung, Nguyễn Trãi đã cụ thế hóa nó một cách rõ ràng và dễ hiểu. Yên dân là mọi đường chính sách của triều đình phải phù hợp với ý nguyện của dân, không ngoài việc làm cho dân được sống trong cảnh thanh bình, ấm no, hạnh phúc: để cho chốn hang cùng ngõ vắng không còn tiếng hờn khóc, oán sầu.

Muốn cho nhân dân có được cuộc sống tốt đẹp như vậy thì điều đương nhiên là phải lo trừ bạo, có nghĩa là diệt trừ tất cả các thế lực tham lam, bạo ngược làm tổn hại đến quyền lợi của dân lành. Yên dân, trừ bạo là hai vế có liên quan chặt chẽ với nhau, hỗ trợ cho nhau để tạo nên tính hoàn chỉnh của tư tưởng nhân nghĩa bao trùm và xuyên suốt cuộc kháng chiến giữ nước vĩ đại lúc bấy giờ.

Khi Lê Lợi phất cao cờ khởi nghĩa chống quân xâm lược nhà Minh thì tư tưởng nhân nghĩa đã được biến thành hành động cụ thể và thiết thực là đánh đuổi giặc thù ra khỏi bờ cõi để cứu dân khỏi cơn binh đao, tang tóc. Ông viện dẫn chứng cứ lịch sử để khẳng định rằng những kẻ cố tình đi ngược lại đạo lí nhân nghĩa cuối cùng đều chuốc lấy tai họa:

Lưu Cung tham công nên thất bại

Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong.

Gần mười năm qua, quân cuồng Minh đáng khinh bỉ và ghê tởm đã gây ra biết bao tội ác trời không dung, đất không tha trên đất nước này:

Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn

Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.

Dối trời, lừa dân đủ muôn nghìn kế,

Gây binh, kết oán, trải hai mươi năm.

Bại nhân nghĩa nát cả đất trời,

Nặng thuế khóa sạch không đầm núi...

Có nghĩa là chúng đã ngạo ngược xúc phạm đến đạo lí nhân nghĩa của đất trời và lòng người. Tội ác của chúng tất sẽ bị trừng trị đích đáng và đương nhiên là chúng tự chuốc lấy thảm họa vào thân.

Trước những tội ác chồng chất của giặc như vậy, chúng ta chỉ có một con đường là đánh đuổi chúng ra khỏi bờ cõi để trừ bạo, yên dân. Xót xa cho cảnh nước mất nhà tan, Lê Lợi - người anh hùng áo vải đất Lam Sơn đã phất cờ khởi nghĩa:

Trời thử lòng trao cho mệnh lớn,

Ta gắng chí khắc phục gian nan.

Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới

Tướng sĩ một lòng phụ tử, hòa nước sông chén rượu ngọt ngào.

Sức mạnh của cuộc kháng chiến chống quân Minh được nhân lên gấp bội bởi tính chất chính nghĩa và mục đích cao cả của nó: Đem đại nghĩa để thắng hung tàn, Lấy chí nhăn để thay cường bạo. Tinh thần đoàn kết son sắt tạo ra những chiến lược, chiến thuật thần kì: lấy yếu chống mạnh, lấy ít địch nhiều, xoay chuyển tình thế từ bị động sang chủ động tiến công như vũ bão, giáng trả quân thù những đòn sấm vang chớp giật, trúc chẻ tro bay, lập nên chiến công hiển hách:

Sĩ khí đã hăng, Quân thanh càng mạnh

Thừa thẳng ruổi dài, Tây Kinh quân ta chiếm lại,

Tuyển binh tiến đánh, Đông Đô đất cũ thu về...

Quân thù bị đẩy vào tình thế khôn đốn, cùng đường:

Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm

Tốt Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm...

Bó tay để đợi bại vong, giặc đã trí cùng lực kiệt...

Cứu binh hai đạo tan tành, quay gót chẳng kịp...

Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giúp ra hàng

Tướng giặc bị cầm tù, như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng.

Liệt kê những chiến công vang dội liên tiếp của quân dân ta cũng như tô đậm tư thế đê hèn của quân xâm lược lúc thảm bại bằng giọng văn hào hùng sảng khoái, Nguyễn Trãi vẫn nhằm mục đích khẳng định hùng hồn sức mạnh vô địch của tư tưởng nhân nghĩa và truyền thống nhân nghĩa tốt đẹp của dân tộc Việt. Thực tế đã chứng minh điều đó bằng thắng lợi vẻ vang của cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược.

Kết thúc bài cáo là khúc khải hoàn ca của tư tưởng Đem đại nghĩa để thắng hung tàn, Lấy chí nhân để thay cường bạo. Một lần nữa, dân tộc Việt :.ngẩng cao đầu chiến thắng, rộng lòng tha chết cho những kẻ bạo nghịch đã: quỳ gối đầu hàng: Thần vũ chẳng giết hại, thể lòng trời ta mở đường hiếu linh. Lại chu cấp cho chúng nào thuyền, nào ngựa để trở về cố quốc. Cái uy, cái dũng, cái nhân trong đạo lí truyền thống nhân nghĩa Việt Nam một lần nữa khiến kẻ thù khiếp sợ, ra đến bể mà vẫn hồn bay phách lạc, về đến nước mà vẫn tim đập chân run.

Lời tuyên cáo của vua Lê vẫn vang mãi ngàn năm trên đất nước này:

Xã tắc từ đây vững bền,

Giang sơn từ đây đổi mới.

Kiều khôn bĩ rồi lại thái.

Nhật nguyệt hối rồi lại minh.

Muôn thuở nền thái bình vững chắc,

Ngàn thu vết nhục nhã sạch làu.

Âu cũng nhờ trời đất tổ tông khôn thiêng ngầm giúp đã mới được như vậy

Than ôi.

Một cỗ nhung y chiến thắng, nên công oanh liệt ngàn năm,

Bốn phương biển cả thanh bình, ban chiếu duy tân khắp chốn.

Xa gần bá cáo,

Ai nấy đều hay.

Chiến công oanh liệt của cuộc chiến tranh giữ nước vĩ đại chống quân xâm lược nhà Minh đã tô đậm thêm lịch sử vẻ vang của dân tộc và cũng là dẫn chứng hùng hồn chứng minh cho sức mạnh vô biên của tư tưởng nhân nghĩa Việt Nam.

Với ngòi bút chính luận sắc sảo tuyệt vời cùng tài năng sử dụng ngôn ngữ linh hoạt, hình ảnh sinh động, giàu sức biểu cảm. Nguyễn Trãi đã viết nên một áng thiên cổ hùng văn có một không hai trong lịch sử văn học nước nhà. Thông qua bài Bình Ngô đại cáo. Nguyễn Trãi khẳng định chắc chắn rằng tư tưởng nhân nghĩa chính là cội nguồn hiển hách trong lịch sử giữ nước suốt mấy ngàn năm.

Tư tưởng của Nguyễn Trãi trong Đại cáo bình Ngô mẫu 2

Nguyễn Trãi là điển hình của vị hiền tài suốt đời đem tài trí phục vụ nhân dân. Tư tưởng nhân đạo của Nguyễn Trãi trong "Bình ngô đại cáo" nêu ước nguyện muốn cứu dân khỏi vòng tai họa, mang đến cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho dân. "Bình ngô đại cáo" gói trọn tấm lòng của Nguyễn Trãi, thể hiện tư tưởng nhân đạo của ông theo cách hiểu sâu sắc, không dừng lại cụ thể ở một người nào, một giai cấp, tầng lớp nào mà nhân rộng ra là muôn dân.

Đất nước đại thắng vào tháng 11/1428, Lê Lợi giao cho Nguyễn Trãi viết bài cáo để tuyên bố quân ta đại thắng, nước ta bước vào kỉ nguyên mới, phục hưng dân tộc. "Bình ngô đại cáo" là áng thiên cổ hùng văn được viết theo thể văn biền ngẫu, với giọng văn hùng hồn đã tuyên bố nền độc lập chủ quyền của nước nhà.

Lời tuyên ngôn độc lập của "Bình ngô đại cáo" hoàn thiện hơn bản tuyên ngôn trước đó là "Sông núi nước Nam" tương truyền của Lý Thường Kiệt, bởi Nguyễn Trãi đã khảng khái đặt các triều đại Việt Nam ngang hàng với các triều đại Trung Quốc và bổ sung thêm các phương diện quan trọng khác để khẳng định độc lập, chủ quyền của một quốc gia.

Kèm theo đó, ông đã nêu tiền đề nhân nghĩa, lấy dân làm gốc. Từ một quan niệm sống, cách cư xử tốt đẹp giữa người với người, "nhân nghĩa" theo Nguyễn Trãi là phải biết hành động "yên dân", "trừ bạo". Tư tưởng nhân đạo của Nguyễn Trãi bắt nguồn từ tấm lòng yêu nước, thương dân, vì dân, bởi vua là thuyền, dân chúng là nước, nước nâng thuyền, nước cũng có thể lật thuyền.

Khác với Nguyễn Du- một danh nhân văn hóa thế giới- đại thi hào dân tộc, tư tưởng nhân đạo của Nguyễn Du là yêu thương con người, ca ngợi phẩm chất tốt đẹp của họ, lên án những chế độ, giai cấp chà đạp nhân phẩm của họ. Cái nhìn nhân đạo của Nguyễn Du hướng về con người bé nhỏ trong xã hội, cụ thể là người phụ nữ dưới chế độ phong kiến.

Riêng Nguyễn Trãi-bậc hiền tài- một danh nhân văn hóa thế giới khác lại hướng tư tưởng nhân đạo của mình rộng ra khắp muôn dân. Theo Nguyễn Trãi, nhân đạo là yêu nước, thương dân, quan tâm đến khát vọng, ý nguyện của dân, vì dân trừ bạo, mang đến cuộc sống ấm no cho dân.

"Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân

Quân điếu phạt trước lo trừ bạo"

Tư tưởng vì dân đã soi sáng, dẫn lối cho cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc. Chiến thắng giặc Minh là việc làm chính nghĩa hợp với lòng dân. Khi đem quân xâm lược nước ta, bọn chúng gây ra nhiều tội ác khiến lòng người căm phẫn: hủy hoại cuộc sống con người, hủy hoại môi trường sống, đẩy người dân vào hoàn cảnh bi đát, cùng cực.

"Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,

Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi."

Nguyễn Trãi là người có tấm lòng yêu nước, thương dân nên ông không thể trơ mắt nhìn muôn dân lầm than, cơ cực. Tư tưởng nhân đạo đã chi phối Nguyễn Trãi có những hành động cụ thể: góp công sức vào cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, đánh đuổi giặc Minh. Ông vạch trần âm mưu xâm lược của chúng, nêu lên khối căm thù chất chứa trong lòng người dân bằng giọng văn khi uất hận trào sôi, khi cảm thương tha thiết.

"Bình ngô đại cáo" là bản cáo trạng đanh thép đối với kẻ thù xâm lược đồng thời thể hiện niềm tự hào về một dân tộc tự cường, không chịu khuất phục, dũng cảm tranh đấu cho nền độc lập nước nhà. Cái nhìn nhân đạo hướng về nhân dân giúp Nguyễn Trãi phát hiện ra bản chất tốt đẹp của dân ta, luôn kiên cường trong mọi hoàn cảnh. Cảm thương cho họ, Nguyễn Trãi đã lên án, tố cáo tội ác của kẻ thù và khẳng định lòng căm thù sâu sắc.

"Ngẫm thù lớn há đội trời chung

Căm giặc nước thề không cùng sống"

Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn mang tính chất chính nghĩa, nhân đạo vì mục đích của cuộc khởi nghĩa là hướng đến nền độc lập cho muôn dân an hưởng thái bình, ấm no. Kẻ thù sau khi thua trận được tha tội và được tạo điều kiện để về nước là hành động thể hiện tư tưởng nhân đạo của dân ta. Lời văn cô đọng, hàm súc, chứng cứ rõ ràng, lập luận chặt chẽ đầy thuyết phục đã khẳng định được tài năng và tấm lòng của Nguyễn Trãi. Ông tuyên bố độc lập và bày tỏ niềm tin vào thái bình vững chắc của đất nước.

"Xã tắc từ đây vững bền

Giang sơn từ đây đổi mới"

Nguyễn Trãi luôn hướng đến một tương lai tươi sáng, trên dưới vua tôi đồng lòng góp sức mang đến cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho muôn dân. Tư tưởng nhân đạo của Nguyễn Trãi là tư tưởng lớn, nêu bật nhân cách cao cả của ông.Cao quý thay tấm lòng trung quân, ái quốc, hết lòng phụng sự vì dân của Nguyễn Trãi! Ông là một nhân cách lớn dành cả đời hành động theo lẽ sống lớn.

Tư tưởng nhân đạo đọng lại trong "Bình ngô đại cáo" như một lời kí gửi đến mai sau, nhắc nhở nghĩa vụ của mỗi người đối với quê hương, đất nước. Hãy học tập và rèn luyện không chỉ mang lại cuộc sống tốt đẹp cho bản thân mà còn cho mọi người trong xã hội.

---------------------------------------------

Trên đây VnDoc.com đã giới thiệu tới bạn đọc tài liệu: Tư tưởng của Nguyễn Trãi trong Đại cáo bình Ngô. Để có kết quả cao hơn trong học tập, VnDoc xin giới thiệu tới các bạn học sinh tài liệu Ngữ văn lớp 10, Học tốt Ngữ Văn lớp 10, Thi thpt Quốc gia môn Toán, Thi thpt Quốc gia môn Văn, Thi thpt Quốc gia môn Lịch sử mà VnDoc tổng hợp và đăng tải.

Đánh giá bài viết
1 3.580
Sắp xếp theo

    Ngữ văn 10

    Xem thêm