Với tư cách là nhà văn quân đội, tác giả Sương Nguyệt Minh đã phản ánh hậu quả của chiến tranh một cách đầy khéo léo và tinh tế qua tác phẩm "Người ở bến sông Châu". Nổi bật trong văn bản là nhân vật dì Mây. Đây là nhân vật chính cũng là nhân vật trung tâm của toàn truyện.
Dì Mây được tác giả miêu tả với ngoại hình thanh thoát, đẹp đẽ của người con gái đôi mươi. Trước khi tham gia chiến tranh, dì Mây có một mái tóc vô cùng suôn mượt, mềm mại. Mỗi lần gội đầu, dì đều nhờ Mai lấy ghế để đứng lên chải tóc. Vẻ đẹp mái tóc khiến cho chú San "nhìn trộm cũng giật mình". Nhiều lúc ra triền sông chơi, "chạy ngược chiều gió thổi, tóc dì xổ tung bay bồng bềnh, bồng bềnh như mây" làm "Mai thầm ước khi thành thiếu nữ có mái tóc mây dài đẹp như dì". Nhan sắc của dì Mây còn khiến bao người ao ước, đắm say "Ngày xưa dì đẹp nhất làng", "Có khối trai làng ra bến sông ngó trộm dì mày tắm". Lúc tắm sông, dì để lộ ra bờ vai trần, khuôn ngực căng đầy và chiếc cổ trắng ngần cùng đôi mắt lung linh, huyền hoặc. Đó là một vẻ đẹp hết sức mềm mại, nhẹ nhàng và thanh khiết.
Thế nhưng, sau khi tham gia chiến tranh, mái tóc ấy "rụng nhiều, xơ và thưa". Dì Mây cũng không còn là người con gái lành lặn như trước mà trở thành kẻ tật nguyền với cơ thể đã bị cụt một bên chân. Chiến tranh khốc liệt đã cướp đi tuổi trẻ, sắc đẹp của dì.
Bên cạnh ngoại hình, dì Mây còn để lại cho người đọc bao ấn tượng và rung cảm bởi vẻ đẹp phẩm chất. Có thể thấy, dì Mây là người con gái vô cùng chung thủy. Suốt thời gian dài làm nhiệm vụ cứu chữa người bệnh ở rừng Trường Sơn, dì Mây không lúc nào là không nhớ đến chú San, "Ngày ở Trường Sơn, trang nhật kí nào em cũng viết tên anh.". Dù xa nhau nhưng dì luôn mang nặng tình yêu thương đối với chú San.
Ông trời như trêu ngươi khi ngày dì về cũng là ngày người yêu dì - chú San đi lấy vợ. Tình cảm dành cho chú chưa bao giờ vơi bớt song dì vẫn kiên quyết không đồng ý với lời đề nghị "Mây! Chúng ta sẽ làm lại", "Anh sẽ từ bỏ tất cả. Chúng ta sẽ về sống với nhau.". Nếu như không có chiến tranh, nếu như dì về sớm hơn một chút thì có lẽ đám cưới hôm nay sẽ là đám cưới của chú San với dì. Thế nhưng, hoàn cảnh trớ trêu ấy đã đẩy dì vào những chọn lựa vô cùng đau khổ. Khác với vẻ quỵ lụy ban nãy, dì dõng dạc nói "Không!" rồi mạnh mẽ "bật dậy, chống nạng gỗ cộc cộc đi vào sân" bỏ lại chú San ở sân. "Ván đã đóng thuyền", biết mọi chuyện tới bước đường này không thể thay đổi được nữa, dì nói "Thôi! Thôi! Lỡ rồi! Đằng nào cũng chỉ một người đàn bà khổ. Anh về đi!" rồi khuyên chú "Sự thể đã thế, cố mà sống với nhau cho vuông tròn". Câu nói ấy chất chứa bao nỗi xót xa, cay đắng cho phận mình. Dì Mây rất rạch ròi, dứt khoát, suy nghĩ thấu đáo trong mọi việc, không vì tình cảm mà làm những việc trái với đạo đức, trái với lương tâm.
Ở dì Mây còn ánh lên vẻ đẹp của nghị lực phi thường. Chưa bao giờ, người đọc thấy dì có ý định từ bỏ sự sống sau muôn vàn biến cố, nỗi đau. Mặc dù bị mất một bên chân nhưng hàng ngày dì vẫn cần mẫn giúp ông chèo đò. Không muốn phải tiếp tục chứng kiến người mình yêu bên cạnh người con gái khác, dì quyết định chuyển ra bến sông Châu. Có thể cuộc sống không mấy vui vẻ, song dì vẫn cố gắng vượt qua và vươn lên chính mình.
Không chỉ mạnh mẽ, dì còn có tấm lòng nhân hậu và giàu lòng bao dung với tất cả mọi người. Suốt thời gian chèo đò cho ông, dì không bao giờ lấy tiền đỏ của lũ trẻ cấp ba. Chúng ái ngại nói "Chúng cháu sức dài vai rộng, dì giúp mãi, ngại quá!", dì chỉ cười nói "Đáng là bao, cho chúng mày nợ đến bữa có lương rồi trả". Lúc xây trạm xá mới, không có người, dì nhận lời của ông chủ tịch xã, quay trở về với nghề xưa. Có những đêm mưa, đường xá đi lại khó khăn, dì vẫn "cậm cạch bước, lưng thấm đẫm mồ hôi". Thấy gì vất vả, ông chủ tịch bảo dì nên tập xe đạp rồi ông rải mạt đá cho. Tuy nhiên, dì bảo "Trạm xá còn thiếu thuốc. Tôi cố, cũng như người tập thể dục". Không lúc nào dì không nghĩ cho người khác. Dì luôn đặt lợi ích của mọi người lên trên lợi ích bản thân.
Ngay cả khi vợ chú San sinh khó, dì sẵn lòng giúp đỡ, không mảy may đến lời cảnh báo của thím Ba. Ở trong hoàn cảnh của dì, thật khó để làm việc ấy, vậy mà dì vẫn ân cần hỗ trợ cô Thanh vượt cạn. Khi thím Ba mất, dì dang rộng vòng tay, yêu thương, chăm sóc thằng Cún như con đẻ của mình.
Qua lời kháo nhau của dân làng, ta còn thấy được sự dũng cảm, kiên cường, không sợ hiểm nguy ở dì Mây. Là một y sĩ Trường Sơn, dì không ngại gian lao, vất vả. Dì chắn cửa hầm che chở thương binh. Cô y sĩ bị phạt vào chân còn người lính công binh vẫn lành lặn. Đó là tinh thần quật cường của người lính cụ Hồ.
Vẻ đẹp phẩm chất, tính cách của nhân vật đã được khắc họa thông qua lời nói, hành động, tâm trạng. Có thể thấy, dì Mây vừa mang vẻ đẹp của người lính cụ Hồ vừa mang vẻ đẹp của người phụ nữ Việt Nam. Số phận của dì Mây cũng chính là hoàn cảnh của những người bước ra từ chiến tranh.
Qua quá trình phân tích dì Mây, ta càng thêm xót thương, cảm phục trước ý chí và nghị lực phi thường của những người lính. Dì Mây cũng giống biết bao người đi ra từ đống hoang tàn, đổ nát của chiến tranh, cũng mang trong mình những nỗi đau không thể xóa mờ. Nhưng cho dù thế nào, họ vẫn sống, vẫn chiến đấu ngay cả khi súng đạn đã qua đi. Tác phẩm chính là lời nhắc nhở nhẹ nhàng đến thế hệ trẻ về lòng biết ơn đối với thế hệ đi trước.
Cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc ta đã là ngọn lựa hun đúc nên biết bao thế hệ anh hùng, đồng thời cũng trở thành một trong những đề tài văn học, nghệ thuật hấp dẫn và nhiều cảm hứng nhất của giới văn nghệ sĩ lúc bấy giờ. Nhân vật Dì Mây trong truyện ngắn "Người ở bến sông Châu" của nhà văn Sương Nguyệt Minh cũng là một trong những nhân vật bộc lộ được bản chất người lính đã trải qua cuộc chiến tranh, thấy được sự hy sinh mất mát, và nỗi đau khôn cùng của người phụ nữ Việt Nam.
Câu chuyện xoay quanh cuộc đời của người phụ nữ đẹp nhưng lại có số phận đau thương. Dì đại diện cho một thế hệ thanh niên đã dâng hiến quãng đời thanh xuân tươi đẹp nhất cho cách mạng. tuổi trẻ của dì là những ngày tháng lăn lộn trên khắp các nẻo đường Trường Sơn. Dì Mây có một mối tình đằm thắm, trong sáng với chú San, tuy nhiên lại rơi vào nghịch cảnh éo le: ngày cô trở về quê cũng là ngày người yêu – San đi lấy vợ vì tưởng cô hy sinh. Ngay đêm tân hôn, biết tin Mây còn sống quay về, San đã tìm gặp Mây. Anh xin cô được bỏ vợ để cả hai làm lại từ đầu. Mây khóc, từ chối vì cho rằng: “Một người phụ nữ đau khổ và lỡ dở đã là quá đủ”.
Ngoài nỗi buồn mất đi người mình yêu, dì Mây còn phải chịu những hậu quả do chiến tranh để lại. Từ một người con gái xinh đẹp trở thành một người tàn tật, vô cùng thương xót "Dì Mây bước tập tễnh, tóc Dì Mây rụng nhiều, xơ và thưa, dì có chân giả, chống nạng gỗ". Tuy nhiên, không vì điều đó mà dì lại cảm thấy tủi thẹn, dì luôn luôn cảm thấy tự hào, vì đã dâng hiến quãng đời thanh xuân tươi đẹp cho cách mạng: "Dì Mây chắn cửa hầm che chở cho thương binh. Bom nôt người người lính công binh sốt rét tóc rụng trọc đầu vẫn lành lặn..". Bởi vậy, cuộc sống của dì Mây khi trở về quê hương cũng có sự thay đổi thay. Ai nấy trong gia đình đều cảm thấy thương dì, cuộc đời của dì thật đau xót. Những đặc sắc trong nghệ thuật xây dựng dì Mây đã cho thấy một hình ảnh người phụ nữ kiên cường, đầy nỗi bất hạnh vì chiến tranh. Cuộc chiến đã cướp đi tất cả: tuổi trẻ, tình yêu, hạnh phúc và mài mòn dần những gì còn sót lại của dì khi trở về sau chiến tranh.
Càng éo le hơn khi truyện đẩy nhân vật dì Mây vào những tình huống vô cùng trớ trêu và đau khổ. Khi dì đứng trước sự lựa chọn về tinh yêu của mình, dì đã cam đảm đối mặt với nó, mặc dù buồn, vẫn còn thương chú San nhiều nhưng dì đã cương quyết dứt khoát với chú "Thôi! Thôi! Lỡ rồi! Đằng nào cũng chỉ một người đàn bà khổ. Anh về đi!, "Sự thế đã thế, cố mà sống với nhau cho vuông tròn". Chưa dừng lại ở đó, tác giả lại một lần nữa đẩy nhân vật vào tình huống mà khiến dì phải đấu tranh lí trí và cảm xúc của bản thân. Đó là khi vợ chú San - cô Thanh vượt cạn thiếu tháng và dì Mây đã cố gắng hết sức đỡ đẻ cho cô mặc kệ lời thím Ba can ngăn. Chi tiết dì khóc ngay sau khi đỡ đẻ thành công cho vợ chú San, đã để lại cho người đọc nhiều xúc động. Giá như không đi bồ đội, nếu không có chiến tranh, thì cũng không bị chiến tranh làm xa cách dì Mây cũng có thể hạnh phúc bên chú San. Qua đây, em thấy được hình tượng của một người phụ nữ dưới thời chiến, đó là một người xinh đẹp, gan dạ và đầy lòng nhân ái, vị tha. Người phụ nữ mặc dù trải qua những khó khăn, thử thách ở những tình huống nghịch cảnh, đau khổ nhưng vẫn quyết tâm đối mặt với nó, với số phẩn của bản thân.
Nhà văn Sương Nguyệt Minh đã vô cùng thành công trong việc xây dựng nhân vật dì Mây, bởi nhờ có ông, mà chúng ta thấy được những góc khuất của chiến tranh, những câu chuyện buồn dưới thời chiến. Chưa bao giờ, trong văn học Việt Nam xuất hiện người phụ nữ trở về sau chiến tranh lại bi thương đến vậy. Từ đó, ta mới càng cảm thông hơn với những số phận của họ và thật biết ơn với những công lao của họ để chúng ta có được cuộc sống như ngày hôm nay.