Vận chuyển khí giữa cơ quan hô hấp và tế bào được thực hiện: Sự vận chuyển O2 từ cơ quan hô hấp đến tế bào và CO2 từ tế bào tới cơ quan hô hấp (mang hoặc phổi) được thực hiện nhờ máu và dịch mô.
Ôxi trong không khí hít vào phổi hay ống khí hoặc ôxi hòa tan trong nước khi qua mang sẽ được khuếch tán vào máu. Ở đây chúng kết hợp với hêmôglôbin hoặc hêmôxianin (các sắc tố hô hấp) đế trở thành máu động mạch (máu giàu ôxi) chuyển tới các tế bào.
CO2 là sản phẩm của hô hấp tế bào được khuếch tán vào máu và được vận chuyển tới mang hoặc phổi, chủ yếu dưới dạng natri bicacbônat (NaHCO3), một phần dưới dạng kết hợp với hêmôglôbin và một phần rất nhỏ dưới dạng hòa tan trong huyết tương.
* Trao đổi khí qua mang:
- Khi miệng cá mở ra, thềm miệng hạ xuống, nắp mang phình ra hai bên, diềm nắp mang đóng, thể tích xoang miệng tăng, áp lực trong khoang miệng giảm do đó nước từ ngoài vào trong miệng.
- Khi miệng cá đóng lại, thềm miệng nâng lên, nắp mang ép vào dẫn tới tăng áp lực ở trong khoang miệng khi diềm nắp mang mở ra nước từ trong xoang miệng đi qua mang ra ngoài. Khi qua mang thì là lúc trao đổi khí xảy ra.
* Trao đổi khí qua ống khí:
- Hệ thống ống khí của côn trùng bào gồm các lỗ thở ở bụng sau đó là hệ thống ống khí hệ thống này phân nhánh đến tận từng tế bào. Khí O2 và CO2 được trao đổi trực tiếp giữa tế bào với môi trường không cần cơ quan vận chuyển khí.
- Sự thông khí được thực hiện nhờ sự co bóp của thành bụng và các hoạt động di chuyển của con vật nhất là bay.
* Trao đổi khí qua phối ở chim và thú:
- Ở chim:
+ Khi hít vào các túi khí giãn ra, khí mới giàu O2 đi vào các túi khí sau và vào phổi, khí cũ ở phổi giàu CO2 đi vào túi khí trước.
+ Khi thở ra các túi khí xẹp lại, khí mới giàu O2 đi từ túi khí phía sau vào phổi, khí giàu CO2 từ túi khí trước theo ống dẫn khí ra ngoài.
+ Ta thấy ở chim cả động tác hít vào và thở ra đều có không khí giàu O2 qua phổi. từ đó tăng hiệu quả của việc trao đổi khí.
- Ở người: Các trung khu điều hòa hô hấp sẽ điều khiển động tác hít thở. Khi hít vào cơ liên sườn giãn cơ hoành co làm tăng thể tích phổi từ đó làm giảm áp suất và không khí sẽ tràn vào phổi và trao đổi khí với phế nang. Khi thở ra thì cơ liên sườn co cơ hoành giãn làm giảm thể tích phổi từ đó làm tăng áp suất và khí sẽ đi ra ngoài.
Các động vật đơn bào như trùng biến hình, thủy tức, giun sự trao đổi khí được thực hiện trực tiếp qua màng tế bào hoặc bề mặt cơ thể (giun) nhờ cơ chế khuếch tán. Chính vì vậy kích thước của những loài này nhỏ và chúng luôn phải giữ bề mặt cơ thể ẩm ướt nếu sống trên cạn hoặc sống trong môi rtường nước.
Trong mề của gà hoặc chim bồ câu, khi mổ ra thường thấy các hạt sỏi nhỏ. Chúng có tác dụng gì? Đó là do chim (gà) không có răng để nhai nghiền, nên cần có các hạt sỏi giúp nghiền nhỏ thức ăn cùng với sự co bóp của lớp cơ dày, khỏe ở mề (dạ dày cơ) của chúng.
Quá trình tiêu hóa ở gia cầm: Ở chim ăn hạt và gia cầm, thức ăn được chuyển từ diều xuống dạ dày tuyến và dạ dày cơ (mề). Dạ dày tuyến tiết dịch tiêu hóa. Lớp cơ khỏe và chắc của dạ dày cơ nghiền nát các hạt và thấm dịch tiêu hóa tiết ra từ dạ dày tuyến, sẽ biến đổi một phần, sau đó chuyến xuống ruột, ở đây, thức ăn tiếp tục biến đổi nhờ các enzim có trong các dịch tiêu hóa tiết ra từ các tuyến gan, tuyến tụy, tuyến ruột.
Đặc điểm cấu tạo cơ quan tiêu hoá phù hợp chức năng:
- Mỏ gà cấu tạo bằng chất sừng, hình thoi có mép trơn và nhọn nên rất thích hợp cho việc lấy thức ăn nhỏ và xé rách khối thức ăn lớn.
- Diều gà rất phát triển hình thành một túi chứ thức ăn, diều vịt và ngỗng kém phát triển, chỉ là phần phình to của thực quản.
- Dạ dày tuyến có dung tích nhỏ, nhưng thành của nó dày. Trong thành niêm mạc dạ dày tuyến có tuyến dịch vị (khoảng 30-40 tuyến). Dịch vị do tuyến tiết ra chứa men pepxin và axit chlohydric (HCl), độ pH là 3,1-4,5.
- Dạ dày cơ là cơ quan tiêu hoá phát triển nhất của gia cầm. Nó có hình tròn, dẹt như hai chiếc đĩa nhỏ úp vào nhau, do lớp cơ dày rắn tạo thành. Nó có thể xem như hạ vị của dạ dày loài có vú và có chức năng đặc biệt.
- Ruột non của gia cầm đầu trên giáp với dạ dày cơ, đầu dưới giáp với manh tràng. Ruột già của gia cầm không phát triển, nó do trực tràng thô ngắn và 2 manh tràng đổ vào đoạn đầu trực tràng tạo thành.
Sự tiêu hóa ở động vật nhai lại: Dạ dày của các động vật nhai lại (trâu, bò, hươu, nai, dê, cừu) chia làm 4 ngăn là: dạ cỏ, dạ tổ ong, dạ lá sách và dạ múi khế (dạ dày chính thức).
Thức ăn (cỏ, thân ngô hoặc rơm...) được thu nhận và nhai qua loa rồi nuốt vào dạ dày cỏ là ngăn lớn nhất (150dm3 ở bò), ở đây thức ăn được nhào trộn với nước bọt. Khi dạ dày cỏ đã đầy, con vật ngừng ăn và thức ăn từ dạ cỏ chuyển dần sang dạ tổ ong và ở đây từng búi thức ăn được "ợ lên" miệng để nhai kĩ lại (nhai lại). Đây là quá trình biến đổi cơ học chủ yếu và quan trọng đối với thức ăn xenlulôzơ. Chính thời gian thức ăn lưu lại tại dạ cỏ đã tạo điều kiện cho hệ vi sinh vật ở đây phát triển mạnh gây nên sự biến đổi sinh học đối với thức ăn giàu xenlulôzơ.
Thức ăn sau khi đã được nhai kĩ với lượng nước bọt tiết ra dồi dào cùng với một lượng lớn vi sinh vật sẽ được chuyển thẳng xuống dạ lá sách để hấp thụ bớt nước và chuyển sang dạ múi khế. Ở dạ múi khế (là dạ dày chính thức) thức ăn cùng với vi sinh vật chịu tác dụng của HCl và enzim trong dịch vị. Chính vi sinh vật đã là nguồn cung cấp phần lớn prôtêin cho nhu cầu của cơ thể vật chủ.
Như vậy, quá trình tiêu hóa ở dạ dày của động vật nhai lại được bắt đầu bằng quá trình biến đổi cơ học và biến đổi sinh học, tiếp đó là quá trình biến đổi hóa học diễn ra ở dạ múi khế và ruột (giống các động vật khác).
Về cấu tạo:
- Khác nhau về sự phân hoá răng, khớp hàm, dạ dày có 4 ngăn, chiều dài ruột và ruột tịt
Khác nhau về quá trình tiêu hoá:
- Thú ăn thịt xé thịt và nuốt; thú ăn thực vật nhai và nghiền nát thức ăn, một số loài có hiện tượng nhai lại.
- Thú ăn thực vật nhai kỹ hoặc nhai lại thức ăn, có vi sinh vật trong dạ cỏ và manh tràng cùng tham gia hỗ trợ quá trình tiêu hoá.
Cá trôi là loài cá ăn thực vật nên ruột dài giúp tăng thời gian tiêu hóa thức ăn để hấp thu triệt để chất dinh dưỡng trong thức ăn đây chính là thích nghi với việc tiêu hóa thức ăn là thực vật nghèo dinh dưỡng → khi mổ ruột như một mớ ″lôi thôi″
Dạ dày trâu bò có 4 ngăn (dạ cỏ → dạ tổ ong → dạ lá sách → dạ múi khế) nên quá trình tiêu hóa diễn ra như sau:
- Thức ăn sau khi được trâu bò ăn vào sẽ được chuyển vào dạ cỏ. Dạ cỏ là nơi chứa, làm mềm thức ăn, có các vi sinh vật cộng sinh tiết emzim xenlulaza giúp trâu bò tiêu hóa xenlulozo và các chất khác.
- Thức ăn sau khi được lên men và làm mền sẽ được chuyển qua dạ tổ ong (cùng với một lượng lớn vi sinh vật). Sau khi trâu bò ngừng ăn, thì thức ăn sẽ được ợ lên miệng để nhai kĩ lại.
- Thức ăn (sau khi được nhai kĩ) sẽ được chuyển xuống dạ lá sách để hấp thụ bớt nước
- Thức ăn sau khi đã hấp thụ bớt nước sẽ được chuyển qua dạ múi khế, dạ múi khế đóng vai trò như dạ dày thật sự, có chức năng tiết pepsin và HCl tiêu hóa protein ở cỏ và vi sinh vật.