Giao diện mới của VnDoc Pro: Dễ sử dụng hơn - chỉ tập trung vào lớp bạn quan tâm. Vui lòng chọn lớp mà bạn quan tâm: Lưu và trải nghiệm

Nghị luận về tác phẩm văn học (truyện thơ)

Nghị luận về tác phẩm văn học (truyện thơ) là bài viết chi tiết, giúp các bạn học sinh có thêm tài liệu để củng cố kiến thức. Mời các bạn tham khảo để có thêm tài liệu làm bài Văn mẫu lớp 11 Chân trời sáng tạo!

Bản quyền tài liệu thuộc về VnDoc, nghiêm cấm hành vi sao chép với mục đích thương mại.

Nghị luận về tác phẩm Nàng Ờm

“Nàng Ờm - chàng Bồng Hương” là truyện thơ tiêu biểu của dân tộc Mường. Tác phẩm có nội dung ý nghĩa, hình thức thể hiện độc đáo, thể hiện được lối tư duy phóng khoáng, giàu hình ảnh của người miền núi.

Về mặt nội dung, tác phẩm đề cao tình yêu, sự tự do và khát khao hạnh phúc chân chính của con người. Qua lời kể của nàng Ờm – người con gái trong cuộc tình ấy, ta có thể thấu hiểu được hoàn cảnh, sự thủy chung của con người khi yêu và những rào cản xã hội khắt khe.

Các cố, các mẹ ơi!

Hôm nay trăng sáng đẹp trời

Em kể lại kiếp khốn cho các mẹ biết

Em kể lại kiếp khổ cho các mẹ hay

Trong những gian nhà lớn giữa núi rừng tĩnh mịch, mọi người quây quần bên bếp lửa hồng để cùng nghe những câu chuyện xa xưa về bản, về mường. Linh hồn nàng Ờm tự lên tiếng kể về số phận của mình vào một đêm trăng sáng đã tạo cho câu chuyện màu sắc huyền bí, thiêng liêng. Câu chuyện của nàng chính là “kiếp khốn”, “kiếp khổ” - bi kịch tình yêu bị đẳng cấp xã hội, khoảng cách giàu - nghèo ngăn cấm.

Cái chuyện con Ờm

Trên núi Làn Ai

Quê nhà Ờm ở đất Cành Nành

Làng Ca Da, mường Kỳ Ống

Để các mẹ suy đi nghĩ lại

Mà thương cho cái kiếp con người

Các mẹ sống trên đời

Đừng chê người ăn ngón

Đoạn thơ là lời nàng Ờm tự giới thiệu về mình. Quê nàng ở Cành Nành, làng Ca Da, mường Kỳ Ống. Cành Nanh, Ca Da, Kỳ Ống đều là các địa danh thuộc miền núi phía Tây tỉnh Thanh Hóa - nơi cư trú của nhiều đồng bào dân tộc Mường. Những chi tiết khác về gia cảnh của nàng Ờm nằm trong những phần khác của truyện thơ. Ngược lại với chàng Bồng Hương có hoàn cảnh nghèo khổ thì Ờm sinh ra trong gia đình giàu có nên cha mẹ rất nghiêm khắc và khuôn phép. Ờm và Bồng Hương đã biết nhau từ nhỏ. Lớn lên, họ yêu nhau và có ước mơ hạnh phúc giản dị, chân thành:

Ăn chung một gian

Uống nước chung một máng

Xỉa răng chung một ống

Chết hay sống cùng trọn một đời.

Bất hạnh thay, biến cố ập đến. Tình yêu sâu nặng của họ bị xã hội và gia đình phản đối. Ờm và Bồng Hương đã cùng nhau bỏ trốn lên núi Làn Ai. Những tháng ngày ở Làn Ai, hai người sống rất hạnh phúc. Khi sống cùng nhau, Bồng Hương làm việc không ngơi tay, Ờm cũng cũng làm lụng chẳng ngừng nghỉ. Buổi sáng nàng chăn lợn, chăn gà, buổi chiều lại đi cấy. Điều này cho thấy ý thức vun vén cho tình yêu, sự cần cù, nghiêm túc xây dựng cuộc sống của hai người. Bồng Hương đã tính đến chuyện sẽ cùng người yêu bỏ sang mường khác sinh sống. Nhưng vì sợ quyền cha, phép mẹ sẽ tìm đến hành hạ hai người lần nữa nên Ờm đã ăn lá ngón để kết liễu đời mình, giữ trọn lời thề tình yêu. Bồng Hương cũng ra đi theo người yêu. Thế nên, Ờm mới nói rằng: “Các mẹ sống trên đời/Đừng chê người ăn ngón”. Hành động ăn lá ngón là để chứng minh và bảo toàn cho tình yêu và danh dự, không phải một hành động bộc phát. Chỉ có nàng mới có thể thấu hiểu được chính hoàn cảnh và nỗi đau của mình khi ấy để đi đến quyết định đau đớn.

Nàng Ờm không hận thù, ghét bỏ mà vẫn mong cho những người ở lại “sống lâu trăm năm”, “thêm trăm ngàn tuổi”, “nên bố nên mẹ”, “giàu sang”. Ờm vẫn trân trọng và thương nhớ quê hương, mong ước được quay về giãi bày tình yêu và nỗi khổ đau cho mọi người thấu tỏ, thương xót. Nàng Ờm mong rằng sẽ không có đôi lứa nào phải tủi, phải đau giống như nàng. Thế nhưng, Làn Ai cùng tình yêu với chàng Bồng Hương đã níu chân nàng ở lại ngọn núi:

Nhưng em không về, con gà nó đợi

Nếu em không về, con lợn nó mong

Gà nó bới rẫy bông

Lợn ăn rỗng phá ha

Đoạn trích kết thúc bằng lời mời gọi mọi người lên thăm núi Làn Ai và khẳng định nghĩa tình con người làm nên nghĩa tình cho sông núi.

Về nghệ thuật, tác phẩm có sự kết hợp hài hòa giữa tự sự và trữ tình cùng lối nói giàu hình ảnh, phép điệp, ngôn giữ có nhịp điệu, giản dị và trong sáng, lời thơ có nhiều vế đối nhau cân xứng.

Như vậy, truyện thơ “Nàng Ờm – chàng Bồng Hương” có nội dung sâu sắc, giàu tính nhân văn và được thể hiện qua hình thức nghệ thuật đặc sắc. Tác phẩm xứng đáng được phổ biến rộng rãi hơn nữa trong thời đại hiện nay.

Nghị luận về tác phẩm Lục Vân Tiên

Theo đánh giá của các nhà nghiên cứu, bên cạnh những tác phẩm thơ văn nổi tiếng của cụ Nguyễn Đình Chiểu như: Ngư tiều y thuật vấn đáp, Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Văn tế nghĩa sĩ trận vong Lục tỉnh… thì truyện thơ Lục Vân Tiên là một tác phẩm lớn của nền văn học Việt Nam, có ảnh hưởng sâu sắc đến văn hóa dân gian các tỉnh phía Nam.

Đây là tác phẩm được cụ Đồ Chiểu viết trước khi Pháp xâm lược đất nước ta. Tác phẩm có tổng 2.075 câu thơ với hình thức truyện kể văn vần (hay còn gọi là truyện thơ) cùng nhiều hình tượng nghệ thuật đẹp trong văn chương đã được nhân dân đón nhận, yêu thích. Trong đó, nhân vật nam chính của tác phẩm là người hết mực hiếu thảo, nêu cao lý tưởng, dũng cảm đánh cướp Phong Lai cứu dân, đánh giặc Ô Qua cứu nước. Nhân vật nữ chính Kiều Nguyệt Nga, là cô gái thủy chung son sắt với Lục Vân Tiên theo quan điểm lấy chữ nghĩa làm gốc. Các nhà nghiên cứu nhận định, tác phẩm có sức sống rất lớn trong đời sống tinh thần của nhiều thế hệ người Việt Nam, nhất là người dân Nam Bộ.

Tác phẩm Lục Vân Tiên đã thể hiện tư tưởng của cụ Nguyễn Đình Chiểu. Mỗi một nhân vật trong tác phẩm không chỉ là gửi gắm niềm khát vọng, lý tưởng sống, mục đích sống, ý chí sống to lớn của cụ Nguyễn Đình Chiểu mà còn phản ánh cuộc đời của cụ. Thông qua các tuyến nhân vật, cụ đã phê phán mạnh mẽ những xấu xa của xã hội.

Những câu thơ quen thuộc trong tác phẩm Lục Vân Tiên đã đi vào lòng nhiều thế hệ như: “Trước đèn xem chuyện Tây Minh/ Gẫm cười hai chữ “nhơn tình” éo le/ Hỡi ai, lẳng lặng mà nghe/ Giữ răn việc trước, lành dè thân sau/ Trai thì trung hiếu làm đầu/ Gái thì tiết hạnh làm câu trau mình…”.

Tác phẩm truyện thơ Lục Vân Tiên là một tác phẩm độc đáo “có một không hai” trong số những truyện thơ ở Việt Nam. Cụ đã tiếp thu được những tinh hoa của văn hóa dân gian từ cách cảm, cách nghĩ đến lời ăn tiếng nói của người dân lao động nên khi chuyển tải vào tác phẩm Lục Vân Tiên, tác phẩm đã trở nên gần gũi với dân gian và sớm được nhân dân khai thác như nguồn chất liệu cho dân ca.

Tác phẩm Lục Vân Tiên không chỉ được xuất bản ở nhiều giai đoạn, mà còn được đưa vào dưới dạng đờn ca tài tử, với hình thức “ca ra bộ” đầu tiên của hình thức đờn ca tài tử, là một bước đệm để xây dựng nghệ thuật sân khấu cải lương. Đặc biệt, từ tác phẩm Lục Vân Tiên đã cho ra đời loại hình diễn xướng Nói thơ Vân Tiên.

Hình thức diễn xướng Nói thơ Vân Tiên trên vùng đất Bến Tre đã lan tỏa và có mặt trong một không gian rộng lớn cho thấy rằng, tác phẩm truyện thơ Lục Vân Tiên có một giá trị rất sâu sắc trong đời sống cộng đồng. “Nói thơ Vân Tiên” hiện vẫn còn được lưu giữ trong ký ức của nhiều người lớn tuổi và được truyền dạy cho các thế hệ trẻ về sau.

Thế hệ trẻ sẽ tiếp tục gìn giữ, kế thừa, phát huy những giá trị truyền thống văn hóa tốt đẹp của Bến Tre, trong đó, cần phát huy loại hình diễn xướng Nói thơ Vân Tiên phù hợp với điều kiện hiện nay như: trong sinh hoạt đoàn thể, trong giao lưu, trong các cuộc thi diễn…

Để tuyên truyền về các tác phẩm thơ văn của cụ Đồ Chiểu, nhất là truyện thơ Lục Vân Tiên, Trung tâm Văn hóa - Điện ảnh nhiều tỉnh thành trên cả nước đã nhiều năm tổ chức Liên hoan Đờn ca tài tử và Hội thi hóa trang Lục Vân Tiên - Kiều Nguyệt Nga. Trong đó, có trình diễn lại truyện thơ Lục Vân Tiên của cụ Đồ Chiểu. Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch cũng đã có những định hướng về nội dung này. Bên cạnh những hoạt động nghiên cứu, dự kiến sẽ có lớp tập huấn cho các đối tượng như: học sinh, sinh viên, công nhân, viên chức, lao động, hướng dẫn viên và những người hoạt động trong hoạt động du lịch…

Truyện thơ Lục Vân Tiên đã trở thành tác phẩm quen thuộc trong các tầng lớp nhân dân cả xưa và nay, có thể ít người nhớ hết trọn vẹn truyện thơ nhưng các tuyến nhân vật như Lục Vân Tiên, Kiều Nguyệt Nga… đã đi sâu vào tâm thức của nhiều thế hệ, và nhiều người vẫn nhớ vài đoạn thơ trong số ấy: “Nhớ câu kiến ngãi bất vi/ Làm người thế ấy cũng phi anh hùng...”.

Nghị luận về tác phẩm văn học mẫu 3

Có lẽ, những bí ẩn về thiên nhiên vẫn là một câu hỏi lớn đối với con người thời cổ. Chính vì vậy, họ đã sáng tạo nên các câu chuyện để trả lời cho những thắc mắc của bản thân. Đọc truyện "Thần Trụ trời", ta thấy được cách phân chia bầu trời và mặt đất. Đọc "Prô-mê-tê và loài người", ta được giải đáp về cách các vị thần tạo ra muôn vật và loài người. Không giống hai tác phẩm trên, truyện "Đi san mặt đất" lại là những lí giải đơn giản về quá trình loài người chung lòng, góp sức san phẳng mặt đất để làm ăn mà không có sự xuất hiện của các vị thần. Truyện gây ấn tượng bởi những đặc sắc trong chủ đề và hình thức nghệ thuật.

Truyện "Đi san mặt đất" có chủ đề viết về quá trình khai hoang và cải tạo tự nhiên của người Lô lô xưa, quá trình này cần có sự giúp sức của tất cả mọi người lúc bấy giờ. Người Lô Lô xưa đã có những nhận thức khá nguyên sơ, đơn giả về thế giới vũ trụ, đồng thời họ cũng có ý thức trong việc cải tạo thế giới sống quanh mình Khi Trái Đất vẫn còn hoang sơ thì người xưa đã cùng nhau đi trình khai hoang và cải tạo tự nhiên. Đó là thời gian không thể xác định, mà người cổ xưa chỉ biết là:

"Ngày xưa, từ rất xưa...

Người già không nhớ nổi

Mấy năm mấy nghìn đời

Ngày xưa từ rất xưa...

Người trẻ không biết tới

Mấy nghìn, mấy vạn năm"

Mốc thời gian không cụ thể khiến chúng ta không thể biết chính xác đó là thời điểm nào. Khoảng thời gian ấy xưa đến mức người già cũng không thể nhớ nổi, người trẻ thì lại chẳng thể biết tới. Và cuộc sống con người lúc bấy lại thật đơn giản. Trước khi đi san mặt đất, con người vẫn sống chung, ở chung và ăn chung với nhau. Người Lô Lô xưa đã biết tận dụng điều kiện tự nhiên để trồng bắp, lấy nước uống từ "bụng đá" "Trồng bắp trên núi cao/ Uống nước từ bụng đá". Tuy nhiên, sống trong không gian hoang sơ, thiếu thốn khi "Bầu trời nhìn chưa phẳng/ Mặt đất còn nhấp nhô" nên con người thời cổ đã khẩn trương cùng nhau đi tái tạo thế giới.

Để có thể san phẳng mặt đất, san phẳng bầu trời thì người Lô Lô đã biết tận dụng sức mạnh của các loài vật xung quanh lúc bấy giờ:

"Kiếm con trâu sừng cong

Chọn con trâu sừng dài"

Họ kiếm những con trâu sừng phải cong, phải dài vì đây là những con trâu khỏe, trâu tốt. Chúng đi cày bừa san đất mà không quản gì mệt nhọc. Có sức giúp đỡ của chúng thì công cuộc cải tạo mặt đất của người Lô Lô xưa chẳng mấy chốc mà thành. Thế nhưng công việc san phẳng mặt đất, san phẳng bầu trời là công việc chung của muôn loài nên con người đã đi chuột chũi cóc, ếch. Đáp lại lời kêu gọi của người Lô Lô xưa, các con vật đều tìm cớ trốn tránh, thoái thác. Không thể trông cậy vào chúng, con người đã tập hợp sức mạnh của nhau để cải tạo thiên nhiên "Giống nào cũng không đi/ Người gọi nhau làm lấy". Truyện "Đi san mặt đất" của người Lô Lô không chỉ đơn thuần là lời lí giải về sự bằng phẳng của mặt đất và bầu trời mà còn phản ánh nhận thức của người Lô Lô xưa về quá trình tạo lập thế giới. Theo cách lí giải của họ, để có được mặt đất, bầu trời bằng phẳng như ngày nay thì người Lô Lô xưa đã phải đi san mặt đất. Con người đã tự biết tập hợp sức mạnh của cộng đồng để chung tay thực hiện công việc. Và qua đây, ta thấy được con người trong buổi sơ khai đã có ý thức trong việc cải tạo thiên nhiên để phục vụ cho cuộc sống của chính mình.

Không chỉ độc đáo ở chủ đề, truyện "Đi san mặt đất" còn có những đặc sắc ở khía cạnh nghệ thuật. Người Lô Lô xưa đã sáng tạo truyện thần thoại bằng hình thức thơ ca với giọng điệu vui tươi, nhí nhảnh tạo cảm giác thích thú cho người đọc.

Bên canh đó, truyện còn sử dụng biện pháp nhân hóa cùng với ngôn ngữ giản dị, giàu hình ảnh. Các con vật được nhân hóa có những cử chỉ giống con người đã giúp cho chuyện trở nên sinh động hơn. Người Lô Lô xưa đã sử dụng ngôn ngữ gần gũi, giản dị giúp cho bạn đọc ở mọi lứa tuổi dễ dàng tiếp nhận truyện.

"Đi san mặt đất" là một trong những truyện thần thoại đặc sắc của người Lô Lô. Truyện đã thể hiện những lí giải nguyên sơ của người xưa về vũ trụ, về thế giới qua thể thơ năm chữ kết hợp sử dụng các biện pháp nghệ thuật. Qua câu chuyện, ta càng thêm ấn tượng với trí tưởng tượng của người xưa trong việc sáng tạo những giá trị văn hóa dân gian.

Chia sẻ, đánh giá bài viết
1
Sắp xếp theo
    🖼️

    Gợi ý cho bạn

    Xem thêm
    🖼️

    Văn mẫu lớp 11 Chân trời sáng tạo

    Xem thêm