Giao diện mới của VnDoc Pro: Dễ sử dụng hơn - chỉ tập trung vào lớp bạn quan tâm. Vui lòng chọn lớp mà bạn quan tâm: Lưu và trải nghiệm
Đóng
Điểm danh hàng ngày
  • Hôm nay +3
  • Ngày 2 +3
  • Ngày 3 +3
  • Ngày 4 +3
  • Ngày 5 +3
  • Ngày 6 +3
  • Ngày 7 +5
Bạn đã điểm danh Hôm nay và nhận 3 điểm!
Nhắn tin Zalo VNDOC để nhận tư vấn mua gói Thành viên hoặc tải tài liệu Hotline hỗ trợ: 0936 120 169

Phân tích hình ảnh tên quan phủ đi hộ đê trong truyện ngắn “Sống chết mặc bay” của Phạm Duy Tốn

Lớp: Lớp 7
Môn: Ngữ Văn
Dạng tài liệu: Văn mẫu
Bộ sách: Cánh diều
Loại File: Word + PDF
Phân loại: Tài liệu Tính phí

Văn mẫu lớp 7 phân tích hình ảnh tên quan phủ đi hộ đê trong truyện ngắn “Sống chết mặc bay” của Phạm Duy Tốn cung cấp nhiều bài văn mẫu và dàn bài hay, giúp các em học sinh và phụ huynh tham khảo cách phân tích sâu sắc nghệ thuật châm biếm, bóc trần sự vô trách nhiệm và thói vô nhân đạo của quan lại phong kiến. Tài liệu này là công cụ hữu ích, giúp các em củng cố kỹ năng phân tích truyện ngắn, mở rộng ý tưởng, từ đó tự tin đạt kết quả cao trong các bài kiểm tra sắp tới. Mời các em tham khảo ngay!

Dàn ý Hình ảnh tên quan phủ đi hộ đê trong truyện ngắn “Sống chết mặc bay” của Phạm Duy Tốn

1. Đặt vấn đề:

– Giới thiệu truyện ngắn Sống chết mặc bay của Phạm Duy Tốn.

– Giới thiệu nhân vật cần phân tích: quan phủ- một trong những nhân vật chính của truyện; được khắc họa qua ngòi bút miêu tả chi tiết, sinh động và nghệ thuật trần thuật sắc sảo, khéo léo của tác giả: thể hiện bản chất vô trách nhiệm, “lòng lang dạ thú”.

– Khái quát về thái độ của nhà văn qua việc xây dựng nhân vật: thái độ phê phán, lên án gay gắt.

2. Giải quyết vấn đề:

Nhân vật quan phủ được xây dựng thông qua những thủ pháp nghệ thuật sau, từ đó bộc lộ được tính cách, bản chất của quan phủ:

– Chỗ ở, điều kiện sinh hoạt trong khi đi hộ đề (đặt trong thế đối lập với tình cảnh của trăm nghìn người dân đang hộ để dưới trời mưa tầm tã)

– Dáng điệu, cử chỉ, tư thế ngồi: “uy nghi chễm chệ ngồi trên sập, tay trái dừa gối xếp, chân phải duỗi thẳng ra, để cho tên người nhà quỳ ở dưới đất mà gãi. Một tên lính lệ đứng bên, cầm cái quạt lông, chốc chốc sẽ phẩy”.

– Giọng điệu, ngôn ngữ của quan khi nói với bọn chánh tổng, nha lại: giọng điệu đầy quyền uy, lớn tiếng quát mắng nha lại. Đặc biệt là thái độ, ứng xử của quan phủ ở đoạn kết truyện khi được thông báo vỡ đê (quát lính lệ đuổi cổ người dân quê, rồi quay lại chơi bài tiếp; thái độ vui sướng tột bậc khi bài ù to…)

* Nhận xét khái quát, nâng cao:

– Bản chất của “quan phụ mẫu”: vô trách nhiệm, bất nhân

– Thái độ của tác giả: mỉa mai sâu cay, lên án gay gắt bản chất tàn bạo của quan lại phong kiến đương thời (qua ngôn ngữ bình luận trực tiếp hoặc gián tiếp qua cách miêu tả quan phủ).

– Tác phẩm thể hiện đặc sắc nghệ thuật xây dựng nhân vật theo hướng hiện đại, gần với truyện ngắn hiện đại phương Tây.

3. Kết thúc vấn đề: Nêu khái quát lại giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm qua chân dung nhân vật quan phủ.

Hình ảnh tên quan phủ đi hộ đê trong truyện ngắn “Sống chết mặc bay” của Phạm Duy Tốn - mẫu 1

“Nhân vật là trụ cột của truyện ngắn” (Tô Hoài). Qua nhân vật, nhà văn không chỉ gửi gắm tư tưởng, tình cảm, thái độ yêu, ghét mà còn thể hiện tài năng nghệ thuật xây dựng nhân vật độc đáo của mình.

Đến với truyện ngắn Sống chết mặc bay của Phạm Duy Tốn, có thể nhận ra một trong những nhân vật chính, gửi gắm tư tưởng và tài năng của tác giả chính là hình ảnh viên quan phủ đi hộ đê. Ngòi bút miêu tả chi tiết, sinh động, khéo léo của nhà văn đã dựng lên chân dung điển hình của tầng lớp quan lại phong kiến những năm đầu thế kỉ XX.

Hình ảnh quan phủ không xuất hiện ngay từ đầu tác phẩm mà mở đầu tác phẩm lại là cảnh hàng trăm nghìn dân phu “chân lấm tay bùn, trăm lo nghìn sợ, đem thân hèn yếu mà đối phó với sức mưa to nước lớn. để bảo vệ lấy tính mạng gia tàu”. Chính trong cảnh tượng trăm dân đang ở cảnh màn trời chiếu đất ấy thì quan phủ đang ở đâu? ống kính nghệ thuật của nhà văn quay cận cảnh “trong đình, đèn thắp sáng trưng; nha lệ lính tráng, kẻ hầu người lạ, đi lại rộn ràng”. Còn “quan phụ mẫu” của chúng ta thì “uy nghi chễm chệ ngồi” trên sập, “tay trái dừa gối xếp, chân phải duỗi thẳng ra, để cho tên người nhà quỳ ở dưới đất mà gãi. Một tên lính lệ đứng bên, cầm cái quạt lông, chốc chốc sẽ phẩy. Tên nữa đứng khoanh tay, chực hầu điều đóm”. Chỉ bằng vài nét phác họa khung cảnh đó, dáng điệu đó, ta đã có thể đoán được cuộc sống phong lưu, phú quý và thảnh thơi của quan phủ trong khi làm nhiệm vụ hộ đê.

Thêm nữa, ngòi bút nhà văn còn khắc họa sâu hơn, chi tiết hơn những đồ vật trong căn phòng của quan phủ: “Bên cạnh ngài, mé tay trái, bát yến hấp đường phèn, để trong khay khảm, khói bay nghi ngút, tráp đôi môi chữ nhật để mở, trong ngăn bạc đầy những trầu vàng, cau đậu, rễ tía, hai bên nào ống thuốc bạc, nào đồng hồ vàng, nào dao chuối ngày nào ống vôi chạm, ngoáy tai, lý thuốc, quản bút, tăm bông…”. Nếu nói đồ vật thể hiện con người- chủ nhân của nó- thì có thể nói, qua những đồ vật xung quanh quan phủ, tác giả muốn bày ra lối số: hoa, hưởng thụ của quan phủ. Và chắc chắn, quan phủ tỏ rõ vẻ thung dung, thích thú trong chốn giường êm nệm ấm, với đầy đủ thức vật sang trọng và kẻ hầu người hạ xung quanh chờ để phục vụ hắn. Trong khi ngoài kia mưa gió ầm ầm, dân phu rối rít trong cảnh “nước sôi lửa bỏng” thì “trong này xem chừng tĩnh mịch, nghiêm trang lắm”. Cái “tĩnh mịch, nghiêm trang” của chốn quan phủ đang tiến hành một “sự vụ quan trọng” là chơi tổ tôm.

Không chỉ miêu tả khung cảnh để làm nổi bật địa vị và tính cách nhân vật, tác giả còn tập trung miêu tả ngôn ngữ của nhân vật quan phụ mẫu. Nhân vật không nói nhiều, chỉ thỉnh thoảng cất lời, mà hầu hết là những mệnh lệnh đầy oai vệ, uy nghiêm với bọn nha lại, lính lệ và thầy đề, chánh tổng. Khi thì là lời ra lệnh quyền uy: “Điếu, mày!”. Khi thì là lời phán truyền, giục giã với thầy để lại: “Có ăn không thì bốc chứ!”, rồi: “Thì bốc đi chứ!”. Đặc biệt, tác giả xoáy vào dáng điệu, thái độ và lời quát lác đầy giận dữ của quan lớn khi có một người dân quê xông vào báo tin đê vỡ:

“Quan lớn đỏ mặt tía tai, quay ra quát rằng:

– Đê vỡ rồi! … Đê vỡ rồi, thời ông cách cổ chúng mày, thời ông bỏ tù chúng mày! Có biết không? … Lính đâu? Sao bay dám để cho nó chạy xồng xộc vào đây như vậy? Không còn phép tắc gì nữa à?

Đuổi cổ nó ra!”.

Vì sao quan lớn lại nổi giận đến thế? Thì ra là vì người dân quê kia dám xông vào đình, không biết phép tắc gì cả. Hơn nữa là vì kẻ quê kia đã làm gián đoạn cuộc chơi của quan, trong khi quan đang chờ bài ù. Cái tội của kẻ kia thật lớn! Nếu để mà vỡ thì quan sẻ “cách cổ”, sẽ “bỏ từ” chúng. Cơn “nổi giận lôi đình” kia của quan phụ mẫu hẳn khiến bao kẻ kính sợ!

Và lại càng kinh sợ hơn là cái thản nhiên, lạnh lùng đến sỗ sàng, trơ cứng của quan phủ khi ngài quay vào, hỏi thầy để lại: “Thấy bốc con gì thế?”. Cứ như quan không nghe đến tin báo khẩn cấp của lũ dân đen con đỏ kia. Dường như với ngài, “một nước bài cao bằng mấy mươi đê lở, ruộng ngập!”, “ngài mà còn dở ván bài hoặc chưa hết hội thì đầu trời long đất lở, đê vỡ dân trôi, ngài cũng thấy kệ”.

Đỉnh cao kịch tính của truyện là ở chi tiết kết truyện, khắc họa hình ảnh quan phủ khi bài của quan ù to:

“Quan lớn vỗ tay xuống sập kêu to:

– Đây rồi! … Thế chứ lại! Rồi ngài vội vàng xòe bài, miệng vừa cười vừa nói:

– Ừ! Thông tôm, chi chi nảy!… Điếu, mày!”

Và “trong khi quan lớn ù oán bài to như thế thì khắp mọi nơi miền đó, nước tràn lênh láng, xoáy thành vực sâu, nhà cửa trôi băng, lúa má ngập hết; kẻ sống không chỗ ở, kẻ chết không nơi chôn, lênh đênh mặt nước, chiếc bóng bơ vơ…”. Quả là một nghịch cảnh vừa đau thương, vừa đáng căm giận!

Như vậy, quan phụ mẫu hiện lên rõ nét trong tác phẩm không chỉ bộc lộ thái độ bàng quan, vô trách nhiệm mà còn phơi bày bản chất tàn ác, bất nhân, “lòng lang dạ thú”. Là “cha mẹ dân” nhưng quan phủ lại coi tính mạng và tài sản của muôn dân không bằng một lá bài của hắn.

Đặt nhân vật vào những tình huống mang tính xung đột, nguy cấp, đầy kịch tính để cho nhân vật tự bộc lộ thái độ và cách hành xử, Phạm Duy Tốn đã thể hiện một cây bút trần thuật sắc sảo, chín chắn, mang đậm dấu ấn của nghệ thuật văn chương hiện đại phương Tây thế kỉ XX. Hơn hết, qua những nét khắc họa chân dung nhân vật quan phủ, nhà văn đã thể hiện thái độ căm giận, lên án gay gắt quan phủ, hay cũng chính là điển hình cho một bộ phận quan lại phong kiến nửa đầu thế kỉ XX, vừa vô trách nhiệm, vừa bất nhân, sẵn sàng chà đạp lên muôn dân lầm than để hưởng thụ cuộc sống xa hoa ích kỉ. Cái tựa đề “Sống chết mặc bay” của tác phẩm cũng chính là lời nói, là thái độ của quan phụ mẫu đối với người dân khốn cùng trong cảnh thiên tai địch họa, nước mất nhà tan.

Với Sống chết mặc bay, Phạm Duy Tốn được ghi nhận là một trong những nhà văn hiện thực phê phán xuất sắc ở những năm hai mươi của thế kỉ XX, là người đặt nền móng vững chắc cho trào lưu văn học hiện thực phê phán Việt Nam giai đoạn 1930-1945 với những tác giả nổi bật như Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Nam Cao, Nguyên Hồng… Và có thể nhìn thấy hình ảnh quan phủ trong truyện ngắn này trong những nhân vật quan lại phong kiến trong văn học hiện thực giai đoạn sau, trong những Bá Kiến, Nghị Hách, Nghị đại, huyện Hinh… Tác phẩm quả thực có giá trị hiện thực và tính nhân đạo sâu bền.

Hình ảnh tên quan phủ đi hộ đê trong truyện ngắn “Sống chết mặc bay” của Phạm Duy Tốn - mẫu 2

Sống chết mặc bay truyện ngắn nổi tiếng nhất của nhà văn Phạm Duy Tốn. Không chỉ thành công trong việc đổi mới lối viết, tác giả còn cho người đọc thấy chân dung của tên quan phụ mẫu vô trách nhiệm, mất nhân tính – đại diện cho giai cấp thống trị lúc bấy giờ.

Tên quan phụ mẫu là người được cử đi để hộ đê ở làng X, phủ X. Lúc bấy giờ mưa như trút nước, đê đã bị thẩm lậu nhiều đoạn và nguy cơ vỡ rất cao, nhân dân ai nấy đều lo lắng sợ hãi, kẻ cuốc người thuổng hết sức hộ đê. Những tưởng rằng kẻ đứng đầu, kẻ vẫn được coi là cha mẹ của nhân dân sẽ cùng mọi người hộ đê để vượt qua cơn nguy khốn này, nhưng thực tế lại hoàn toàn trái ngược.

Quan phụ mẫu ở một nơi cao ráo, sạch sẽ, dù đê có vỡ cũng không ảnh hưởng gì đến ngài. Khung cảnh nơi quan phụ mẫu ở thật ấm cúng, sạch sẽ “đèn thắp sáng trưng; nha lệ, lính tráng đi lại rộn ràng” nơi đó quan phụ mẫu uy nghi, chễm chệ ngồi. Bên cạnh ngài với biết bao sơn hào, hải vị: bát yến hấp đường phèn, trầu vàng, cau đậu, rễ tía,… kẻ hầu người hạ túc trực kẻ gãi chân, kẻ phẩy quạt. Thật nhàn nhã và sung sướng biết bao.

Ngài nào đâu có biết ngoài kia dân phu đang khổ cực, khốn cùng đến mức nào. Chung quanh sập nơi ngài ngồi còn có thầy đề, đội nhất, thông nhì ngồi hầu ngài chơi tam cúc. Khung cảnh vô cùng trang nghiêm, tĩnh mịch, chỉ nghe thấy tiếng của quan phụ mẫu, những tiếng dạ vâng của kẻ hầu bài ngài. Cả một hệ thống quan lại hưởng lạc, ăn chơi trong khi người dân đang phải oằn mình chống lại thiên nhiên dữ tợn. Hai khung cảnh đối lập này càng làm rõ hơn bộ mặt độc ác của tên quan phụ mẫu.

Nhưng sự độc ác ấy còn được tác giả khắc họa thêm nữa, và tăng cao hơn nữa ở hai cuộc đối thoại của ngài với lính tráng và dân phu. Lần thứ nhất, khi quan đang “ngồi khểnh vuốt râu, rung đùi, mắt mải trông đĩa nọc” thì ngoài ra xa có tiếng kêu váng lên khiến ai nấy đều giật nảy mình, riêng quan vẫn điềm nhiên vì ngài sắp ù to, có người bẩm: “Bẩm, dễ có khi đê vỡ”, viên quan phụ mẫu buông một câu hết sức vô trách nhiệm: “Mặc kệ” rồi tiếp tục ván bài của mình.

Lần thứ hai, lần này bộ mặt tàn ác, vô nhân tính của hắn của thể hiện rõ nét hơn. “Bẩm quan lớn … đê vỡ mất rồi”, bấy giờ ai cùng nôn nao sợ hãi, còn quan phủ quát tháo ầm ĩ: “Đê vỡ rồi!... Đê vỡ rồi, thời ông cách cổ chúng mày, thời ông bỏ tù chúng mày! Có biết không? Lính đấu? Sao bay dám để cho nó chạy xồng xộc vào đây như vậy”.

Những tưởng ông ta sẽ sợ hãi mà ra xem tình hình ra sao, nhưng hắn lại tiếp tục ván bài của mình. Khi ván bài của hắn ù to cũng chính là lúc khắp mọi nơi nước ngập lênh láng, người sống không có chỗ ở, kẻ chết không có chỗ chôn, tình cảnh vô cùng thương tâm.

Bằng nghệ thuật tương phản tác giả đã vạch trần bộ mặt tàn ác bất nhân của tên quan phụ mẫu. Hắn chỉ lo ăn chơi hưởng lạc, bóc lột nhân dân, chứ tuyệt đối không quan tâm tới số phận, cuộc sống của họ. Ngôn ngữ nhân vật giản dị, bộc lộ tính cách độc ác, gần gũi với lời ăn tiếng nói hàng ngày.

Với sự sắp xếp tình tiết hợp lí, ngôn ngữ đặc trưng cho từng nhân vật, tác giả đã khắc họa thành công chân dung của tên quan phụ mẫu độc ác, mất nhân tính, hắn cũng chính là kẻ đại diện cho giai cấp cầm quyền lúc bấy giờ. Đồng thời qua tác phẩm cũng thể hiện niềm cảm thương sâu sắc cho số phận của những người dân bất hạnh, nghèo khổ.

**************

Trên đây VnDoc đã tổng hợp các bài văn mẫu Phân tích hình ảnh tên quan phủ đi hộ đê trong truyện ngắn “Sống chết mặc bay” của Phạm Duy Tốn cho các bạn tham khảo ý tưởng khi viết bài. Ngoài ra các bạn có thể xem thêm chuyên mục Soạn văn 7 mà VnDoc đã chuẩn bị để học tốt hơn môn Ngữ văn lớp 7 và biết cách soạn bài lớp 7 các bài trong sách Văn tập 1 và tập 2. Đồng thời các dạng đề thi học kì 1 lớp 7, đề thi học kì 2 lớp 7 mới nhất cũng sẽ được chúng tôi cập nhật. Mời các em học sinh, các thầy cô cùng các bậc phụ huynh tham khảo.

Các bài liên quan đến tác phẩm:

Chọn file muốn tải về:
Đóng Chỉ thành viên VnDoc PRO/PROPLUS tải được nội dung này!
Đóng
79.000 / tháng
Đặc quyền các gói Thành viên
PRO
Phổ biến nhất
PRO+
Tải tài liệu Cao cấp 1 Lớp
30 lượt tải tài liệu
Xem nội dung bài viết
Trải nghiệm Không quảng cáo
Làm bài trắc nghiệm không giới hạn
Mua cả năm Tiết kiệm tới 48%

Có thể bạn quan tâm

Xác thực tài khoản!

Theo Nghị định 147/2024/ND-CP, bạn cần xác thực tài khoản trước khi sử dụng tính năng này. Chúng tôi sẽ gửi mã xác thực qua SMS hoặc Zalo tới số điện thoại mà bạn nhập dưới đây:

Số điện thoại chưa đúng định dạng!
Số điện thoại này đã được xác thực!
Bạn có thể dùng Sđt này đăng nhập tại đây!
Lỗi gửi SMS, liên hệ Admin
Sắp xếp theo
🖼️

Văn mẫu lớp 7 Cánh diều

Xem thêm
🖼️

Gợi ý cho bạn

Xem thêm