Tóm tắt, bố cục, nội dung chính văn bản Chuyện cơm hến
Tóm tắt, bố cục, nội dung chính văn bản Chuyện cơm hến gồm dàn ý và bố cục văn bản cho các em học sinh tham khảo, có thêm nhiều ý tưởng xây dựng bài viết hoàn chỉnh, củng cố kỹ năng cần thiết cho bài kiểm tra viết sắp tới đây của mình.
Bài: Chuyện cơm hến
A. Bố cục Chuyện cơm hến
Có thể chia văn bản thành 2 phần:
- Phần 1 (từ đầu đến “những “đồ giả””): Món cơm hến, đặc sản xứ Huế
- Phần 2 (còn lại): Món ăn đặc sản cũng giống như một di tích văn hóa của Huế
B. Nội dung chính Chuyện cơm hến
Bài văn giới thiệu về món cơm Hến đặc sản của Huế cùng tình cảm mà tác giả dành cho món ăn quê hương mình.
C. Tóm tắt Chuyện cơm hến
Tóm tắt Chuyện cơm hến (mẫu 1)
Chuyện cơm hến là cái tôi yêu quê hương, yêu văn hóa ẩm thực nơi mình sinh ra và lớn lên của tác giả. Tuy cơm hến chỉ là một món ăn đơn giản bình thường, bình dân nhưng nó lại chứa đựng những nét văn hóa tinh thần riêng của xứ Huế.
Tóm tắt Chuyện cơm hến (mẫu 2)
Văn bản Chuyện cơm hến miêu tả là môn món ăn bình dân vì nó được làm từ những nguyên liệu bình dân, phù hợp với nhiều con người, đó là cơm nguội với những con hến nhỏ lăn tăn. Thế nhưng, món ăn này lại cho thấy đặc điểm trong phong cách ăn uống của người Huế: ăn cay. Chuyện cơm hến không phải chỉ đơn giản là văn bản giới thiệu một món ăn. Tác giả còn giới thiệu đến người đọc những câu chuyện xung quanh món cơm hến và đặc biệt là khẳng định giá trị văn hóa tinh thần của món ăn này và phong cách Huế.
D. Tác giả, tác phẩm Chuyện cơm hến
I. Tác giả
- Hoàng Phủ Ngọc Tường sinh năm 1937
- Quê quán: Quảng Trị
- Phong cách nghệ thuật: Tác phẩm của ông ca ngợi vẻ đẹp của đất nước,con người khắp khắp tổ quốc đặc biệt là Huế
- Tác phẩm chính: Rất nhiều ánh lửa (1979), Ai đặt tên cho dòng sông? (1984), Miền cỏ thơm (2007)
II. Tác phẩm Chuyện cơm hến
1.Thể loại: Truyện ngắn
2. Xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác
- Trích tác phẩm Huế -Di tích và con người (2001)
3. Phương thức biểu đạt: Miêu tả, biểu cảm
4. Người kể chuyện: Nhân vật tôi
5. Tóm tắt tác phẩm Chuyện cơm hến
- Người Huế thích ăn cay, đắng mà người vùng khác khó ăn được. Huế có đặc sản là cơm Hến mà ít nơi nào có được .Một món ăn làm từ cơm nguội sau được biến tấu thành bún hến. Tác giả cũng có kỉ niệm về món ăn này khi đến Huế
6. Bố cục tác phẩm Chuyện cơm hến
- Phần 1: Từ đầu …. trước khi ngủ: khẩu vị của người Huế
- Phần 2: Tiếp theo… bàn tay thoăn thoắt mỗi thứ một ít: giới thiệu cơm hến
- Phần 3: Còn lại: ký ức của tác giả về món cơm hến
7. Giá trị nội dung tác phẩm Chuyện cơm hến
- Tác phẩm giới thiệu về món ăn dân dã, nhưng là đặc sản của xứ Huế mà ít có nơi nào có được hương vị đó
8. Giá trị nghệ thuật tác phẩm Chuyện cơm hến
- Biện pháp liệt kê
- Tự sự kết hợp miêu tả và biểu cảm
III. Tìm hiểu chi tiết Chuyện cơm hến
1. Khẩu vị của người Huế
- Người Huế có khẩu vị rất dễ
+ Chua, cay, ngọt, đắng không chê vị nào
- Đặc biệt ăn đắng giỏi khiến người xứ khác phải sợ
+ Thích dùng mướp đắng khi còn xanh
+ Dân Huế vừa húp vừa khen, còn bạn nhậu Quảng né hết vì đăng không chịu được
- Người Huế thích ăn cay
+ Cay dễ sợ
+ Cay tối mắt tối mũi
+ Cay toát mồ hôi
+ Cay chảy nước mắt
→ Khẩu vị của người Huế rất đặc biệt, khác biệt với các vùng miền
2. Đặc sản Cơm Hến
- Món ăn dân dã nhưng hương vị khó đâu mà có được
+ Hà Nội, Sài Gòn có cả cơm hến, tôi đã xem nhưng đều là nghêu xắt nhỏ, không phải hến
- Loại cơm này rất đặc biệt từ cơm nguội
- Bày tỏ quan niệm đời chẳng có gì bỏ đi
- Cơm hến bao gồm cơm nguội và hến xắt nhỏ
+ bún tàu, măng khô, thịt heo thái chỉ
- Tác giả bất bình khi thấy cơm hến bị "cướp bản quyền”
- Tác giả phải là người sành ăn và yêu thích món ăn mới tả chi tiết về món ăn
- Tác giả có một kỉ niệm đặc biệt về món ăn dân dã này
+ Một tô cơm hến bằng tất cả tâm hồn
+ Nhiều thứ trong một bát cơm nhỏ
+ Mấy trăm đồng bạc
+ Nói như cậu… còn chi là Huế
→ Cơm hến không đơn thuần chỉ là một món ăn, mà chứa đựng cả tình người, sự yêu nghề của người dân xứ Huế
E. Đọc tác phẩm Chuyện cơm hến
Người Huế ăn giống như học bài học cuộc đời, phải nếm đủ vị mặn, lạt, chua, cay, ngọt, bùi, không chê vị nào; lại còn tỏ ra thích thú với hai vị mà thiên hạ đều sợ, là cay và đắng. [… | Người Huế thích dùng mướp đắng lúc còn xanh; nấu canh phải đuông lội nước sôi xuống để thả mướp vào mới đảm bảo là đắng, lại còn bóp mướp sống làm món nộm, đắng một cách tuyệt vời! Có hôm tàu dừng ở ga Lăng Cô, thấy nấm tràm bán rẻ như cho không tôi bèn hí hửng mua luôn một rổ làm quà cho chú bạn tôi ở Đà Nẵng, gọi là đặc sản xứ Huế. Cháo nấm tràm nấu ra ngon đến thế, nhưng chỉ có đám ụp vừa húp vừa khen, còn bạn nhậu người Quảng đều né hết, vì đắng không chịu nổi. Hoá ra chỉ cách nhau cái đèo Hải Vân thôi mà cách ăn uống của người Huế lạ đời đến thế!
Nhưng lạ nhất là thói ăn cay đến nỗi chính tôi cũng không hiểu sao mình lại ăn cay “tài” đến vậy. Người Huế có đủ cung bậc ngôn ngữ để diễn tả vị cay, bao gồm hết mọi giác quan, càng nói càng “sướng miệng” cay phỏng miệng, cay xé lưỡi, cay điếc mũi, cay chảy nước mắt, cay toát mồ hôi, cay điếc tai, cay điếc óc,…[… ] Có thể nói rằng người Huế bắt đầu thực đơn hằng ngày bằng một tô bún bò “cay dễ sợ”, tiếp theo là một ngày cây “túi mắt túi mũi” để kết thúc với tiếng rao ”Ai ăn chè?” Một chén ngọt lịm trước khi ngủ.
Tôi xin giới thiệu một ngày “Hạnh phúc trời hành” của dân Huế tui, bắt đầu bằng món cơm hến, Những món ăn Huế như bún bò, cháo lòng,…. bây giờ trở thành phổ biến khắp nơi (dù đã mắt đi bản chất cay của nó) chỉ món cơm hến này là không nơi nào có. Hà Nội, Sài Gòn cũng có vài ba quán Huế có cả cơm hến, tôi đã thử xem, đều toàn là nghêu xắt nhỏ, đâu phải là hến. Vậy thì cơm hến là gì?
Trước hết, nói về cơm. Người Việt mình ăn cơm kiểu nào cũng phải nóng, duy chỉ cơm hến nhất thiết phải là cơm nguội. Hình như người Huế muốn bày tỏ một quan niệm rằng trên đời chẳng có một vật gì đáng phải bỏ đi, nên bày ra món cá lẹp!” kẹp rau mưng”, và món cơm nguội với những con hẻm nhỏ lăn tăn làm sốt một người chế biến món ăn, gọi là cơm hến. Sau này ở Huế người ta còn bày thêm món bún hến, dùng bún thay cơm nguội. Tôi rất ghét những lỗi cải tiến tạp nham như vậy. Bún đã có bún bò, ai có giang sơn ấy, việc gì phải cướp bản quyền sáng chế của người khác. Vả lại, người Huế (Huế xưa, không phải bây giờ) rất kiên định trong Iập trường ăn uống của mình. Tôi nghĩ rằng trong vấn đề khẩu vị, tính bảo thủ là một yếu tố văn hoá hết sức quan trọng, để bảo tồn di sản. Với tôi, một món ăn đặc sản cần giống như một di tích văn hóa, cứ phải giống y như ngày xưa, và mọi ý đồ cải tiền đều mang tính phá phách, chỉ tạo nên những “đô giả”!
Xin tiếp tục chuyện cơm hến. Hến ở Huế ngon nhất là hến cồn, do đó cái còn nỗi chiếm vị trí ‘*Tả Thanh Long’ rất mực quan trọng trong Dịch lý“ của kiến trúc kinh thành, đâu chỉ gọi nôm na là Con Hến. Đáy sông quanh cồn có một lớp bùn sâu, là nôi xinh màu mỡ của loài hến. Điều lạ là con hến, dù không có tay chân. nhưng khi thời tiết thay đổi làm dòng nước chảy mạnh có thể lặn sâu xuống đáy bùn để khỏi bị nước cuốn đi. Dân còn làm nghề xúc hến mỗi năm đều có lễ cúng hến vào tháng Bảy, trên những con đò cờ xí rộn ràng, tiếng trống vang lừng, người ta luộc hến xong đem ra sông đãi trong những chiếc rồ lớn, tách vỏ, lấy riêng mặt hến đem đong chén bán cho những người làm cơm hến.
Mặt hến này là vị chủ của cơm hến xào kèm theo bún tàu (miến), măng khô và thịt heo thái chỉ. Món thứ ba trong cơm hến là rau sống. Chỉ một túm thôi, những rau sống này làm bằng thân chuối hoặc bắp chuối xắt mỏng như sợi tơ, trộn lẫn với môn bạc hà và rau thơm thái nhỏ, giá chân (trụng”) sơ qua nước sôi, có khi còn điểm thêm những cánh bông vạn thọ vàng, nhìn tươi mắt và có thêm mùi thơm riêng.
Nước luộc hến được rút ra từ chiến nội cung bốc khói nghi ngút, bằng chiếc gáo làm bằng sọ dừa xinh xắn, cho vào một cái tô đã gom đủ cơm nguội, hến xào, rau sống và được giao thêm đủ vị đủ màu. Nước hến có giã thêm gừng màu trắng đùng đục. Vâng, mê nhất cái màu đùng đục ấy, ăn cơm hến mà chê nước đục là… dại!
Bộ đồ màu của cơm hến là nhiêu khê nhất thiên hạ. Đây là bản liệt kê các món gia vị mà tôi từng quan sát được ở một ảnh cơm hến, chắc có thể coi là “lý tưởng” như sau:
1. Ớt tương
2. Ớt màu, ớt đâm nước mắm
3. Ruốc sống
4. Bánh tráng nướng bóp vụn
5. Muối rang
6. Hạt đậu phộng” rang mỡ, giã hơi thô thô
7. Mẻ rang
8. Da heo rang giòn
9. Mỡ và tóp mỡ.
10. Vị tỉnh.
Tất cả được đựng trong những, thấu, những vị bày trên một cái trẹc, o bán cơm hến lấy ra bằng những chiếc gáo mù u nhỏ xíu, bàn tay thoăn thoắt mỗi thứ một ít.
Hương vị bát ngát suốt đời người của tô cơm hến là mùi ruốc thơm dậy tận óc, và vị cay đến trào nước mắt. Người ‘’nấu” cơm hến vẫn chưa vừa lòng với vị cay sẵn có, còn đòi thêm một trái ớt tươi để cắn kêu cái rốp! Nước mắt đầm đìa, mồ hôi ròng ròng nhỏ giọt vào tô cơm thế mà cứ xì xụp, xuýt xoa kêu “ngon, ngon”; đi xa nhớ lại thèm đứt sợi tóc, ở nước ngoài về bay ra Huế để ăn cho được một tô cơm hến lấy làm hả hê, thế đấy, chao ôi là Huế!
Tôi nhớ lần ấy, chiều mưa râm ri cỡ tháng Mười một, tôi ngồi ăn cơm hến ở nhà Bửu Ý ở đường Hàng Me. Tôi vừa đi Tây về, suốt hai tuần ở cung Đại hội các nhà văn, bữa ăn nào cũng toàn thịt, bơ, phô mát,… đến nỗi tôi thất kinh, nhiều ngày chỉ mang một mớ trái cây về phòng ăn trừ bữa. Nhiều tuần lễ không cỏ một hạt cơm ở trong bụng, nghe tiếng rao cơm hến tôi thấy xúc động tận chân răng. Đây là lần đầu tiên tôi ăn một tô cơm hến “bằng tất cả tâm hồn”. Thấy chị bán hàng phải cho quá nhiều thứ trong một bát cơm nhỏ, công phu thế mà chỉ bán có năm trăm đồng bạc, tôi lấy làm ái ngại hỏi chị:
– Lời lãi bao nhiêu mà chị phải kĩ đến thế. Chỉ cần ba bốn thứ, vừa vừa thôi, có đỡ mất công không?
Chỉ nhìn tôi với đôi mắt giận dỗi khác lạ:
– Nói như cậu thi… còn chỉ là Huế!
Chị gánh hàng đi, dáng gầy mỏng manh, chiếc áo dài đen cũ kĩ, chiếc nón cời và tiếng rao lanh lảnh. Hồi nãy tôi đã đếm và biết gánh cơm trên vai chị có tất cả mười bốn vị. Bây giờ tôi mới phát hiện thêm vị thứ mười lăm, là lửa. Vâng, một bếp lửa chắt chiu, ấp ủ đi trong mưa suốt mùa đông, bền bỉ theo bước chân người.
F. Ý nghĩa nhan đề tác phẩm Chuyện cơm hến
Nhan đề “Chuyện cơm hến” giúp người đọc dễ hình dung đến món ăn sẽ được đề cập trong tác phẩm. Đồng thời góp phần nói lên cái tôi yêu quê hương, yêu văn hóa ẩm thực nơi mình sinh ra và lớn lên của tác giả. Tuy cơm hến chỉ là một món ăn đơn giản bình thường, bình dân nhưng nó lại chứa đựng những nét văn hóa tinh thần riêng của xứ Huế.
>>> Bài tiếp theo: Tóm tắt, bố cục, nội dung chính văn bản Hội lồng tồng