Ca dao tục ngữ về gia đình
Tục ngữ, ca dao về tình cảm gia đình
Đề tài về gia đình được nói đến rất nhiều trong văn học dân gian Việt Nam. Ca dao tục ngữ về gia đình trở thành những lời dăn dạy vô cùng ý nghĩa mà cha ông ta muốn gửi gắm để nhắc nhở con cháu về đạo hiếu làm người. Dưới đây là tổng hợp các câu tục ngữ, bài ca dao hay về tình cảm gia đình do VnDoc sưu tầm và đăng tải. Mời các bạn tham khảo.
I. Tục ngữ về về gia đình
1. Tục ngữ về cha mẹ – ông bà
- Con có cha như nhà có nóc.
- Con dại cái mang.
- Ba tháng con sẩy, bảy tháng con sa.
- Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh.
- Con hư tại mẹ, cháu hư tại bà.
- Thương cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi.
- Cha mẹ sinh con trời sinh tính.
- Con hơn cha là nhà có phúc.
- Mẹ dạy thì con khéo, cha dạy thì con khôn.
2. Tục ngữ về anh chị em
- Chị ngã em nâng.
- Anh em trong nhà đóng cửa bảo nhau.
- Anh em như chông như mác.
- Anh em chém nhau đằng dọng, ai chém đằng lưỡi.
- Anh ngủ em thức, em chực anh nằm.
- Bán anh em xa, mua láng giềng gần.
- Anh em khinh trước, làng nước khinh sau.
- Máu chảy, ruột mềm.
- Một giọt máu đào hơn ao nước lã.
- Anh em hạt máu sẻ đôi.
- Anh em thuận hòa là nhà có phúc.
4. Tục ngữ về vợ chồng
- Ả Chức chàng Ngưu.
- Ả hợp cùng anh duyên ưa phận đẹp.
- Ẵm con chồng không bằng bồng cháu ngoại.
- Ấm oái như hai gái lấy một chồng.
- Bát còn có lúc xô xát, huống chi vợ chồng.
- Chồng nào vợ nấy.
- Thuận vợ thuận chồng, tát biển Đông cũng cạn.
- Ai đem dùi đục đi hỏi vợ.
- Chồng như đó (giỏ), vợ như hom.
- Bà phải có ông, chồng phải có vợ.
- Chồng chung vợ chạ, ai khéo hầu hạ thì được chồng riêng.
- Chồng đẹp, vợ đẹp những nhìn mà no.
- Chồng đã giận, vợ bớt lời.
- Chồng tới, vợ phải lui.
- Cả sông đông chợ, lắm vợ nhiều con.
- Cau non về hạt, gái đảm về chồng.
- Chẳng tu, vắng vợ cũng như tu.
- Chẻ củi xem thớ, lấy vợ xem tông.
- Chết trẻ còn hơn lấy lẽ chồng người.
- Đàn ông xây nhà, đàn bà xây tổ ấm.
- Chiều người lấy việc, chiều chồng lấy con.
II. Ca dao về tình cảm gia đình
Tiếp theo đó chính là danh sách những câu ca dao về gia đình trong Văn học Việt Nam. Cũng như được lưu truyền trong dân gian từ xa xưa tới nay.
1. Ca dao về cha mẹ, ông bà
Trách ai đặng cá quên nơm,
Đặng chim bẻ ná, quên ơn sinh thành.
Ai về tôi gửi đôi giày,
Phòng khi mưa gió để thầy mẹ đi.
Ơn cha nặng lắm ai ơi,
Nghĩa mẹ bằng trời, chín tháng cưu mang.
Ngồi buồn nhớ mẹ ta xưa,
Miệng nhai cơm búng, lưỡi lừa cá xương.
Lên non mới biết non cao,
Nuôi con mới biết công lao mẹ, thầy.
Con người có tổ, có tông,
Như cây có cội, như sông có nguồn.
Bé thì nhờ mẹ, nhờ cha,
Lớn lên nhờ vợ, lúc già nhờ con.
Đố ai đếm được lá rừng,
Đố ai đếm được mấy tầng trời cao.
Đố ai đếm được vì sao,
Đố ai đếm được công lao mẹ già.
Ngó lên luộc lạt mái nhà,
Bao nhiêu luộc lạt nhớ ông bà bấy nhiêu.
Công cha như núi Thái Sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Đi đâu mà bỏ mẹ già,
Gối nghiêng ai sửa,
Chén trà ai dâng?
Mẹ nuôi con biển hồ lai láng,
Con nuôi mẹ tính tháng tính ngày.
Mẹ già đầu tóc bạc phơ,
Lưng đau con đỡ, mắt mờ con nuôi.
Má ơi, đừng gả con xa,
Chim kêu, vượn hú biết nhà má đâu.
Tu đâu cho bằng tu nhà,
Thờ cha kính mẹ mới là chân tu.
Cầm cần rau cá ngược xuôi,
Nấu canh rau bợ mà nuôi mẹ già.
Công cha đức mẹ cao dày,
Cưu mang trứng nước những ngày ngây thơ.
Nuôi con khó nhọc đến giờ,
Trưởng thành con phải biết thờ song thân.
Thương thay chín chữ cù lao,
Tam niên nhũ bộ biết bao nhiêu tình.
Vắng nghe chim vịt kêu chiều,
Bâng khuâng nhớ mẹ chín chiều ruột đau.
Đói lòng ăn đọt chà là,
Để cơm nuôi mẹ, mẹ già yếu răng.
Cha già tuổi đã đủ trăm,
Chạnh lòng nhớ tới đằm đằm lụy sa.
Trời cao, biển rộng, đất dày,
Ơn cha nghĩa mẹ, ơn thầy chớ quên.
Đi khắp thế gian không ai tốt bằng Mẹ,
Gánh nặng cuộc đời không ai khổ bằng Cha.
Chim trời ai dễ đếm lông,
Nuôi con ai dễ kể công tháng ngày.
Mẹ già ở tấm lều tranh,
Sớm thăm tối viếng mới đành dạ con.
Sống thì con chẳng cho ăn,
Chết thì xôi thịt, làm văn tế trời.
Nuôi con chẳng quản chi thân,
Bên ướt mẹ nằm, bên ráo con lăn.
Một mẹ nuôi được mười con,
Nhưng mười con không nuôi được một mẹ.
Đói lòng ăn trái ổi non,
Nhịn cơm nuôi mẹ cho tròn nghĩa xưa.
2. Ca dao về anh chị em
Có tình thì đãi người dưng
Anh em bất nghĩa thì đừng anh em.
Anh em chín họ mười đời
Hai đằng cùng có, chẳng rời nhau ra.
Anh em một khí huyết dây (huyết phân)
Cũng như người có chân tay (tay chân) khác gì.
Ai ơi lấy đấy mà suy
Có câu đường lệ trong thi để truyền.
Chẳng thi, chẳng đỗ, chẳng sao
Anh em không được người nào bỏ nhau
Phải đòi cho được thày Cầu.
Phải đào hết đất nhà giàu đổ đi.
Anh em như tre cùng khóm,
Chị em gái như trái cau non.
Yêu nhau như thể tay chân,
Anh em hòa thuận, hai thân vui vầy.
Anh em hiền thật là hiền,
Bởi một đồng tiền nên mất lòng nhau.
Anh em như thể tay chân,
Rách lành đùm bọc, dở hay đỡ đần.
Khôn ngoan đối đáp người ngoài,
Gà cùng một mẹ chớ hoài đá nhau.
Anh em nào phải người xa,
Cùng chung bác mẹ, một nhà cùng thân.
3. Ca dao về vợ chồng
Cơm chẳng lành, canh chẳng ngọt.
Chín đụn mười con cũng lìa.
Chồng sang vợ được đi giày,
Vợ sang chồng được ghé ngày cậy trông.
Anh em ai đầy nồi nấy,
Vợ chồng không thấy lìa nhau.
Anh em cốt nhục đồng bào,
Vợ chồng là nghĩa lẽ nào không thương.
Chim khôn đậu nóc nhà quan,
Trai khôn tìm vợ, gái ngoan tìm chồng.
Chồng cần, vợ kiệm là tiên,
Ngông nghênh nhăng nhít là tiền bỏ đi.
Anh em như chân như tay,
Vợ chồng như áo cởi ngay nên lìa.
Áo rộng thì lắm ốc nhồi,
Những người lắm vợ là người trời bêu.
Chồng sang đi võng đầu rồng,
Chồng hèn gánh nặng đè còng cả lưng.
Đã rằng là nghĩa vợ chồng,
Dầu cho nghiêng núi, cạn sông chẳng rời.