Phân tích tản văn "Cõi lá" - Đỗ Phấn
Phân tích tản văn “Cõi lá” - Đỗ Phấn
VnDoc.com xin gửi tới các bạn bài văn mẫu mới nhất Phân tích tản văn “Cõi lá” - Đỗ Phấn. Mời các bạn cùng tham khảo thêm tại mục Ngữ văn lớp 11 nhé!
Dàn ý phân tích Cõi lá
I. Mở bài
- Giới thiệu đôi nét về tác phẩm, tác giả
II. Thân bài
- Tác giả Đỗ Phấn
+ Ông sinh năm 1956 tại Hà Nội
+ Bằng bút pháp nghệ thuật tài hoa, độc đáo cùng những màu sắc khác lạ qua việc khắc họa hình ảnh đời sống sinh hoạt của người dân Thủ đô.
- Tác phẩm Cõi lá: Nhà văn đã bằng tình yêu thương của mình, mà khắc họa nên vẻ đẹp của mùa xuân nơi mảnh đất Thủ đô, thật thơ mộng, thật dịu dàng, khiến cho bao trái tim bạn đọc phải xao xuyến về Hà Nội thương
- Tổng kết giá trị nội dung, giá trị của tác phẩm
- Nhận xét tình cảm của nhà thơ dành cho mảnh đất Hà Nội
III. Kết bài
Cảm nghĩ của bản thân về tác phẩm “Cõi lá”
Phân tích Cõi lá mẫu 1
“Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi, đất bỗng hóa tâm hồn”
Những câu thơ ấy của nhà thơ Chế Lan Viên đã cho thấy sự gắn bó sâu sắc giữa con người với mảnh đất nơi ta sinh sống. Từ nơi ta sinh ra, lớn lên đến từng vùng đất ta đặt chân tới trong hành trình của cuộc đời, tất cả đều trở thành một mảnh ghép sống động của tâm hồn. Hiểu được tình cảm ấy, nhà văn - họa sĩ Đỗ Phấn - một người con của Hà Nội đã gửi gắm tình yêu với Thủ đô nghìn năm văn hiến qua tản văn “Cõi lá”.
Đỗ Phấn bén duyên với văn chương khá muộn bởi ông vốn là một họa sĩ. Nhà văn tự nhận mình là một kẻ “tay ngang” trong văn chương bởi ông không học qua một trường lớp chuyên nghiệp nào. Ông viết về Hà Nội bằng một tình yêu tự nhiên và tha thiết. Đỗ Phấn quan niệm rằng tất cả những điều đẹp đẽ và xấu xí của nơi mình đang sống đều “trở thành ký ức theo ta suốt đời. Lớn hơn, có thể là tiền đề cho việc sáng tạo văn học nghệ thuật”. Những tác phẩm như “Ngồi lê đôi mách với Hà Nội”, “Hà Nội thì không có tuyết”, “Bâng quơ một thời Hà Nội”,… đều cho thấy con mắt quan sát tinh tường, những cảm nhận tinh tế cùng sự gắn bó của Đỗ Phấn với Hà Nội. Tác phẩm “Cõi lá” được sáng tác vào năm 2008, là một trong những tản văn được yêu thích nhất của Đỗ Phấn, thể hiện rõ đặc trưng phong cách của nhà văn.
Mở đầu tản văn là cảm xúc mãnh liệt của tác giả khi mùa xuân tới: “Bẽ bàng mùa xuân đến muộn. Khi cái nắng đã chao chát trên những lộc non báo hiệu mùa hè, chẳng hiểu vì sao lòng người bỗng rộn ràng đến thế. Oà thức cùng với xôn xao lá cành”. Từ láy “Bẽ bàng” được đảo lên đầu câu, nhấn mạnh tâm trạng của con người. Mùa xuân năm nay tới hơi muộn nên lòng người có chút giận hờn chăng? Nàng xuân đến khi cái nắng đã tràn lên những mầm non mơn mởn. Từ láy “chao chát” diễn tả cái nắng có phần gay gắt mà vẫn rực rỡ tươi sáng. Đứng trước khung cảnh ấy, lòng người bỗng rộn ràng náo nức. Những niềm vui trong tâm hồn bỗng “Òa thức”, xáo động không ngừng. “Òa thức” là sự sáng tạo từ rất riêng của Đỗ Phấn diễn tả trạng thái bừng tỉnh đầy bất ngờ và mạnh mẽ. Tác giả ngắt câu văn một cách đột ngột, để động từ “Òa thức” ở đầu câu càng nhấn mạnh sự khoan khoái, tràn đầy sức sống của con người và thiên nhiên.
Mùa xuân, chẳng phải là đề tài hiếm gặp của văn chương từ cổ chí kim. Xuân Hà Nội cũng đã được nhiều cây bút miêu tả. Nhưng với Đỗ Phấn, cảm thức về xuân gắn chặt với những màu lá. Tác giả quan sát chín cây bồ đề trên đường Trần Nhân Tông và chìm đắm vào “khoảng trời trong veo màu thạch lựu” mà hàng cây tạo nên. Dường như đứng dưới những tán cây ấy, con người được bước vào một không gian riêng, tách biệt với thế giới bên ngoài. Thạch lựu chính là màu đỏ nhưng trong trẻo và lấp lánh tựa những viên ngọc quý. Tác giả dùng màu thạch lựu để miêu tả sắc đỏ của lá, gợi ra khung cảnh những cành lá đỏ đan cài vào nhau san sát, được ánh nắng chiếu vào bỗng trở nên lung linh huyền diệu. Từ cái nhìn bao quát, tác giả ngắm nghía kĩ càng hơn từng chiếc lá và nhận ra sự chuyển động nhẹ nhàng của những chiếc lá non. Chúng “đu đưa trong gió tưởng như có tiếng chuông chùa huyền hoặc vọng về từ cõi thanh cao u tịch”. Câu văn vừa tả cảnh lại vừa tả âm thanh. Phải là con người yêu Hà Nội, có trái tim nhạy cảm trước thiên nhiên mới có thể viết nên những câu văn tinh tế như vậy! Chỉ một tiếng xao động nhẹ nhàng mà nay gợi cảm, nên thơ đến thế! Cách miêu tả “thanh cao u tịch” còn gợi ra chiều cao chót vót của những hàng cây. Con người nhỏ bé đứng từ mặt đất ngước nhìn lên chỉ thấy một vùng trời đỏ xa xăm vời vợi. Những gốc cây ấy đã gắn bó mật thiết với đời sống con người Hà Nội nên mới có khung cảnh “Những đứa trẻ tan trường ríu rít dưới gốc cây như những thiên thần bước ra từ lá”. Hàng bồ đề khiến người ta yêu thương, nhung nhớ, xuyến xao đến mức nhiều người chẳng có việc gì cũng vòng xe qua đoạn phố đông mà chật chội [..] này chỉ để ngắm nhìn một chút sắc lá ngọt ngào như mật chảy tháng Giêng.” Cách so sánh “như mật chảy tháng Giêng” thật độc đáo, khiến đoạn văn mang đậm chất trữ tình mượt mà như thi ca. Màu thạch lựu óng ánh chảy tràn trên hè phố, bao trùm lấy không gian, khiến người ta đê mê say đắm đến mức muốn “nếm” thử sắc hương. Đó chính là món quà quý giá mà tháng Giêng đã ban tặng cho Hà Nội.
Sau hình ảnh về hàng cây bồ đề trên đường Trần Nhân Tông, nhà văn bày tỏ những chiêm nghiệm sâu sắc: “Nhìn chung thì vòng đời của một chiếc lá bồ đề dù được mọc ra từ Hà Nội hay ở nơi Phật tổ Thích Ca Mâu Ni thuyết pháp cũng chỉ kéo dài không đến một năm. Có rất nhiều loài cây trong phố có một vòng đời như vậy. Và hình như đó cũng là một đặc trưng của cây Hà Nội. Làm nên mùa lá rụng kéo dài suốt từ thu sang đông”. Đoạn văn tả thực một đặc trưng rất riêng của Hà Nội - quanh năm lá rụng. Dù là mùa nào ở Thủ đô, ta cũng có thể bắt gặp khung cảnh những hàng cây đổ lá, những góc phố xào xạc lá bay. Dắt xe dạo quanh Hà Nội một vòng, người du khách bỗng cảm thấy lạ lùng và phải thốt lên: “Ồ, một ngày ở đây có tất cả các mùa?”. Với nhà văn, lá rụng, lá mọc không còn là một hiện tượng tự nhiên thuần túy mà đã trở thành một phần không thể thiếu trong trái tim những người con xa quê. Lá vỗ về, lá ủi an tâm hồn con người giữa những bộn bề của đời sống. Chính vì thế mà tác giả nhắc đến người em gái: “Cô em gái của tôi sống xa Tổ quốc đã hai chục năm có lẻ. Mỗi lần gọi điện về, nó lại hỏi con đường ven Hồ Gươm mùa này lá đã rụng? Lạ thế! Mùa nào cũng hỏi như vậy.” Đếm ngày đếm tháng, chi bằng đếm mùa lá rụng. Con số làm sao hữu tình bằng sắc lá. Nhưng hình như muốn con người quên đi năm tháng nên lá cây Hà Nội cũng… khó hiểu vô cùng. Đỗ Phấn chỉ biết trả lời “đang ngổn ngang vàng rượi sắc lá ven hồ”. Nào lá của những cây sấu cổ thụ ở đường Đinh Tiên Hoàng, nào lá bằng lăng, lá bàng đỏ chói trên đường Lê Thái Tổ chứ thực ra chúng chẳng bao giờ rụng cùng một lúc với nhau. Bằng chứng là “Cây cơm nguội vàng và cây bàng lá đỏ... nhiều khi rụng lá cách nhau cả đến... một mùa thu!”. Câu văn được ngắt ra thành nhiều nhịp với các dấu “…” diễn tả sự kéo dài của thời gian và cảm xúc bất ngờ, lí thú của nhà văn.
Nhà văn miêu tả đến những cây xà cừ. Nói về loài cây này, nhà văn dành cho nó những lời “giận hờn”: “Những tưởng vô duyên đến như cây xà cừ là cùng. Cứ như người đàn bà phổng phao nhạt hoét. Chỉ được mỗi ưu điểm về kích thước. Và cũng lại là nhược điểm. Mùa mưa bão rất mất công cắt tỉa bớt cành phòng khi bị đổ”. Lối so sánh “như người đàn bà phổng phao nhạt hoét” khiến câu văn trở nên đậm tính khẩu ngữ đời thường. Chi tiết này cho thấy sự am hiểu tường tận, vốn sống phong phú của nhà văn về thiên nhiên và con người Hà Nội. Cây xà cừ đem lại cho Đỗ Phấn ấn tượng về kích thước to lớn, khiến mùa mưa bão con người trở nên vất vả vì phải tỉa bớt cành lá. Thế nhưng, “Thân hình cường tráng và lá cành rậm rạp đến thế của cây lại vô cùng yếu mềm trước một heo may đến sớm. Ngập cả lối đi những lá xanh chen lẫn lá vàng làm nên một mùa thu quyến rũ từng bước chân người”. Nhà văn dành cho thiên nhiên cái nhìn trân trọng, yêu thương, tinh tế phát hiện những vẻ đẹp nên thơ ở cây cối như người ta kĩ càng soi chiếu tâm hồn con người.
Cuối cùng, kết thúc tản văn, nhà văn nhấn mạnh tình cảm của mình dành cho “Cõi lá” mộng mơ của Hà Nội: “Miên man trong cõi lá mùa xuân thành phố, gương mặt ai ai cũng như có phần trẻ lại. Hay tự nhận rằng mình như thế?”. Quả thực, đối với nhà văn cũng như rất nhiều người con Hà Nội, những hàng cây, vòm lá đã trở thành một nét văn hóa mang đậm bản sắc của Thủ đô. Hà Nội luôn chộn rộn, luôn hối hả nhưng ngay giữa những phố phường đông đúc, ta vẫn luôn có những “Cõi lá” để ghé vào nghỉ ngơi, trẻ hóa tâm hồn.
Tản văn “Cõi lá” đậm chất trữ tình nên thơ, thể hiện rõ đặc trưng văn phong tài hoa, nhẹ nhàng, thanh lịch, tinh tế cùng tình yêu thiên nhiên, con người Hà Nội tràn đầy của Đỗ Phấn. Những từ láy giàu sức gợi hình, những lối so sánh và liên tưởng phong phú, ngôn ngữ trong sáng mà gần gũi, giọng văn tràn đầy cảm xúc đã góp phần giúp nhà văn miêu tả khung cảnh Hà Nội mùa xuân.
Cái tôi Đỗ Phấn thực sự là một cái tôi lãng mạn. Viết về Hà Nội có Thạch Lam, Vũ Bằng và nay ta có thêm Đỗ Phấn - “người sống đầy, nhớ dai. Nhiều thứ người ta quên, đọc văn Đỗ Phấn lập tức nhớ lại, nhớ tường tận và tỉ mỉ, thậm chí nhớ cả một quãng đời”.
Phân tích Cõi lá mẫu 2
“Khi ta ở chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi, đất bỗng hóa tâm hồn”
Những dòng thơ lôi cuốn của nhà thơ Chế Lan Viên đã khắc sâu lên tâm hồn con người, làm nổi bật mối gắn bó không thể tách rời giữa họ và mảnh đất mà họ gọi là nhà. Từ nguồn gốc, qua những địa điểm mà chúng ta bước chân, mỗi khoảnh khắc trở thành một đoạn hồi ức đậm nét trong cuộc hành trình của cuộc sống. Điều này đã được nhà văn Đỗ Phấn chứng minh thông qua tản văn mộng mơ của mình, "Cõi lá."
Được biết đến với tư cách là một họa sĩ, Đỗ Phấn đã chuyển giao tài năng sáng tạo của mình từ bức tranh lên trang giấy văn. Không theo học qua các trường lớp chuyên nghiệp, ông tự xưng mình là "tay ngang" trong văn chương. Nhưng tình yêu của ông dành cho Hà Nội, Thủ đô nghìn năm văn hiến, được truyền đạt qua những tản văn như "Cõi lá." Đỗ Phấn cho rằng mọi trải nghiệm đẹp và xấu đều là "ký ức theo ta suốt đời," là nguồn cảm hứng sáng tạo cho văn học và nghệ thuật.
Trong các tác phẩm như "Ngồi lê đôi mách với Hà Nội", "Hà Nội thì không có tuyết", "Bâng quơ một thời Hà Nội",... Đỗ Phấn đã thể hiện sự quan sát tinh tường, cảm nhận tế nhị và sự gắn bó sâu sắc với Hà Nội. "Cõi lá," sáng tác vào năm 2008, là một trong những tản văn được yêu thích nhất của ông, thể hiện rõ đặc trưng phong cách của nhà văn.
Bắt đầu với cảm xúc mãnh liệt khi mùa xuân về, Đỗ Phấn mô tả sự rộn ràng của tâm hồn khi đối mặt với sự sống lại của thiên nhiên. Mỗi chi tiết được lựa chọn kỹ lưỡng, như láy "Bẽ bàng" ở đầu câu, nhấn mạnh sự tương tác giữa con người và môi trường. Ông thể hiện sự khâm phục của mình trước vẻ đẹp của mùa xuân thông qua từ ngữ mô tả sôi động và sống động.
Nhà văn không chỉ tập trung vào cảm nhận về mùa xuân Hà Nội mà còn đưa ra những chia sẻ sâu sắc về cây cỏ và mùa lá rụng. Được bắt gặp đặc trưng của Hà Nội - lá rụng quanh năm, Đỗ Phấn thể hiện sự quan tâm và tận tâm của mình đối với tự nhiên. Cây cỏ không chỉ là những thực thể sống, mà còn là những nguồn cảm hứng không ngừng cho những tác phẩm nghệ thuật và văn hóa.
Qua việc mô tả cây bồ đề và những chi tiết nhỏ như màu thạch lựu, nhà văn đưa người đọc bước chân vào một thế giới tách biệt, nơi mà sự hòa mình vào thiên nhiên trở nên hiển nhiên. Những góc phố, những hàng cây không chỉ là hình ảnh mà còn là cảm xúc, là những ký ức "tan trường ríu rít dưới gốc cây như những thiên thần bước ra từ lá."
Đặc biệt, nhà văn chia sẻ chi tiết về cây xà cừ, biểu tượng của sự cường tráng và đồng thời của sự yếu đuối trước thiên nhiên. Sự mất mát và khó khăn trong việc duy trì cây xà cừ khiến ông phải tự hỏi về giá trị của nó. Nhưng đồng thời, ông cũng không ngần ngại bày tỏ sự ngưỡng mộ với vẻ đẹp của nó trong những khoảnh khắc mùa thu, khi "lá xanh chen lẫn lá vàng làm nên một mùa thu quyến rũ từng bước chân người."
Kết thúc tản văn, nhà văn nhấn mạnh tình cảm của mình với "Cõi lá," những góc yên bình giữa sự náo nhiệt và hối hả của Thủ đô Hà Nội. "Miên man trong cõi lá mùa xuân thành phố," - câu chốt của tản văn thể hiện lòng yêu thương, lòng trải nghiệm và sự hiểu biết sâu sắc về Hà Nội của Đỗ Phấn. "Cõi lá" không chỉ là nơi giữ gìn những ký ức, mà còn là nơi làm trẻ hóa tâm hồn, tạo nên những khoảnh khắc yên bình và trọn vẹn giữa cuộc sống năng động. Đối với nhà văn này, "Cõi lá" không chỉ là một nơi trú ẩn mà còn là biểu tượng của sự sống đầy đủ và không ngừng sáng tạo.
Phân tích Cõi lá mẫu 3
Nhà văn Lê Minh Khuê đã từng chia sẻ rằng : “Tha thiết yêu Hà Nội, Đỗ Phấn chỉ viết về cái đẹp Hà Nội xưa, ông vẽ ra những cái đẹp để chúng ta thêm yêu mà giữ lại những nét đẹp ấy”. Thật vây, trong hầu hết các tác phẩm của mình, từ tản văn, tiểu thuyết, truyện ngắn,.. Đỗ Phấn luôn thể hiện một tình yêu thương, nhớ nhung về vẻ đẹp của mảnh đất Hà Nội ngày xa xưa. Điều đó đã được thể hiện rất rõ qua tác phẩm “Cõi lá”, qua đây nhà văn đã bằng tình yêu thương của mình, mà khắc họa nên vẻ đẹp của mùa xuân nơi mảnh đất Thủ đô, thật thơ mộng, thật dịu dàng, khiến cho bao trái tim bạn đọc phải xao xuyến về Hà Nội thương.
Đỗ Phấn đã không còn là một nghệ sĩ quá xa lạ với những người có niềm đam mê hội họa nghệ thuật và văn học ở nước ta. Ông sinh năm 1956 tại Hà Nội, ngay từ khi còn nhỏ, ông đã bắt đầu viết văn, nhưng sau lại theo học hội họa, và đã gây được tiếng vang lớn trong lòng độc giả. Đỗ Phấn từng tốt nghiệp Đại học Mỹ thuật Hà Nội vào năm 1980, sau đó ông làm giảng viên giảng dạy môn mỹ thuật tại Khoa Kiến trúc Đại học Xây dựng Hà Nội từ trong 9 năm, từ năm 1980 đến năm 1989. Khoảng năm 2005, ông trở lại với sự nghiệp viết văn, những tản văn về Hà Nội của ông luôn được các bạn học ưa chuộng. Những bút pháp nghệ thuật tài hoa, độc đáo cùng những màu sắc khác lạ qua việc khắc họa hình ảnh đời sống sinh hoạt của người dân Thủ đô chính là một trong những điểm nổi bật nhất trong hầu hết các tác phẩm của họa sĩ Đỗ Phấn. Những mẩu chuyện nhỏ về cảnh vật, về con người và nét văn hóa của riêng Hà Nội đã được Đỗ Phấn thủ thỉ nhẹ nhàng qua từng trang viết. Tưởng như những chi tiết vụn vặt, nhỏ bé và cũ kỹ ấy sẽ chẳng có ý nghĩa gì, nhưng thực tế, đối với Đỗ Phấn từ cái vòi nước công cộng đến cửa hiệu giặt là hay cái chuyện phơi quần áo, , đèn đường, hay cái nồi đất, nước giải khát, bún đậu mắm tôm … đều có thể trở thành chủ đề, trở thành nguồn cảm hứng dạt dào giúp cho nhà văn viết nên những câu chuyện Hàn Nội thật đẹo, với biết bao cảm xúc lắng đọng qua từng trang giấy. Để Đỗ Phấn có thể thư thả mà tâm tình thủ thỉ với bạn đọc chuyện xưa tới chuyện nay, từ xa tới gần, từ hiện đại trở về quá khứ. Và những “lát cắt ký ức” ấy khi được nhìn một cách tổng thể, bao quát, rộng lớn lại khiến cho độc giả phải bất ngờ về một hình ảnh Hà Nội thời chưa xa, thật đẹp, thật điềm đạm và kín đáo biết bao.
Mở đầu tác phẩm, khung cảnh mùa xuân hiện lên, nhưng có vẻ xuân năm nay đến hơi chậm chăng?: “Bẽ bàng mùa xuân đến muộn. Khi cái nắng đã chao chát trên những lộc non báo hiệu mùa hè”. Mùa xuân tới khi những tia nắng đã soi rọi qua những mầm lộc non mới nhu. Lòng người ai cũng nao nức, rộn ràng và “Òa thức cùng với xôn xao lá cành”. Òa thức là một động từ được tác giả sử dụng khéo léo, gợi khung cảnh con người và thiên nhiên tỉnh dậy sau những ngày đông giá rét, chào đón một mùa xuân thật vui tươi và ấm áp. Trong tiết trời dịu mát ấy: “Những chiếc lá non đu đưa trong gió tưởng như có tiếng chuông chùa huyền hoặc vọng về từ cõi thanh cao u tịch, Những đứa trẻ tan trường ríu rít dưới gốc cây như những thiên thần bước ra từ lá, Nhiều người Hà Nội chẳng có việc gì cũng vòng xe qua đoạn phố đông mà chật chội, mà hỗn hào đi đứng này chỉ để ngắm nhìn một chút sắc lá ngọt ngào như mật chảy tháng giêng”. Không khí trong lành, cảnh vật vui tươi, con người rạng rỡ vui tươi, Hà Nội ơi! Hà Nội thật đẹp biết bao, làm cho ai đi xa cũng phải nhớ về. Trong khoảnh khắc tiết trời dịu ngọt ấy, tác giả nhớ về người em gái đi xa: “Cô em gái của tôi sống xa Tổ quốc đã hai chục năm có lẻ. Mỗi lần gọi điện về nó lại hỏi con đường ven Hồ Gươm mùa này lá đã rụng? Lạ thế! Mùa nào cũng hỏi như vậy” . Không chỉ cảnh vật, con người, mà những cây cổ thụ đã ở mảnh đất ấy hàng nghìn năm, chứng kiến bao nhiêu là điều đổi thay cũng khiến cho người ta nhớ về. Chúng cứ mãi ở đấy, đến mùa thì lại thay lá, những khoảnh khắc ấy tuy đơn sơ, nhưng lại khiến cho bao người con Hà Nội nơi xa quê phải nhớ về. Thèm lắm cảm giác được nhìn sự đổi thay của từng chiếc lá, từng hàng cây, ước chỉ nhỏ nhoi vậy thôi, nhưng biết bao giờ mới thực hiện được. Vài người đã nhận xét rằng, dường như những cây cổ thụ Hà Nội chẳng ưu ái con người lắm. Bằng chứng rất rõ ràng, in hằn lên cả thân cây “Những thân cây u sần mấu cục đầy thương tích do con người gây nên?” Nhưng đối với tác giả điều đó chẳng có gì là bất ngờ cả, bởi chúng đã cùng người Hà Nội trải qua bao nhiêu gian khó, nếu “Những gốc sấu già Hà Nội lại nhẵn nhụi như những cây chò chỉ trên đường Hùng Vương?” Thì mới là một điều kì tích. Lang thang trên con đường vào mùa xuân ấy, tác giả cảm thấy gương mặt ai cũng vui mừng, phấn khởi đặc biệt là trẻ lại, hay phải chăng tác giả đang cảm thấy bản thân như vậy?: “Hay tự nhận rằng mình như thế?” Chính nhà văn cũng rất thắc mắc điều đó.
Đỗ Phấn- người con nặng tình với mảnh đất Hà Nội. Với bao tình cảm yêu thương và gắn bó, ông đã giữ gìn để rồi viết nên từng trang giấy. “Cõi lá” đã thể hiện rất rõ tình cảm của tác giả dành cho Hà Nội, đồng thời cũng để lại cho độc giả biết bao cảm xúc và niềm xao xuyến về một mảnh đất để thương để nhớ.
Phân tích Cõi lá mẫu 4
Đỗ Ngọc Thống, một nhà phê bình trên Nico Paris.Net, đã có một bài đánh giá sâu sắc về tản văn của Đỗ Phấn. Ông Thống phân tích rằng khi đọc tản văn của Đỗ Phấn, ông cảm nhận hai khía cạnh đối lập trong tác giả này.
Một khía cạnh là nghệ sĩ Đỗ Phấn, người yêu thương Hà Nội một cách da diết và sảng khoái. Đây là một tác giả đầy tình yêu và tâm hồn sâu lắng đối với thành phố này. Ông thể hiện sự quý trọng đối với những đặc điểm đẹp và thanh bình của Hà Nội qua từng dòng văn của mình. Ông Thống nói rằng Đỗ Phấn thể hiện tình yêu và sự kết nối mạnh mẽ với quê hương của mình thông qua những tản văn tươi sáng và lạc quan.
Mặt khác, khía cạnh thứ hai của Đỗ Phấn là một công dân thủ đô luôn biểu lộ sự buồn bã và bất mãn trước những thay đổi không ngừng làm phai mờ và tàn phai vẻ đẹp của Hà Nội. Đây là tác giả phê phán hiện thực một cách cân nhắc và sắc bén hơn so với tiểu thuyết. Với tản văn, Đỗ Phấn đã tìm thấy một mảnh đất phù hợp để thể hiện cá tính và truyền niềm tin vào tương lai tươi sáng hơn cho Hà Nội.
Sự đam mê của Đỗ Phấn đối với Hà Nội thể hiện rõ qua việc ông viết về quá khứ và vẻ đẹp của thành phố này. Trong những dòng văn của ông, chúng ta có thể cảm nhận sự yêu thương và kỳ vọng đối với Hà Nội qua hàng ngàn năm lịch sử của nó. Sự tương tác này không chỉ xuất hiện trong việc ông miêu tả các đặc điểm đẹp và độc đáo của văn hóa và con người Hà Nội, mà còn qua việc ông thể hiện tình yêu với cây cối và những khoảnh khắc đẹp trong bài viết “Cõi lá.”
Đỗ Phấn là một nhà văn bắt đầu sáng tác văn chương sau khi đã có một sự nghiệp thành công trong lĩnh vực họa sĩ. Ông mô tả bản thân mình như một “tay ngang” trong văn chương, bởi ông không học chuyên ngành văn học. Tuy nhiên, tình yêu và đam mê của ông dành cho Hà Nội đã thúc đẩy ông trở thành một nhà văn. Ông cho rằng tất cả những trải nghiệm và cảm xúc về địa phương đã làm nền tảng cho sự sáng tạo trong văn học và nghệ thuật của ông. Trong số các tác phẩm của Đỗ Phấn, “Cõi lá,” sáng tác vào năm 2008, là một trong những tản văn được ưa thích nhất và thể hiện rõ phong cách đặc biệt của ông.
Tác phẩm bắt đầu bằng cảm xúc mãnh liệt của tác giả khi mùa xuân đến muộn. Tâm trạng của ông tràn đầy hạnh phúc khi thấy ánh nắng mặt trời chói lọi trên các mầm non, và ông chia sẻ cảm xúc này với độc giả. Mùa xuân đã đến muộn, nhưng đó là một mùa xuân đặc biệt, tràn đầy sức sống và sôi động. Tác giả sử dụng một cắt đột ngột trong câu để tạo nên một sự tương phản rõ ràng và nhấn mạnh sự phấn khích của tâm hồn con người trước vẻ đẹp của thiên nhiên.
Một phần quan trọng của việc sáng tạo của Đỗ Phấn là cách ông miêu tả màu sắc và hình ảnh của thiên nhiên. Trong tác phẩm này, ông chú ý đến màu thạch lựu đỏ của lá, tạo ra hình ảnh của những chiếc lá non đỏ rực và sáng bóng khi ánh nắng chiếu vào. Ông không chỉ tập trung vào cảnh vật mà còn đánh giá âm thanh và sự di chuyển của các chiếc lá trong gió. Điều này làm cho đoạn văn trở nên sống động và sâu sắc hơn, giúp người đọc thấy rằng họ đang đứng trước một hình ảnh tự nhiên tuyệt đẹp và bình yên.
Chỉ khi yêu Hà Nội đắm say thiên nhiên, trái tim sẽ rộn ràng viết ra những dòng văn đẹp như vậy! Những gốc cây đã kết nối sâu với cuộc sống của người dân Hà Nội, tạo nên cảnh tượng “Những đứa trẻ đùa giữa dáng cây như những thiên thần thoát khỏi bức tranh lá cuốn hút.” Đặc biệt, hàng bồ đề đã ghi điểm trong trái tim của mọi người, khiến họ có thể dành thời gian quý báu để ngắm nhìn những lá xanh tươi mát như mật ngọt. Đây thực sự là một món quà quý giá từ thượng đế mà tháng Giêng đã ban tặng cho Hà Nội. Với cây rụng lá quanh năm, Hà Nội luôn thể hiện một vẻ đẹp đặc biệt. Không kể mùa gì ở Thủ đô, bạn luôn có cơ hội bắt gặp cảnh hàng cây rụng lá, tạo nên một góc phố lãng mạn giữa những tán lá bay. Đối với nhà văn, lá rụng và lá mọc không chỉ là hiện tượng tự nhiên, mà còn là một phần của cuộc sống, làm trái tim con người yên bình giữa cuộc sống ồn ào.
Trong tản văn “Cõi lá” của Đỗ Phấn, cây xà cừ được miêu tả chi tiết và với một dáng vẻ “giận dữ” do kích thước khổng lồ của chúng, tạo ra khó khăn trong việc quản lý và bảo quản trong mùa mưa bão. Điều này cho thấy sự hiểu biết sâu sắc của tác giả, kiến thức phong phú về thiên nhiên và cuộc sống của người dân Hà Nội. Cây xà cừ gợi lên sự quý trọng, tôn trọng và đồng cảm với thiên nhiên, tương tự cách con người kỹ lưỡng soi chiếu tâm hồn của mình. Cuối cùng, tác giả tôn vinh sự cuốn hút của “Cõi lá” lãng mạn của Hà Nội trong trái tim mình. Đối với tác giả và nhiều người dân Hà Nội, hàng cây và tán lá đã trở thành một phần không thể thiếu trong văn hóa đặc trưng của Thủ đô. Dù Hà Nội luôn đầy sôi động và nhộn nhịp, ngay giữa những con phố đông đúc, chúng ta vẫn có thể tìm thấy những “Cõi lá” yên bình để thư giãn, làm mới tinh thần.
“Cõi lá” trong tác phẩm của Đỗ Phấn thể hiện trọn vẹn tình yêu trữ tình và tinh tế, với văn phong tài hoa, nhẹ nhàng, lịch sự. Tình yêu của ông dành cho thiên nhiên và những người dân Hà Nội sáng rõ trong từng dòng văn. Sự kỳ diệu của những từ ngữ mà ông sử dụng tạo nên hình ảnh sống động, sự so sánh và liên tưởng sáng tạo, và ngôn ngữ tươi sáng và gần gũi đã tạo nên một giọng văn đầy cảm xúc, giúp ông miêu tả mùa xuân ở Hà Nội một cách tuyệt vời.