Giải SBT Ngữ văn 7 Cánh diều bài 46
VnDoc xin giới thiệu bài Giải SBT Ngữ văn 7 bài 46: Người ngồi đợi trước hiên nhà sách Cánh diều chi tiết giúp học sinh dễ dàng xem và so sánh lời giải từ đó biết cách làm bài tập trong SBT Ngữ văn 7.
Bài: Người ngồi đợi trước hiên nhà
Câu 1 trang 33 SBT Ngữ Văn lớp 7 Tập 2: Văn bản Người ngồi đợi trước hiên nhà viết về vấn đề gì?
A. Phẩm chất cao đẹp của con người Việt Nam, đặc biệt là người phụ nữ trong các cuộc kháng chiến cứu nước.
B. Những giá trị truyền thống quý báu trong đời sống văn hóa tinh thần của dân tộc cần được trân trọng, lưu giữ và bảo tồn.
C. Vấn đề đạo lí truyền thống: “uống nước nhớ nguồn”, cần tôn trọng, phát huy và giáo dục thế hệ trẻ ngày nay.
D. Vấn đề giá trị và ý nghĩa của các cuộc kháng chiến vệ quốc cần được ghi nhớ và phát huy.
Trả lời:
Chọn đáp án: A. Phẩm chất cao đẹp của con người Việt Nam, đặc biệt là người phụ nữ trong các cuộc kháng chiến cứu nước.
Câu 2 trang 34 SBT Ngữ Văn lớp 7 Tập 2: Nhan đề văn bản Người ngồi đợi trước hiên nhà gợi cho người đọc điều gì?
A. Giúp hình dung ra một người ngồi trước cửa, đợi chủ nhà về
B. Làm người đọc tò mò: Người đợi là ai, đợi ai, đợi cái gì, ..?
C. Gợi lên ấn tượng về một người kiên nhẫn ngồi trước hiên nhà.
D. Gợi lên cảm xúc thương xót đối với một người phải ngồi chờ đợi.
Trả lời:
Chọn đáp án: D. Gợi lên cảm xúc thương xót đối với một người phải ngồi chờ đợi.
Câu 3 trang 34 SBT Ngữ Văn lớp 7 Tập 2: (Câu hỏi 3, SGK) Trong bài tản văn Người ngồi đợi trước hiên nhà, tác giả đã kết hợp phương thức tự sự nào với phương thức nào? Chỉ ra tác dụng của việc kết hợp đó.
Trả lời:
Có thể thấy ở bài tản văn này, tác giả sử dụng phương thức tự sự (kể chuyện) kết hợp với phương thức biểu cảm. Sự biểu cảm thể hiện nhiều ở lời người kể chuyện. Ví dụ: “Không khí làng quê chùng xuống vì tình cảnh kẻ Bắc người Nam. Những người đàn bà tiễn chồng, tiễn con ra đi, mắt đẫm lệ, hẹn hai năm trở về mà lòng còn nghi ngại.”. Hoặc: “Và mỗi buổi chiều muộn, dì lại ra ngồi trước hiên nhà nhìn con đường kéo dài như nỗi chờ mong trong vô vọng. Đêm đêm, ngọn đèn dầu trên gian thờ lập lòe theo tiếng kêu của thạch sùng, có cảm giác như thời gian ngưng đọng đã từ lâu lắm. Mỗi lần về thăm, ngồi bên mâm cơm đạm bạc với dì, tôi chợt nghĩ nếu ngày đó dì đi bước nữa, thì liệu bây giờ dì có được hưởng hạnh phúc hay không.”.
Kể về câu chuyện của dì mình, lời người kể luôn nhỏ nhẹ, như thì thầm với người đọc. Cách kể ấy vừa thể hiện được tình cảm và thái độ quý trọng, kính cẩn, thiêng liêng của người cháu; vừa tái hiện được sự hi sinh thầm lặng, sự chịu đựng bền bỉ, âm thầm, dẻo dai, lặng lẽ, “biết hi sinh nên chẳng nhiều lời” của những người phụ nữ Việt Nam.
Câu 4 trang 34 SBT Ngữ Văn lớp 7 Tập 2: (Câu hỏi 4, SGK) Tìm và phân tích một số câu hoặc đoạn văn trực tiếp bộc lộ tình cảm, suy nghĩ của tác giả.
Trả lời:
- “Mỗi lần về thăm, ngồi bên mâm cơm đạm bạc với dì, tôi chợt nghĩ nếu ngày đó dì đi bước nữa thì liệu bây giờ dì có được hưởng hạnh phúc không.”
- “Những ngày này, dì tôi, bà Lê Thị Thỏa, một trong bao người phụ nữ bình dị đã đi qua chiến tranh, năm nay tròn 80 tuổi, đang ngồi một mình đợi Tết ở ngôi nhà gần cầu Vĩnh Phú thuộc thị trấn Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi. Nguyện cầu hồn thiêng những người đã ngã xuống độ trì cho dì bình an, trường thọ.”
→ Câu văn thể hiện sự xót thương vô cùng của nhân vật “tôi” khi chứng kiến cuộc sống cô đơn, lẻ loi của dì Bảy, cả cuộc đời của dì là sự chờ đợi trong khắc khoải, hi vọng bồn chồn.
Câu 5 trang 34 SBT Ngữ Văn lớp 7 Tập 2: (Câu hỏi 6, SGK) Có người nói: Dì Bảy trong bài tản văn giống như hình tượng hòn Vọng Phu ở các câu chuyện cổ. Ý kiến của em như thế nào?
Trả lời:
- Dì Bảy trong bài tản văn giống hình tượng hòn Vọng Phu vì ở dì là sự hi sinh, chờ đợi, thương yêu người chồng nơi chiến trận của mình. Dù biết chồng đã hi sinh dì vẫn ôm ấp lấy quá khứ ấy. Ở dì là sự hi sinh cao cả thầm lặng, đại diện của những người phụ nữ Việt Nam trong chiến tranh
Câu 6 trang 34 SBT Ngữ Văn lớp 7 Tập 2: Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:
Mùa lụt năm ngoái, sau những trận mưa dữ dội, vùng quê tôi nước tràn trắng trời trắng đất. Nhà ngoại tôi nước ngập ngang cửa sổ, gần bằng trận lụt năm Giáp Thìn (1964). Nhớ hồi đó, tôi còn nhỏ, nhà tôi đông người, thôn xóm cho ghe đến tận nhà chuyển người và gia súc lên vùng đồi cao. Lần này, chỉ có dì Bảy với người cháu gái, nửa đêm nước dâng vào nhà bất thần, may có vài người bà con ở gần đến giúp đỡ kê bàn ghế có chỗ nằm cao hơn mặt nước, chờ đất trời thu nước xuống.
Mùa lũ dữ rồi cũng qua, vườn rau xanh trở lại. Những ngày này, dì tôi, bà Lê Thị Thỏa, một trong bao người phụ nữ bình dị đã đi qua chiến tranh, năm nay tròn 80 tuổi, đang ngồi một mình đợi Tết ở ngôi nhà gần cầu Vĩnh Phú thuộc thị trấn Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi. Nguyện cầu hồn thiêng những người đã ngã xuống độ trì cho dì bình an, trường thọ.
a. Trong đoạn trích, tính chân thực (không hư cấu) của tác phẩm kí được thể hiện ở chi tiết, câu, đoạn văn nào?
b. Dẫn ra một số chi tiết (từ ngữ) để thấy dấu ấn ngôn ngữ địa phương được thể hiện ở đoạn trích trên.
Trả lời:
a. Tản văn thuộc thể kí. Kí nói chung dựa vào sự thực (người thực, việc thực, …), không hư cấu, tưởng tượng. Đặc điểm chung này được thể hiện khá rõ trong đoạn trích. Cụ thể, tác giả đã dẫn ra các sự kiện như: Trận lụt năm ngoái to “gần bằng trận lụt năm Giáp Thìn” và đặc biệt, phần cuối tác giả nêu rõ tên, tuổi, quê quán thực của dì Bảy: “… bà Lê Thị Thỏa, một trong bao người phụ nữ bình dị đã đi qua chiến tranh, năm nay tròn 80 tuổi, đang ngồi một mình đợi Tết ở ngôi nhà gần cầu Vĩnh Phú thuộc thị trấn Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi.”.
b. Có thể thấy, trong đoạn trích có nhiều từ ngữ địa phương Nam Bộ nói chung và nam miền Trung nói riêng. Chẳng hạn: cách gọi tên “dì Bảy”, “ngoại”; từ chỉ phương tiện như “ghe”; …
Câu 7 trang 34 SBT Ngữ Văn lớp 7 Tập 2: Đọc văn bản sau và thực hiện các yêu cầu bên dưới:
Kí ức cây hà nội
[…] Người sống ở Hà Nội hơn nửa thế kỉ trước gắn kí ức của mình với những cột đèn sắt tán đinh, những leng keng tàu điện và còi tầm nóc Nhà hát Lớn. Với chợ búa nhộn nhịp Đồng Xuân – Bắc Qua, chợ Hàng Da, chợ Hàng Bè, chợ Hôm – Đức Viên, chợ Bưởi, chợ Mơ. Kí ức gắn liền với dòng sông Hồng và chiếc cầu Long Biên hùng vĩ mà thanh thoát chạy qua bãi giữa ngút ngàn xanh. Gắn với giọng nói trong trẻo, nhã nhặn của thiếu nữ Hà Nội và cách ăn mặc khiêm nhường, không bao giờ phô trương thái quá. Và gắn với những hàng câu làm nên tên tuổi của phố phường cả mới và cũ.
Cây Hà Nội được thừa hưởng quy hoạch của nền văn minh đô thị châu Âu do người Pháp để lại sau hòa bình. Hẳn là kết quả của rất dày công nghiên cứu và tìm kiếm. Họ đã để lại nhiều giống cây trồng đô thị không có trong hệ thực vật Việt Nam. Cách thức quy hoạch cây trồng trong phố cũng được tính toán tỉ mỉ từ tầm vóc cây, độ tỏa rộng của lá cành cho đến màu hoa và mùi hương. Họ cũng thành lập hẳn một Vườn Bách Thảo bên cạnh Hồ Tây để mang rất nhiều giống cây mới lạ trên thế giới về trồng.
Hàng cây bàng trên phố Tràng Thi sau hòa bình đã đạt độ lớn cực đại, che phủ suốt chiều dài con phố. Mùa hè đi trên con phố ấy gần như không nhìn thấy ánh Mặt Trời. Tháng Bảy mùa mưa, bàng chín rụng vàng mặt đất. Trẻ con nghỉ hè, đội mưa nhặt những quả bàng ngọt lịm ăn không biết chán. Hột bàng đùm vào vạt áo mang về, dùng búa đập ra lấy nhân béo ngậy. Mùa đông, cả con phố đỏ thẫm sắc lá trên cành và mặt đất. Những cành bàng gầy guộc, dãi dầu in lên nền trời tĩnh lặng, mịt mù sương khói thần tiên. Bước chân của những người gánh hàng rong xạc xào, nhẫn lại gọi mời.
Mười mấy câu bồ đề trước cửa trường Tiểu học Tây Sơn đường Trần Nhân Tông mùa thay lá rải vàng mặt đất. Lá mới buông chùm trong veo, tĩnh lặng, từ bi. Lũ trẻ tan trường như những thiên thần nhỏ vui đùa trong lá.
Hàng cây sao phố Lò Đúc mang đại ngàn vế phố phường chật chội. Những cây sao đen thẳng tắp vươn lên nền trời tỏa bóng. Phố âm âm tối suốt cả ngày. Xao xác tiếng đàn cò tìm về mỗi chiều làm người ta hình dung ra độ cao vượt bậc của cây. Phố Lò Đúc còn có tên gọi dân dã là “Bang cò ỉa”. Qua đấy buổi chiều phải dỏng tai nghe ngóng tiếng cò trên đầu mà đi. Phiền đấy nhưng luôn rộn tiếng cười. Ai đó có chuyện buồn đi qua phố ấy lúc nhập nhoạng hẳn sẽ được những tiếng cười an ủi rất nhiều.
Hoa sữa trồng thành hàng thẳng tắp bên đường Nguyễn Du. Tháng Chín ngọt ngào thơm đêm thành phố. Gió mùa đông bắc tràn về làm cho những chùm quả khô tách vỏ, hạt bông hoa sữa lang thang bay sang phía hồ Thiền Quang, kết lại thành đám lớn nổi lên trên mặt nước.
Hàng cây sấu cổ thụ trên đường Trần Hưng Đạo sần sùi u mấu như những bức điêu khắc hiện tại. Cây Hà Nội mang nhiều vết tích những tháng năm nhọc nhằn chiến tranh đói khổ. Người ta đóng đinh lên cây để treo vài chiếc lốp hỏng như một biển hiệu của cửa hàng sửa chữa xe đạp. Những rễ sấu già mọc chồi lên khỏi mặt đất như chiếc ghế dài lí tưởng cho việc đợi chờ sửa xe. Những năm tháng ấy, không chỉ quả sấu mới là thức ăn mùa hè. Lá sấu nhiều khi cũng được người Hà Nội cho vào nồi đánh dấm nước rau luộc. Trẻ con thất học khá nhiều. Hầu hết sung vào đội quân trèo me trèo sấu. Đến mức “trèo me trèo sấu” đã trở nên thành ngữ của người Hà Nội, chỉ đám du thủ thực trong tương lai.
Phố Lý Thường Kiệt hoa phượng, phố Thợ Nhuộm bằng lăng, phố Hai Bà Trưng cây nhội, phố Quang Trung hai hàng cơm nguội, Lê Hồng Phong, Hoàng Diệu rợp tán xà cừ và rất nhiều con phố Hà Nội gợi nhớ nhung bằng những hàng cây của mình. Kí ức vẫn còn nguyên vẹn nhưng cây cối phố phường đã hư hao thay đổi khá nhiều. Hà Nội không phải là mảnh đất hứng nhiều giông bão, cây cối bị phá hủy phần lớn do con người […]
(Đỗ Phấn, Bâng quơ một thời Hà Nội, NXB Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh, 2018)
a. Văn bản viết về đề tài gì? Từ “kí ức” trong nhan đề Kí ức cây Hà Nội cho em biết điều gì?
b. Hãy chỉ ra các yếu tố tự sự, trữ tình, nghị luận được sử dụng trong văn bản.
c. Câu văn nào thể hiện trực tiếp tình cảm, ý nghĩ của tác giả trong văn bản Kí ức cây Hà Nội?
d. Nội dung văn bản giúp em hiểu thêm được những gì về thành phố Hà Nội?
Trả lời:
a. Văn bản viết về đề tài: Quê hương đất nước.
Nghĩa của từ “kí ức” là: hình ảnh, sự việc đã qua, được trí nhớ ghi lại và gợi lên (Hoàng Phê (Chủ biên), Từ điển tiếng Việt, 2017). Từ nghĩa của từ “kí ức”, suy ra nội dung hàm chứa trong nhan đề Kí ức cây Hà Nội.
b. Các yếu tố tự sự, trữ tình, nghị luận được sử dụng trong văn bản là:
- Tự sự: “Trẻ con nghỉ hè đội mưa nhặt những quả bàng ngọt lịm ăn không biết chán. Hột bàng đùm vào vạt áo mang về dùng búa đập ra lấy nhân béo ngậy.”.
- Miêu tả: “Hoa sữa trồng thành hàng thẳng tắp bên đường Nguyễn Du. Tháng Chín ngọt ngào thơm đêm thành phố. Gió mùa đông bắc tràn về làm cho những chùm quả khô tách vỏ, hạt bông hoa sữa lang thang bay sang phía hồ Thiền Quang kết lại thành đám lớn nổi lên trên mặt nước.”.
- Trữ tình: “Qua đấy buổi chiều phải dỏng tai nghe ngóng tiếng cò trên đầu mà đi. Phiền đấy nhưng luôn rộn tiếng cười. Ai đó có chuyện buồn đi qua phố ấy lúc nhập nhoạng hẳn là sẽ được những tiếng cười an ủi rất nhiều.”.
- Nghị luận: “Kí ức vẫn còn nguyên vẹn nhưng cây cối phố phường đã hư hao thay đổi khá nhiều. Hà Nội không phải là mảnh đất hứng nhiều giông bão, cây cối bị phá hủy phần lớn do con người.”.
c. Câu văn thể hiện trực tiếp tình cảm, ý nghĩ của tác giả trong văn bản Kí ức cây Hà Nội:
- Người sống ở Hà Nội hơn nửa thế kỉ trước gắn kí ức của mình với những cột đèn sắt tán đinh, những leng keng tàu điện và còi tầm nóc Nhà hát Lớn.
- Kí ức gắn liền với dòng sông Hồng và chiếc cầu Long Biên hùng vĩ mà thanh thoát chạy qua bãi giữa ngút ngàn xanh. Gắn với giọng nói trong trẻo, nhã nhặn của thiếu nữ Hà Nội và cách ăn mặc khiêm nhường, không bao giờ phô trương thái quá.
d. Thông qua văn bản giúp em thêm hiểu biết mới về Hà Nội: như hàng cây sao ở phố Lò Đúc, hoa sữa được trồng thành hàng bên đường Nguyễn Du, hàng cây bàng trên phố Tràng Thi sau hòa bình đã đạt độ lớn cực đại… Những hình ảnh đó càng làm cho em thêm yêu và tự hào về Hà Nội.
>>>> Bài tiếp theo: Giải SBT Ngữ văn 7 Cánh diều bài 47
Trên đây là toàn bộ lời giải Giải SBT Ngữ văn lớp 7 bài 46: Người ngồi đợi trước hiên nhà sách Cánh diều. Các em học sinh tham khảo thêm Ngữ văn 7 Kết nối tri thức và Ngữ văn lớp 7 Chân trời sáng tạo. VnDoc liên tục cập nhật lời giải cũng như đáp án sách mới của SGK cũng như SBT các môn cho các bạn cùng tham khảo.