Tóm tắt, bố cục, nội dung chính văn bản Hội lồng tồng
Với nội dung bài Tóm tắt, bố cục, nội dung chính văn bản Hội lồng tồng Ngữ văn lớp 7 hay, chính xác nhất sách Kết nối tri thức giúp học sinh nắm được trọng tâm văn bản Hội lồng tồng từ đó học tốt môn Ngữ văn 7.
Bài: Hội lồng tồng
A. Bố cục Hội lồng tồng
Có thể chia văn bản thành 2 phần:
- Phần 1 (từ đầu đến “một cách tài tình”): Giới thiệu về hội lồng tồng.
- Phần 2 (còn lại): Các hoạt động và ý nghĩa của hội lồng tồng.
B. Nội dung chính Hội lồng tồng
Bài văn thuyết minh về hội lồng tồng ở vùng Việt Bắc, hội được mở từ sau tết Nguyên Đán đến tết Thanh minh.
C. Tóm tắt Hội lồng tồng
Tóm tắt Hội lồng tồng (mẫu 1)
Văn bản ra đời khi tác giả ngao du tìm hiểu về Hội mùa Tây Bắc, hội Lồng tồng cũng thường gọi là Lễ hội xuống đồng, là một lễ hội của dân tộc được tổ chức sau tết Nguyên Đán đến tết Thanh minh. Tất cả những sản vật đều là những sản phẩm của ngành nông, dâng lên Thần thành hoàng để cầu mùa. Qua lễ hội, người dân gửi gắm mong ước về mùa màng tươi tốt, sự may mắn tốt lành, ca ngợi cái đẹp của thiên nhiên, của mùa xuân, của tình yêu, của cuộc sống lao động.
Tóm tắt Hội lồng tồng (mẫu 2)
Văn bản cung cấp những thông tin cơ bản đến chi tiết về hội lồng tồng. Từ những chi tiết về thời gian, địa điểm tổ chức, cho đến phần lễ hội, cúng tế, vui chơi văn nghệ đều được thông tin đầy đủ đến người đọc. Những hoạt động đó thể hiện những phẩm chất và khả năng của con người: chăm chỉ, cần cù lao động, nhanh nhẹn, khỏe khoắn. Đặc biệt nó còn thể hiện được tình yêu thiên nhiên, yêu lao động, yêu mùa xuân và sự duyên dáng trong những câu hát. Khi tổ chức hội lồng tồng, người dân gửi gắm mong ước về mùa màng tươi tốt, sự may mắn tốt lành, ca ngợi cái đẹp của thiên nhiên, của mùa xuân, của tình yêu, của cuộc sống lao động.
D. Tác giả, tác phẩm Hội lồng tồng
I. Tác giả
-Tác giả: Trần Quốc Vượng, Lê Văn Hảo, Dương Tất Từ
II. Tác phẩm Hội Lồng Tồng
1. Thể loại: Văn xuôi
2. Xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác
- Trích tác phẩm Mùa Xuân và Phong Tục Việt Nam
3. Phương thức biểu đạt: Miêu tả, biểu cảm
4. Bố cục tác phẩm Hội Lồng Tồng
- Phần 1: Từ đầu… từng địa phương: giới thiệu Hội Lồng Tồng
- Phần 2: Còn lại: miêu tả hội và ý nghĩa
5. Giá trị nội dung tác phẩm Hội Lồng Tồng
- Giới thiệu phong tục truyền thống đầy ý nghĩa và đặc sắc của người dân Việt Bắc
6. Giá trị nghệ thuật tác phẩm Hội Lồng Tồng
- Thành công trong nghệ thuật miêu tả người và cảnh vật
- Hình ảnh giàu tính biểu tượng
III. Tìm hiểu chi tiết Hội Lồng Tồng
1. Bức tranh của ngày hội Lồng Tồng
- Thời gian: từ sau tết Nguyên đán đến tết Thanh Minh
-“Lồng Tồng’ tiếng Tày, Nùng là xuống đồng hay còn gọi là Thần Nông
- Là lễ hội cầu mùa, vui xuân, cúng thần nông
- Trưng bày các sản phẩm nông nghiệp
+ Gà thiến béo, lợn quay, các thứ bánh trái….
- Lễ hội nhộn nhịp, với rất nhiều phần hội
+ Kéo co,đấu vật, thi bắn, đua thuyền..
+ Đặc biệt tung còn, múa sư tử, lượn lồng tồng
- Là dịp nam thanh nữ tú họp thành đám lượn hát đối đáp
2. Ý nghĩa của ngày hội Lồng Tồng
- Lượn “lồng tồng” mang nhiều ý nghĩa
+ Gồm 2 phần lượn tuồng, lượn sương
+ Cầu mùa màng
+ Trai gái giao duyên, gặp gỡ
+ Hi vọng mùa xuân ấm no, hạnh phúc
- Chúc mừng dân làng, mọi sự may mắn, tốt lành, mùa màng bội thu
→ Một lễ hội đặc sắc về bản sắc văn hóa của mùa xuân Việt Bắc
E. Đọc tác phẩm Hội lồng tồng
Vùng Việt Bắc mở hội lồng tồng từ sau tết Nguyên đán đến tết Thanh minh. Lồng tồng tiếng Tày – Nùng có nghĩa là “xuống đồng”. Thần thành hoàng của đồng bào Tày – Nùng cũng tức là thần nông. Đình thành hoàng thờ những nhân vật ngày xưa đã có công khai phá ruộng nương, xây dựng và bảo vệ bản mường. Có nhiều truyền thuyết khác nhau về hội lồng tồng ở từng địa phương.
[...] Trong những ngày hội lồng tồng cầu mùa, vui xuân, dân làng mang cỗ đến cúng thần nông. Hội lồng tồng cũng là dịp trưng bày những sản phẩm nông nghiệp của dân làng như gà thiến béo, lợn quay, các thứ bánh trái,... Sản phẩm được trình bày sao cho thật đẹp mắt. Sau khi cúng tế, người ta ăn cỗ với thịt gà, thịt lợn, bánh chưng hay bánh lá ngải, xôi nhuộm lá cẩm, uống rượu nếp, rượu mác mật,... Trong những trò chơi dân gian làm cho hội lồng tồng nhộn nhịp có đánh vật, kéo co, thi bắn, đua thuyền, biểu diễn võ dân tộc,... nhưng hấp dẫn nhất là tung còn, múa sư tử và “lượn lồng tồng”.
Trò chơi ném còn có dụng cụ chính là một chiếc còn. Đó là một túi vải màu hình vuông, mỗi cạnh khoảng 10 cm, trong đổ cát, đuôi dài hơn 1 m bằng vải ngũ sắc. Giữa đồng người ta dựng một cây mai cao vút, đóng giá như kiểu cột cờ để có thể dựng lên hạ xuống được. Trên đỉnh chót người ta uốn ngọn cây mai thành một vòng tròn, dán giấy trắng, trong có điểm hồng tâm. Thanh niên gái trai chia làm hai bên thi nhau nhằm chiếc vòng giấy ấy mà tung còn. Người nào nhanh tay bắt được còn của đối phương tung đến mới được ném. Người ném trúng thủng vòng giấy thì được thưởng, nếu ném thủng hồng tâm thì được giải thưởng to hơn. Ném trúng rồi, người ta hạ cột vá lại vòng giấy và cuộc vui tiếp tục.
Múa sư tử được đồng bào Tày — Nùng, nhất là thanh niên ưa thích vì nó phù hợp với tinh thần thượng võ vốn có của họ. Múa sư tử là dịp rèn luyện thân thể, giúp cho thanh niên có được một vài môn võ nghệ để tự vệ, chống giặc cướp, giặc ngoại xâm khi cần.
Múa sư tử thực chất là một điệu múa võ. Các miếng võ được biểu diễn rõ nhất trong màn múa sư tử đùa nghịch vờn nhau với đười ươi và hai khỉ. Đười ươi và khỉ tìm đủ mọi cách để trêu chọc sư tử. Con thú dữ lúc phát khùng lên nhe răng ra định ngoạm đầu đười ươi và khỉ, nhưng lũ này dùng đủ miếng võ để né tránh một cách tài tình. Trong hội lồng tồng, theo tục lệ, con sư tử nào đến trước giữ vai trò đàn anh, có quyền chủ trì các buổi biểu diễn; con đến sau phải đeo vào cằm con đến trước một miếng vải đỏ gọi là “quả hồng” để thừa nhận quyền đàn anh. Trường hợp tranh chấp người ta tổ chức một cuộc đấu miếng giữa hai con sư tử. Con nào quật ngã đối phương sẽ được nhận vai trò đàn anh; trường hợp này mỗi bên đều chọn một tay quyền thuật giỏi, một thầy dạy võ, để múa sư tử đọ tài với đối phương.
Nhân dịp hội lồng tồng, thanh niên gái trai tụ họp thành những đám hát lượng hát đối đáp những bài “lượn lồng tồng” để cầu mùa màng, chúc mừng dân làng được mọi sự may mắn tốt lành, ca ngợi cái đẹp của thiên nhiên, của mùa xuân, của tình yêu, của cuộc sống lao động.
Mở đầu cho buổi hát lượn là những lời đón chào xuân:
Mở bài khai khẩu ước chào xuân
Nghe tiếng nhà người đầy ái ân
Nghe tiếng nhà người đầy xuân sắc
Sĩ tử xin chào kết cổ nhân!
Để cầu mùa và chúc mừng nhau, gái trai hát:
Năm mới tới mùa màng sung túc
Không một người khổ cực gian nan
Trai gái được an nhàn thanh thoả
Chăm lo việc cấy lúa chăn tằm ...
Buổi hát lượn trong hội lồng tồng thường có hai phần. Phần “lượn tuồng” gồm những bài hát cổ điển mà gái trai phải học thuộc lòng để hát kể cho nhau nghe về những cảnh đẹp của quê hương mường bản, những câu chuyện mượn trong cổ tích, truyền thuyết, những cảnh sinh hoạt sản xuất trong bốn mùa, mười hai tháng,.. Những bài hát đó giúp họ khơi gợi và gửi gắm tình yêu. [...]
Sau phần “lượn tuồng” là phần “lượn sương”. “Lượn sương” thường sáng tác tại chỗ rồi theo cảm hứng để gái trai đặt vấn đề yêu đương và trực tiếp thổ lộ tình cảm với nhau:
Thương hoa sói nhớ hoa nhài
Hoa sói người duyên lắm sắc tài
Ước sao ngắt vài bông về cắm vườn cảnh nhà ta
Để đi sớm về trưa ngắm bóng ai...
Hột Mùa xuân là mùa của tuổi trẻ, của tình yêu, của ca hát. Gái trai trẩy hội lồng tồng, hát lượn lồng tồng nhiệt tình ca ngợi mùa xuân, thiết tha yêu mến mùa xuân, luyến tiếc xuân, sợ mùa xuân và tuổi trẻ qua nhanh. [...]
Ở nhiều địa phương cuộc hát lượn lồng tồng giữa gái trai có thể kéo dài đến bốn năm đêm liền mà vốn thơ ca và tình cảm vẫn chưa cạn. Lượn, tiếng nói của tình yêu, tiếng lòng của ngày hội xuân, lành mạnh, trong sáng, đầy sức sống, vang vọng sôi nổi mà êm đềm dưới trời xuân Việt Bắc.
>>> Bài tiếp theo: Tóm tắt, bố cục, nội dung chính văn bản Những khuôn cửa dấu yêu