Giao diện mới của VnDoc Pro: Dễ sử dụng hơn - chỉ tập trung vào lớp bạn quan tâm. Vui lòng chọn lớp mà bạn quan tâm: Lưu và trải nghiệm

Bài thu hoạch Chính trị hè 2024 dành cho giáo viên

Tổng hợp Bài thu hoạch Chính trị hè 2024 dành cho cán bộ Đảng viên, giáo viên để bạn đọc cùng tham khảo. Bản thu hoạch chính trị 2024 này là tổng kết quá trình học tập và tiếp thu sau khi tham gia lớp chính trị hè. Dưới đây là nội dung chi tiết mời quý bạn đọc cùng tham khảo.

1. Bài thu hoạch chính trị hè mới nhất 2024

1.1 Bài thu hoạch chính trị hè mới nhất Câu hỏi 1

Câu hỏi: Theo anh/chị, làm thế nào để triển khai thực hiện tốt quy chế dân chủ trong trường học?

Dưới đây là mẫu bài thu hoạch chính trị hè mới nhất dành cho giáo viên về việc thực hiện dân chủ trong nhà trường như sau:

Quy chế thực hiện dân chủ nhà trường nhằm phát huy quyền làm chủ của công chức, nhân viên trong cơ quan, góp phần xây dựng cơ quan trong sạch, vững mạnh, xây dựng đội ngũ công chức có đủ phẩm chất, năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, làm việc có năng suất, chất lượng, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ ngày càng cao của ngành, đồng thời ngăn chặn và phòng chống tham nhũng, lãng phí, quan liêu, phiền hà, sách nhiễu.

Ý nghĩa

Thực hiện dân chủ trong nhà trường hiện nay là một nhiệm vụ quan trọng nhằm tạo môi trường làm việc lành mạnh để mỗi cá nhân phát huy tinh thần làm chủ, khả năng trí tuệ cống hiến xây dựng tập thể đoàn kết vững mạnh.

Phát huy vai trò lãnh đạo toàn diện của chi bộ đối với hoạt động của cơ quan, đảm bảo nguyên tắc tập trung dân chủ, thực hiện chế độ Thủ trưởng và phát huy vai trò của tổ chức đoàn thể trong cơ quan.

Thực hiện dân chủ trong họat động cơ quan nhằm đảm bảo đúng pháp luật của nhà nước về các hoạt động của ngành. Kiên quyết xử lý những hành vi lợi dụng dân chủ vi phạm chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước và các quy định của ngành.

Triển khai hiệu quả

Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng “Dân chủ là cái quý báu nhất của nhân dân, chìa khóa vạn năng đề giải quyết mọi khó khăn”. Trong các trường học luôn xác định việc thực hiện dân chủ là yếu tố quan trọng để phát huy nội lực của mỗi CBGV, NV trong việc thực hiện tốt mục tiêu của các nhà trường. Chỉ thị 30/CT-TW của Bộ Chính trị về thực hiện Quy chế dân chủ khẳng định tầm quan trọng của việc thực hiện Quy chế dân chủ trong trường học một mặt vừa phát huy và đảm bảo quyền làm chủ, sức sáng tạo của CBGV, NV trong nhà trường, mặt khác nâng cao hơn nữa trách nhiệm của lãnh đạo các trường học nhằm tạo ra bầu không khí dân chủ, cởi mở đoàn kết nội bộ góp phần giữ vững kỷ cương, duy trì nề nếp của hoạt động dạy và học trong các nhà trường

- Phát huy quyền làm chủ và huy động tiềm năng trí tuệ của CB, GV, NV góp phần xây dựng nền nếp, trật tự, kỷ cương trong mọi hoạt động của nhà trường, ngăn chặn các hiện tượng tiêu cực và các tệ nạn xã hội, thực hiện nhiệm vụ phát triển giáo dục phù hợp với đường lối, chủ trương của Đảng và pháp luật nhà nước;

- Góp phần xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có đủ phẩm chất chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống, năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, làm việc có năng suất, chất lượng, hiệu quả, đáp ứng yêu cầu giáo dục thủ đô.

- Thực hiện mối quan hệ với công dân, cơ quan, tổ chức: Hàng tháng, quý, HK và trong năm học BGH nhà trường thường xuyên và chỉ đạo thực hiện công tác công khai, niêm yết các hoạt động về tài chính, công khai chất lượng giáo dục, công khai dự toán thu chi ngân sách vào tháng để tập thể CB-GV-NV thảo luận Quy chế chi tiêu nội bộ trước hội đồng sư phạm nhà trường. Kết quả thực hiện công tác công khai, niêm yết diễn ra một cách minh bạch, rõ ràng trong tập thể nhà trường, nên không có trường hợp thắc mắc, khiếu nại trong giáo viên và học sinh, phụ huynh học sinh.

Các quy chế đã xác định được quyền và trách nhiệm của cán bộ, giáo viên, nhân viên trong đơn vị, tạo môi trường làm việc đảm bảo tính thân thiện, công khai, dân chủ góp phần xây dựng kỷ cương, nề nếp trong công tác, tạo khối đoàn kết thống nhất trong nhà trường.

Đánh giá trách nhiệm của cán bộ, công chức và trách nhiệm của cán bộ công chức cùng với thủ trưởng cơ quan tham gia xây dựng chương trình, kế hoạch công tác, nội quy, quy chế làm việc của cơ quan và tham gia giám sát đầy đủ theo kế hoạch đề ra trong từng giai đoạn. BGH nhà trường kết hợp với BCH Công đoàn trường chỉ đạo thực hiện công tác kiểm tra, giám sát các hoạt động về công khai tài chính.

1.2 Bài thu hoạch chính trị hè mới nhất Câu hỏi 2

Câu 1: (10 điểm)

- Qua học tập, nghiên cứu các chuyên đề, anh/chị tâm đắc nhất nội dung nào? Vì sao? (06 điểm)

- Với chuyên đề mà anh/chị tâm đắc, hãy nêu giải pháp vận dụng thực tiễn vào công việc tại đơn vị các anh/chị đang công tác? (04 điểm)

NỘI DUNG VIẾT THU HOẠCH

Nội dung 1:

Qua học tập, nghiên cứu các chuyên đề, anh/chị tâm đắc nhất nội dung nào? Vì sao?

- Sau thời gian học tập, nghiên cứu qua lớp chính trị hè 2024, tôi tâm đắc nhất là chuyên đề 2, Chuyên đề năm 2024 “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về phát huy giá trị văn hóa, con người Việt Nam tại Thành phố Hồ Chí Minh’’; Kết quả triển khai thực hiện Nghị quyết số 29/NQ/TW của Ban chấp hành Trung ương Đảng về đổi mới căn cơ toàn diện giáo dục vả đào tạo, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Vì bản thân tôi tâm đắc với các nội dung sau đây:

Nghị quyết số 29/NQ/TW của Ban chấp hành Trung ương Đảng nêu rõ: Thực hiện Nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII và các chủ trương của Đảng, Nhà nước về định hướng chiến lược phát triển giáo dục-đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, lĩnh vực giáo dục và đào tạo nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng, góp phần to lớn vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Cụ thể là: Đã xây dựng được hệ thống giáo dục và đào tạo tương đối hoàn chỉnh từ mầm non đến đại học. Cơ sở vật chất, thiết bị giáo dục, đào tạo được cải thiện rõ rệt và từng bước hiện đại hóa. Số lượng học sinh, sinh viên tăng nhanh, nhất là ở giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp. Chất lượng giáo dục và đào tạo có tiến bộ. Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục phát triển cả về số lượng và chất lượng, với cơ cấu ngày càng hợp lý. Chi ngân sách cho giáo dục và đào tạo đạt mức 20% tổng chi ngân sách nhà nước. Xã hội hóa giáo dục được đẩy mạnh; hệ thống giáo dục và đào tạo ngoài công lập góp phần đáng kể vào phát triển giáo dục và đào tạo chung của toàn xã hội. Công tác quản lý giáo dục và đào tạo có bước chuyển biến nhất định. Cả nước đã hoàn thành mục tiêu xóa mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học vào năm 2000; phổ cập giáo dục trung học cơ sở vào năm 2010; đang tiến tới phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi; củng cố và nâng cao kết quả xóa mù chữ cho người lớn. Cơ hội tiếp cận giáo dục có nhiều tiến bộ, nhất là đối với đồng bào dân tộc thiểu số và các đối tượng chính sách; cơ bản bảo đảm bình đẳng giới trong giáo dục và đào tạo.

Tuy nhiên, chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo còn thấp so với yêu cầu, nhất là giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp. Hệ thống giáo dục và đào tạo thiếu liên thông giữa các trình độ và giữa các phương thức giáo dục, đào tạo; còn nặng lý thuyết, nhẹ thực hành. Đào tạo thiếu gắn kết với nghiên cứu khoa học, sản xuất, kinh doanh và nhu cầu của thị trường lao động; chưa chú trọng đúng mức việc giáo dục đạo đức, lối sống và kỹ năng làm việc. Phương pháp giáo dục, việc thi, kiểm tra và đánh giá kết quả còn lạc hậu, thiếu thực chất. Quản lý giáo dục và đào tạo còn nhiều yếu kém. Đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục bất cập về chất lượng, số lượng và cơ cấu; một bộ phận chưa theo kịp yêu cầu đổi mới và phát triển giáo dục, thiếu tâm huyết, thậm chí vi phạm đạo đức nghề nghiệp. Đầu tư cho giáo dục và đào tạo chưa hiệu quả. Chính sách, cơ chế tài chính cho giáo dục và đào tạo chưa phù hợp. Cơ sở vật chất kỹ thuật còn thiếu và lạc hậu, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn.

Nội dung 2:

Với chuyên đề mà anh/chị tâm đắc, hãy nêu giải pháp vận dụng thực tiễn vào công việc tại đơn vị các anh/chị đang công tác?

Những hạn chế, yếu kém nói trên do các nguyên nhân chủ yếu sau:

- Việc thể chế hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước về phát triển giáo dục và đào tạo, nhất là quan điểm "giáo dục là quốc sách hàng đầu" còn chậm và lúng túng. Việc xây dựng, tổ chức thực hiện chiến lược, kế hoạch và chương trình phát triển giáo dục-đào tạo chưa đáp ứng yêu cầu của xã hội.

- Mục tiêu giáo dục toàn diện chưa được hiểu và thực hiện đúng. Bệnh hình thức, hư danh, chạy theo bằng cấp... chậm được khắc phục, có mặt nghiêm trọng hơn. Tư duy bao cấp còn nặng, làm hạn chế khả năng huy động các nguồn lực xã hội đầu tư cho giáo dục, đào tạo.

- Việc phân định giữa quản lý nhà nước với hoạt động quản trị trong các cơ sở giáo dục, đào tạo chưa rõ. Công tác quản lý chất lượng, thanh tra, kiểm tra, giám sát chưa được coi trọng đúng mức. Sự phối hợp giữa các cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội và gia đình chưa chặt chẽ. Nguồn lực quốc gia và khả năng của phần đông gia đình đầu tư cho giáo dục và đào tạo còn thấp so với yêu cầu.

Qua việc phân tích trên, Tôi xin đề xuất các nhiệm vụ và giải pháp thực hiện như sau:

1/ Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước đối với đổi mới giáo dục và đào tạo

Quán triệt sâu sắc và cụ thể hóa các quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục và đào tạo trong hệ thống chính trị, ngành giáo dục và đào tạo và toàn xã hội, tạo sự đồng thuận cao coi giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu. Nâng cao nhận thức về vai trò quyết định chất lượng giáo dục và đào tạo của đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục; người học là chủ thể trung tâm của quá trình giáo dục; gia đình có trách nhiệm phối hợp với nhà trường và xã hội trong việc giáo dục nhân cách, lối sống cho con em mình.

Đổi mới công tác thông tin và truyền thông để thống nhất về nhận thức, tạo sự đồng thuận và huy động sự tham gia đánh giá, giám sát và phản biện của toàn xã hội đối với công cuộc đổi mới, phát triển giáo dục.

Coi trọng công tác phát triển đảng, công tác chính trị, tư tưởng trong các trường học, trước hết là trong đội ngũ giáo viên. Bảo đảm các trường học có chi bộ; các trường đại học có đảng bộ. Cấp ủy trong các cơ sở giáo dục-đào tạo phải thực sự đi đầu đổi mới, gương mẫu thực hiện và chịu trách nhiệm trước Đảng, trước nhân dân về việc tổ chức thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ giáo dục, đào tạo. Lãnh đạo nhà trường phát huy dân chủ, dựa vào đội ngũ giáo viên, viên chức và học sinh, phát huy vai trò của các tổ chức đoàn thể và nhân dân địa phương để xây dựng nhà trường.

Các bộ, ngành, địa phương xây dựng quy hoạch dài hạn phát triển nguồn nhân lực, dự báo nhu cầu về số lượng, chất lượng nhân lực, cơ cấu ngành nghề, trình độ. Trên cơ sở đó, đặt hàng và phối hợp với các cơ sở giáo dục, đào tạo tổ chức thực hiện.

Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, giải quyết dứt điểm các hiện tượng tiêu cực kéo dài, gây bức xúc trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo.

2/ Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của giáo dục, đào tạo theo hướng coi trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học.

Trên cơ sở mục tiêu đổi mới giáo dục và đào tạo, cần xác định rõ và công khai mục tiêu, chuẩn đầu ra của từng bậc học, môn học, chương trình, ngành và chuyên ngành đào tạo. Coi đó là cam kết bảo đảm chất lượng của cả hệ thống và từng cơ sở giáo dục và đào tạo; là căn cứ giám sát, đánh giá chất lượng giáo dục, đào tạo.

Đổi mới chương trình nhằm phát triển năng lực và phẩm chất người học, hài hòa đức, trí, thể, mỹ; dạy người, dạy chữ và dạy nghề. Đổi mới nội dung giáo dục theo hướng tinh giản, hiện đại, thiết thực, phù hợp với lứa tuổi, trình độ và ngành nghề; tăng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Chú trọng giáo dục nhân cách, đạo đức, lối sống, tri thức pháp luật và ý thức công dân. Tập trung vào những giá trị cơ bản của văn hóa, truyền thống và đạo lý dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại, giá trị cốt lõi và nhân văn của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Tăng cường giáo dục thể chất, kiến thức quốc phòng, an ninh và hướng nghiệp. Dạy ngoại ngữ và tin học theo hướng chuẩn hóa, thiết thực, bảo đảm năng lực sử dụng của người học. Quan tâm dạy tiếng nói và chữ viết của các dân tộc thiểu số; dạy tiếng Việt và truyền bá văn hóa dân tộc cho người Việt Nam ở nước ngoài.

Đa dạng hóa nội dung, tài liệu học tập, đáp ứng yêu cầu của các bậc học, các chương trình giáo dục, đào tạo và nhu cầu học tập suốt đời của mọi người.

Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực. Chuyển từ học chủ yếu trên lớp sang tổ chức hình thức học tập đa dạng, chú ý các hoạt động xã hội, ngoại khóa, nghiên cứu khoa học. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong dạy và học. Tiếp tục đổi mới và chuẩn hóa nội dung giáo dục mầm non, chú trọng kết hợp chăm sóc, nuôi dưỡng với giáo dục phù hợp với đặc điểm tâm lý, sinh lý, yêu cầu phát triển thể lực và hình thành nhân cách.

Xây dựng và chuẩn hóa nội dung giáo dục phổ thông theo hướng hiện đại, tinh gọn, bảo đảm chất lượng, tích hợp cao ở các lớp học dưới và phân hóa dần ở các lớp học trên; giảm số môn học bắt buộc; tăng môn học, chủ đề và hoạt động giáo dục tự chọn. Biên soạn sách giáo khoa, tài liệu hỗ trợ dạy và học phù hợp với từng đối tượng học, chú ý đến học sinh dân tộc thiểu số và học sinh khuyết tật.

Nội dung giáo dục nghề nghiệp được xây dựng theo hướng tích hợp kiến thức, kỹ năng, tác phong làm việc chuyên nghiệp để hình thành năng lực nghề nghiệp cho người học.

Đổi mới mạnh mẽ nội dung giáo dục đại học và sau đại học theo hướng hiện đại, phù hợp với từng ngành, nhóm ngành đào tạo và việc phân tầng của hệ thống giáo dục đại học. Chú trọng phát triển năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, đạo đức nghề nghiệp và hiểu biết xã hội, từng bước tiếp cận trình độ khoa học và công nghệ tiên tiến của thế giới.

3/ Đổi mới căn bản hình thức và phương pháp thi, kiểm tra và đánh giá kết quả giáo dục, đào tạo, bảo đảm trung thực, khách quan.Việc thi, kiểm tra và đánh giá kết quả giáo dục, đào tạo cần từng bước theo các tiêu chí tiên tiến được xã hội và cộng đồng giáo dục thế giới tin cậy và công nhận. Phối hợp sử dụng kết quả đánh giá trong quá trình học với đánh giá cuối kỳ, cuối năm học; đánh giá của người dạy với tự đánh giá của người học; đánh giá của nhà trường với đánh giá của gia đình và của xã hội.

Đổi mới phương thức thi và công nhận tốt nghiệp trung học phổ thông theo hướng giảm áp lực và tốn kém cho xã hội mà vẫn bảo đảm độ tin cậy, trung thực, đánh giá đúng năng lực học sinh, làm cơ sở cho việc tuyển sinh giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học.

Đổi mới phương thức đánh giá và công nhận tốt nghiệp giáo dục nghề nghiệp trên cơ sở kiến thức, năng lực thực hành, ý thức kỷ luật và đạo đức nghề nghiệp. Có cơ chế để tổ chức và cá nhân sử dụng lao động tham gia vào việc đánh giá chất lượng của cơ sở đào tạo.

Đổi mới phương thức tuyển sinh đại học, cao đẳng theo hướng kết hợp sử dụng kết quả học tập ở phổ thông và yêu cầu của ngành đào tạo. Đánh giá kết quả đào tạo đại học theo hướng chú trọng năng lực phân tích, sáng tạo, tự cập nhật, đổi mới kiến thức; đạo đức nghề nghiệp; năng lực nghiên cứu và ứng dụng khoa học và công nghệ; năng lực thực hành, năng lực tổ chức và thích nghi với môi trường làm việc. Giao quyền tự chủ tuyển sinh cho các cơ sở giáo dục đại học.

Thực hiện đánh giá chất lượng giáo dục, đào tạo ở cấp độ quốc gia, địa phương, từng cơ sở giáo dục, đào tạo và đánh giá theo chương trình của quốc tế để làm căn cứ đề xuất chính sách, giải pháp cải thiện chất lượng giáo dục, đào tạo.

Hoàn thiện hệ thống kiểm định chất lượng giáo dục. Định kỳ kiểm định chất lượng các cơ sở giáo dục, đào tạo và các chương trình đào tạo; công khai kết quả kiểm định. Chú trọng kiểm tra, đánh giá, kiểm soát chất lượng giáo dục và đào tạo đối với các cơ sở ngoài công lập, các cơ sở có yếu tố nước ngoài. Xây dựng phương thức kiểm tra, đánh giá phù hợp với các loại hình giáo dục cộng đồng.

Đổi mới cách tuyển dụng, sử dụng lao động đã qua đào tạo theo hướng chú trọng năng lực, chất lượng, hiệu quả công việc thực tế, không quá nặng về bằng cấp, trước hết là trong các cơ quan thuộc hệ thống chính trị. Coi sự chấp nhận của thị trường lao động đối với người học là tiêu chí quan trọng để đánh giá uy tín, chất lượng của cơ sở giáo dục đại học, nghề nghiệp và là căn cứ để định hướng phát triển các cơ sở giáo dục, đào tạo và ngành nghề đào tạo.

4/ Hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng hệ thống giáo dục mở, học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập. Trước mắt, ổn định hệ thống giáo dục phổ thông như hiện nay.

Đẩy mạnh phân luồng sau trung học cơ sở; định hướng nghề nghiệp ở trung học phổ thông. Tiếp tục nghiên cứu đổi mới hệ thống giáo dục phổ thông phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nước và xu thế phát triển giáo dục của thế giới.

Quy hoạch lại mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học gắn với quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội, quy hoạch phát triển nguồn nhân lực. Thống nhất tên gọi các trình độ đào tạo, chuẩn đầu ra. Đẩy mạnh giáo dục nghề nghiệp sau trung học phổ thông, liên thông giữa giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học. Tiếp tục sắp xếp, điều chỉnh mạng lưới các trường đại học, cao đẳng và các viện nghiên cứu theo hướng gắn đào tạo với nghiên cứu khoa học. Thực hiện phân tầng cơ sở giáo dục đại học theo định hướng nghiên cứu và ứng dụng, thực hành. Hoàn thiện mô hình đại học quốc gia, đại học vùng; củng cố và phát triển một số cơ sở giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp chất lượng cao đạt trình độ tiên tiến của khu vực và thế giới.

Khuyến khích xã hội hóa để đầu tư xây dựng và phát triển các trường chất lượng cao ở tất cả các cấp học và trình độ đào tạo. Tăng tỷ lệ trường ngoài công lập đối với giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học. Hướng tới có loại hình cơ sở giáo dục do cộng đồng đầu tư.

Đa dạng hóa các phương thức đào tạo. Thực hiện đào tạo theo tín chỉ. Đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng năng lực, kỹ năng nghề tại cơ sở sản xuất, kinh doanh. Có cơ chế để tổ chức, cá nhân người sử dụng lao động tham gia xây dựng, điều chỉnh, thực hiện chương trình đào tạo và đánh giá năng lực người học.

5/ Đổi mới căn bản công tác quản lý giáo dục, đào tạo, bảo đảm dân chủ, thống nhất; tăng quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của các cơ sở giáo dục, đào tạo; coi trọng quản lý chất lượng. Xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục, đào tạo và trách nhiệm quản lý theo ngành, lãnh thổ của các bộ, ngành, địa phương. Phân định công tác quản lý nhà nước với quản trị của cơ sở giáo dục và đào tạo. Đẩy mạnh phân cấp, nâng cao trách nhiệm, tạo động lực và tính chủ động, sáng tạo của các cơ sở giáo dục, đào tạo.

Tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước, nhất là về chương trình, nội dung và chất lượng giáo dục và đào tạo đối với các cơ sở giáo dục, đào tạo của nước ngoài tại Việt Nam. Phát huy vai trò của công nghệ thông tin và các thành tựu khoa học-công nghệ hiện đại trong quản lý nhà nước về giáo dục, đào tạo.

Các cơ quan quản lý giáo dục, đào tạo địa phương tham gia quyết định về quản lý nhân sự, tài chính cùng với quản lý thực hiện nhiệm vụ chuyên môn của giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông và giáo dục nghề nghiệp.

Chuẩn hóa các điều kiện bảo đảm chất lượng và quản lý quá trình đào tạo; chú trọng quản lý chất lượng đầu ra. Xây dựng hệ thống kiểm định độc lập về chất lượng giáo dục, đào tạo.

Đổi mới cơ chế tiếp nhận và xử lý thông tin trong quản lý giáo dục, đào tạo. Thực hiện cơ chế người học tham gia đánh giá hoạt động giáo dục, đào tạo; nhà giáo tham gia đánh giá cán bộ quản lý; cơ sở giáo dục, đào tạo tham gia đánh giá cơ quan quản lý nhà nước.

Hoàn thiện cơ chế quản lý cơ sở giáo dục, đào tạo có yếu tố nước ngoài ở Việt Nam; quản lý học sinh, sinh viên Việt Nam đi học nước ngoài bằng nguồn ngân sách nhà nước và theo hiệp định nhà nước. Giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các cơ sở giáo dục, đào tạo; phát huy vai trò của hội đồng trường. Thực hiện giám sát của các chủ thể trong nhà trường và xã hội; tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra của cơ quan quản lý các cấp; bảo đảm dân chủ, công khai, minh bạch.

6- Phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục và đào tạo

Xây dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục gắn với nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng và hội nhập quốc tế. Thực hiện chuẩn hóa đội ngũ nhà giáo theo từng cấp học và trình độ đào tạo. Tiến tới tất cả các giáo viên tiểu học, trung học cơ sở, giáo viên, giảng viên các cơ sở giáo dục nghề nghiệp phải có trình độ từ đại học trở lên, có năng lực sư phạm. Giảng viên cao đẳng, đại học có trình độ từ thạc sỹ trở lên và phải được đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ sư phạm. Cán bộ quản lý giáo dục các cấp phải qua đào tạo về nghiệp vụ quản lý.

Phát triển hệ thống trường sư phạm đáp ứng mục tiêu, yêu cầu đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục; ưu tiên đầu tư xây dựng một số trường sư phạm, trường sư phạm kỹ thuật trọng điểm; khắc phục tình trạng phân tán trong hệ thống các cơ sở đào tạo nhà giáo. Có cơ chế tuyển sinh và cử tuyển riêng để tuyển chọn được những người có phẩm chất, năng lực phù hợp vào ngành sư phạm. Đổi mới mạnh mẽ mục tiêu, nội dung, phương pháp đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng và đánh giá kết quả học tập, rèn luyện của nhà giáo theo yêu cầu nâng cao chất lượng, trách nhiệm, đạo đức và năng lực nghề nghiệp.

Có chế độ ưu đãi đối với nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục. Việc tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ, tôn vinh nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục phải trên cơ sở đánh giá năng lực, đạo đức nghề nghiệp và hiệu quả công tác. Có chế độ ưu đãi và quy định tuổi nghỉ hưu hợp lý đối với nhà giáo có trình độ cao; có cơ chế miễn nhiệm, bố trí công việc khác hoặc kiên quyết đưa ra khỏi ngành đối với những người không đủ phẩm chất, năng lực, không đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ. Lương của nhà giáo được ưu tiên xếp cao nhất trong hệ thống thang bậc lương hành chính sự nghiệp và có thêm phụ cấp tùy theo tính chất công việc, theo vùng.

Khuyến khích đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Có chính sách hỗ trợ giảng viên trẻ về chỗ ở, học tập và nghiên cứu khoa học. Bảo đảm bình đẳng giữa nhà giáo trường công lập và nhà giáo trường ngoài công lập về tôn vinh và cơ hội đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ... Tạo điều kiện để chuyên gia quốc tế và người Việt Nam ở nước ngoài tham gia giảng dạy và nghiên cứu ở các cơ sở giáo dục, đào tạo trong nước.

Triển khai các giải pháp, mô hình liên thông, liên kết giữa các cơ sở đào tạo, nhất là các trường đại học với các tổ chức khoa học và công nghệ, đặc biệt là các viện nghiên cứu.

7/ Đổi mới chính sách, cơ chế tài chính, huy động sự tham gia đóng góp của toàn xã hội; nâng cao hiệu quả đầu tư để phát triển giáo dục và đào tạo

Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong đầu tư phát triển giáo dục và đào tạo, ngân sách nhà nước chi cho giáo dục và đào tạo tối thiểu ở mức 20% tổng chi ngân sách; chú trọng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ngân sách. Từng bước bảo đảm đủ kinh phí hoạt động chuyên môn cho các cơ sở giáo dục, đào tạo công lập. Hoàn thiện chính sách học phí.

Đối với giáo dục mầm non và phổ thông, Nhà nước ưu tiên tập trung đầu tư xây dựng, phát triển các cơ sở giáo dục công lập và có cơ chế hỗ trợ để bảo đảm từng bước hoàn thành mục tiêu phổ cập theo luật định. Khuyến khích phát triển các loại hình trường ngoài công lập đáp ứng nhu cầu xã hội về giáo dục chất lượng cao ở khu vực đô thị.

Đối với giáo dục đại học và đào tạo nghề nghiệp, Nhà nước tập trung đầu tư xây dựng một số trường đại học, ngành đào tạo trọng điểm, trường đại học sư phạm. Thực hiện cơ chế đặt hàng trên cơ sở hệ thống định mức kinh tế-kỹ thuật, tiêu chuẩn chất lượng của một số loại hình dịch vụ đào tạo (không phân biệt loại hình cơ sở đào tạo), bảo đảm chi trả tương ứng với chất lượng, phù hợp với ngành nghề và trình độ đào tạo. Minh bạch hóa các hoạt động liên danh, liên kết đào tạo, sử dụng nguồn lực công ; bảo đảm sự hài hòa giữa các lợi ích với tích luỹ tái đầu tư.

Đẩy mạnh xã hội hóa, trước hết đối với giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học; khuyến khích liên kết với các cơ sở đào tạo nước ngoài có uy tín. Có chính sách khuyến khích cạnh tranh lành mạnh trong giáo dục và đào tạo trên cơ sở bảo đảm quyền lợi của người học, người sử dụng lao động và cơ sở giáo dục, đào tạo. Đối với các ngành đào tạo có khả năng xã hội hóa cao, ngân sách nhà nước chỉ hỗ trợ các đối tượng chính sách, đồng bào dân tộc thiểu số và khuyến khích tài năng. Tiến tới bình đẳng về quyền được nhận hỗ trợ của Nhà nước đối với người học ở trường công lập và trường ngoài công lập. Tiếp tục hoàn thiện chính sách hỗ trợ đối với các đối tượng chính sách, đồng bào dân tộc thiểu số và cơ chế tín dụng cho học sinh, sinh viên có hoàn cảnh khó khăn được vay để học. Khuyến khích hình thành các quỹ học bổng, khuyến học, khuyến tài, giúp học sinh, sinh viên nghèo học giỏi. Tôn vinh, khen thưởng xứng đáng các cá nhân, tập thể có thành tích xuất sắc và đóng góp nổi bật cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo.

Khuyến khích các doanh nghiệp, cá nhân sử dụng lao động tham gia hỗ trợ hoạt động đào tạo. Xây dựng cơ chế, chính sách tài chính phù hợp đối với các loại hình trường. Có cơ chế ưu đãi tín dụng cho các cơ sở giáo dục, đào tạo. Thực hiện định kỳ kiểm toán các cơ sở giáo dục-đào tạo. Tiếp tục thực hiện mục tiêu kiên cố hóa trường, lớp học; có chính sách hỗ trợ để có mặt bằng xây dựng trường. Từng bước hiện đại h óa cơ sở vật chất kỹ thuật, đặc biệt là hạ tầng công nghệ thông tin. Bảo đảm đến năm 2020 số học sinh mỗi lớp không vượt quá quy định của từng cấp học.

Phân định rõ ngân sách chi cho giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học với ngân sách chi cho cơ sở đào tạo, bồi dưỡng thuộc hệ thống chính trị và các lực lượng vũ trang. Giám sát chặt chẽ, công khai, minh bạch việc sử dụng kinh phí.

8/ Nâng cao chất lượng, hiệu quả nghiên cứu và ứng dụng khoa học, công nghệ, đặc biệt là khoa học giáo dục và khoa học quản lý. Quan tâm nghiên cứu khoa học giáo dục và khoa học quản lý, tập trung đầu tư nâng cao năng lực, chất lượng, hiệu quả hoạt động của cơ quan nghiên cứu khoa học giáo dục quốc gia. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ nghiên cứu và chuyên gia giáo dục. Triển khai chương trình nghiên cứu quốc gia về khoa học giáo dục.

Tăng cường năng lực, nâng cao chất lượng và hiệu quả nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ của các cơ sở giáo dục đại học. Gắn kết chặt chẽ giữa đào tạo và nghiên cứu, giữa các cơ sở đào tạo với các cơ sở sản xuất, kinh doanh. Ưu tiên đầu tư phát triển khoa học cơ bản, khoa học mũi nhọn, phòng thí nghiệm trọng điểm, phòng thí nghiệm chuyên ngành, trung tâm công nghệ cao, cơ sở sản xuất thử nghiệm hiện đại trong một số cơ sở giáo dục đại học. Có chính sách khuyến khích học sinh, sinh viên nghiên cứu khoa học.

Khuyến khích thành lập viện, trung tâm nghiên cứu và chuyển giao công nghệ, doanh nghiệp khoa học và công nghệ, hỗ trợ đăng ký và khai thác sáng chế, phát minh trong các cơ sở đào tạo. Hoàn thiện cơ chế đặt hàng và giao kinh phí sự nghiệp khoa học và công nghệ cho các cơ sở giáo dục đại học. Nghiên cứu sáp nhập một số tổ chức nghiên cứu khoa học và triển khai công nghệ với các trường đại học công lập.

Ưu tiên nguồn lực, tập trung đầu tư và có cơ chế đặc biệt để phát triển một số trường đại học nghiên cứu đa ngành, đa lĩnh vực sớm đạt trình độ khu vực và quốc tế, đủ năng lực hợp tác và cạnh tranh với các cơ sở đào tạo và nghiên cứu hàng đầu thế giới.

9/ Chủ động hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế trong giáo dục, đào tạo

Chủ động hội nhập quốc tế về giáo dục, đào tạo trên cơ sở giữ vững độc lập, tự chủ, bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hóa và thành tựu khoa học, công nghệ của nhân loại. Hoàn thiện cơ chế hợp tác song phương và đa phương, thực hiện các cam kết quốc tế về giáo dục, đào tạo.

Tăng quy mô đào tạo ở nước ngoài bằng ngân sách nhà nước đối với giảng viên các ngành khoa học cơ bản và khoa học mũi nhọn, đặc thù. Khuyến khích việc học tập và nghiên cứu ở nước ngoài bằng các nguồn kinh phí ngoài ngân sách nhà nước. Mở rộng liên kết đào tạo với những cơ sở đào tạo nước ngoài có uy tín, chủ yếu trong giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp; đồng thời quản lý chặt chẽ chất lượng đào tạo. Có cơ chế khuyến khích các tổ chức quốc tế, cá nhân nước ngoài, người Việt Nam ở nước ngoài tham gia hoạt động đào tạo, nghiên cứu, ứng dụng, chuyển giao khoa học và công nghệ ở Việt Nam. Tăng cường giao lưu văn hóa và học thuật quốc tế.

Có chính sách hỗ trợ, quản lý việc học tập và rèn luyện của học sinh, sinh viên Việt Nam đang học ở nước ngoài và tại các cơ sở giáo dục, đào tạo có yếu tố nước ngoài tại Việt Nam.

Liên hệ thực tế tại đơn vị:

Là một viên chức, tôi ý thức và quan tâm đến từng vấn đề mà Nghị quyết số 29-NQ/TW đã đề ra. Nhằm mục đích tuyên truyền sâu rộng trong quần chúng nhân dân, trong học sinh những vấn đề cấp thiết mà nghị quyết đã nêu. Tuy vậy, với nhiệm vụ thực tại của bản thân cũng như tình hình địa phương và nhà trường, theo tôi, chúng ta cần tiếp tục thực hiện hơn nữa Nghị quyết số 29-NQ/TW về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đào tạo. Các cấp ủy Đảng đặc biệt là những tổ chức lãnh đạo của ngành giáo dục cần sơ kết để kịp thời đánh giá thống nhất, rút kinh nghiệm và có những nhận định, tạo sự đồng thuận cao, làm cơ sở cho việc tiếp tục lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt hơn nữa Nghị quyết này. Đồng thời các tổ chức Đảng và đội ngũ cán bộ, đảng viên và những người làm công tác giáo dục nhận thức đầy đủ, sâu sắc hơn về tầm quan trọng của việc đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục đào tạo. Từ đó, xác định rõ hơn trách nhiệm của mình đối với vận mệnh của Đảng, của dân tộc ta trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

2. Bài thu hoạch chính trị hè dành cho giáo viên 2024

2.1 Bài thu hoạch chính trị hè dành cho giáo viên 2024 Mẫu 1

BÀI THU HOẠCH

HỘI NGHỊ BỒI DƯỠNG CHÍNH TRỊ HÈ

- Họ và tên : ………………………………………………………..…………………

- Ngày tháng năm sinh: ……………………………………………………………...

- Nơi công tác: Trường Tiểu học .........................................................................

- Chức vụ: …………………………………………………………………..…………

1/ Đồng chí hãy nêu những nội dung cốt lõi, điểm mới trong các văn kiện HN lần thứ sáu; kết quả HN lần thứ bảy (HN giữa nhiệm kỳ) của BCH Trung ương Đảng khóa XIII? Liên hệ trách nhiệm của cá nhân đồng chí trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương?

BÀI LÀM

Câu 1: Những nội dung cốt lõi, điểm mới trong các văn kiện HN lần thứ sáu; kết quả HN lần thứ bảy (HN giữa nhiệm kỳ) của BCH Trung ương Đảng khóa XIII đó là:

Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới

Thực trạng xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam cho đến hiện nay được Đảng ta đánh giá: “Công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam vẫn còn những hạn chế, bất cập, có mặt chưa đáp ứng yêu cầu phát triển, quản lý và bảo vệ đất nước trong tình hình mới”[1]. Nhưng nhìn chung đã đạt được những thành tựu rất quan trọng như: “Nhận thức, lý luận về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam ngày càng thống nhất, đầy đủ, sâu sắc hơn. Hệ thống pháp luật đã được hoàn thiện một bước cơ bản...; Cơ chế phân công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp ngày càng rõ hơn và có chuyển biến tích cực...; Quyền con người, quyền công dân theo Hiến định tiếp tục được cụ thể hóa bằng pháp luật và thực hiện tốt hơn trên thực tế...”[2].

Tại Hội nghị, Đảng ta tiếp tục khẳng định quan điểm trong xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay: “Kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội;... Thực hiện nhất quán nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân...; Bảo đảm thượng tôn Hiến pháp và pháp luật...; Bám sát thực tiễn đất nước và xu thế phát triển của thời đại, kế thừa những thành tự đã đạt được, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế phù hợp với Việt nam...; Bảo đảm tổng thể, đồng bộ, liên thông giữa đổi mới lập pháp, cải cách hành chính, cải cách tư pháp...”[3].

Đề ra các mục tiêu tổng quát và mục tiêu cụ thể đến năm 2030, trong đó, nhấn mạnh 03 trọng tâm là “hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ chế tổ chức thực hiện pháp luật...; hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước, đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực...; đẩy mạnh cải cách tư pháp...”[4].

Thông qua 10 nhiệm vụ và giải pháp cụ thể sau: Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến, giáo dục, nâng cao nhận thức về Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân, thượng tôn Hiến pháp và pháp luật, tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân; Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ chế tổ chức thực hiện pháp luật nghiêm minh, hiệu quả, bảo đảm yêu cầu phát triển đất nước nhanh và bền vững; Tiếp tục đổi mới tổ chức và nâng cao chất lượng hoạt động của Quốc Hội; Tiếp tục thực hiện tốt thiết chế Chủ tịch nước theo Hiến pháp; Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ, chính quyền địa phương, xây dựng nền hành chính nhà nước phục vụ Nhân dân chuyên nghiệp, pháp quyền, hiện đại, hiệu lực, hiệu quả; Xây dựng nền tư pháp chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân; Hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước, đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; Tăng cường, chủ động hội nhập quốc tế đáp ứng yêu cầu xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt nam, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Nhân dân trong xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

2. Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với hệ thống chính trị trong giai đoạn mới

Đảng ta tiếp tục kiên định với quan điểm “vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; thực hiện nghiêm các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng, đặc biệt là nguyên tắc tập trung dân chủ;... Phải chủ động, tích cực, có quyết tâm chính trị cao, đồng thời cần thận trọng, có bước đi vững chắc... kế thừa, phát huy những thành tựu, kết quả, kinh nghiệm tốt trong phương thức lãnh đạo của Đảng đã được thực tiễn chứng minh là đúng... Phải có quyết tâm cao, nỗ lực lớn trong tổ chức thực hiện, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, sâu sắc về đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong điều kiện mới, triển khai thực hiện đồng bộ các phương thức lãnh đạo của Đảng...”[5]. Nhằm hướng tới mục tiêu “Tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, thực chất trong đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị, bảo đảm hiệu quả, thiết thực, sát thực tiễn, đáp ứng yêu cầu lãnh đạo toàn diện của Đảng trong giai đoạn mới... Nâng cao năng lực tổ chức thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, nhất là thể chế hóa, cụ thể hóa thành luật và các văn bản dưới luật... Đề cao trách nhiệm của tập thể, phát huy vai trò tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên, người đứng đầu trong thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, gắn với kiểm soát quyền lực chặt chẽ. Xây dựng phương pháp, công tác, lề lối làm việc của các cấp ủy, tổ chức đảng thực sự khoa học, dân chủ, sát với thực tiễn; bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng thông suốt từ Trung ương đến cơ sở”[6].

Để thực hiện các mục tiêu trên, Hội nghị đã nêu ra 6 nhiệm vụ, giải pháp cụ thể cần triển khai sau: Đổi mới, nâng cao chất lượng ban hành và tổ chức thực hiện đạt hiệu quả cao chủ trương, đường lối của Đảng; Đổi mới, nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền, vận động; Đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tổ chức, cán bộ; Đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát; Phát huy vai trò nêu gương của cán bộ, đảng viên; Đẩy mạnh cải cách hành chính, đổi mới phong cách lãnh đạo, phương pháp công tác của Đảng từ Trung ương tới cơ sở.

3. Tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là chủ trương xuyên suốt và nhất quán của Đảng, Nhà nước ta trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Sau 36 năm đổi mới, tuy quá trình này còn một số hạn chế nhất định nhưng nhìn chung việc thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, nhất là trong 10 năm 2011 – 2020: “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở mức cao, đạt bình quân 6,17%/năm, chất lượng tăng trưởng được cải thiện, quy mô nền kinh tế tăng nhanh, cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động chuyển dịch tích cực với tỷ trọng đóng góp vào GDP của công nghiệp và dịch vụ đạt 72,7% vào năm 2020, đưa nước ta trở thành nước đang phát triển có mức thu nhập trung bình; ...Đã hình thành được một số ngành công nghiệp có quy mô lớn, có khả năng cạnh tranh và vị trí vững chắc trên thị trường quốc tế; ...đã góp phần thúc đẩy ngành nông nghiệp tăng trưởng ổn định và bền vững, từng bước được cơ cấu lại theo hướng hiện đại; Đóng góp của ngành dịch vụ vào tăng trưởng kinh tế ngày càng tăng; đã hình thành được một số ngành dịch vụ có hàm lượng khoa học - công nghệ cao...”[7]. Do đó trong thời gian tới Đảng ta xác định công nghiệp hóa, hiện đại hóa “là nhiệm vụ trung tâm của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng, phát triển nhanh và bền vững, trở thành nước phát triển, có thu nhập cao theo định hướng xã hội chủ nghĩa”, “là sự nghiệp của toàn dân và của cả hệ thống chính trị”[8],...

Từ đó, đề ra các mục tiêu tổng quát, mục tiêu cụ thể đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045 “Việt Nam trở thành nước phát triển, thu nhập cao, thuộc nhóm các nước công nghiệp phát triển hàng đầu khu vực châu Á”[9]. Thông qua việc thực hiện 10 nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu sau: Đổi mới tư duy, nhận thức và hành động quyết liệt, tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; Xây dựng và hoàn thiện thể chế, chính sách thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; Xây dựng nền công nghiệp quốc gia vững mạnh, tự lực, tự cường; nâng cao năng lực ngành xây dựng; Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn; tiếp tục cơ cấu lại ngành dịch vụ dựa trên nền tảng khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo; Phát triển khoa học – công nghệ, đổi mới sáng tạo và nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa; Phát triển kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại, thúc đẩy đô thị hóa nhanh và bền vững, gắn kết chặt chẽ và tạo động lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; Phát triển các thành phần kinh tế nhằm thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa; Đổi mới chính sách tài chính, tín dụng thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hiện đại hóa đất nước nhanh, bền vững; Quản lý, sử dụng hiệu quả, tiết kiệm tài nguyên, bảo vệ môi trường, chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu; tăng cường hội nhập quốc tế sâu rộng, hiệu quả đi đôi với bảo vệ và phát triển kinh tế thị trường trong nước; Phát huy giá trị văn hóa, bản lĩnh, trí tuệ con người Việt Nam, xây dựng giai cấp công nhân hiện đại, lớn mạnh; đội ngũ trí thức và doanh nhân xung kích, đi đầu trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; bảo đảm tốt an sinh xã hội.

4. Định hướng Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050
Đây là lần đầu tiên Đảng ta định hướng Quy hoạch tổng thể quốc gia, trong đó đã xác định rõ những nguyên tắc, quan điểm định hướng quy hoạch cụ thể của đất nước trong thời gian tới. Đảng nhấn mạnh những điểm quan trọng sau:

Thứ nhất, không gian phát triển quốc gia phải được tổ chức một cách hiệu quả, thống nhất trên quy mô toàn quốc, đảm bảo liên kết vùng, nội vùng, nhằm khai thác lợi thế so sánh của từng vùng, nhằm huy động và sử dụng hiệu quả các nguồn lực, nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của quốc gia. Phát triển có trọng tâm, trọng điểm, tập trung vào một số địa bàn có điều kiện thuận lợi và tiềm năng, lợi thế để phát triển thành những vùng động lực, thành những hành lang kinh tế, thành những cực tăng trưởng để tạo hiệu ứng lan tỏa, thúc đẩy kinh tế cả nước phát triển nhanh, bền vững, hiệu quả...
Thứ hai, Quy hoạch tổng thể quốc gia phải sử dụng một cách hiệu quả tài nguyên, đặc biệt là tài nguyên đất, tài nguyên nước nhằm đảm bảo an ninh năng lượng, an ninh lương thực, an ninh nguồn nước; phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn; bảo vệ môi trường, bảo về tài thiên nhiên, nâng cao chất lượng đa dạng sinh học để chủ động phòng, chống thiên tai và chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu.

Thứ ba, định hướng Quy hoạch tổng thể quốc gia của Trung ương nhấn mạnh phải cân đối, hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa – xã hội, bảo đảm quốc phòng – an ninh; tổ chức không gian phát triển quốc gia, từng vùng lãnh thổ, từng hành lang kinh tế và hệ thống đô thị phải gắn với phát triển hệ thống kết cấu hạ hầng đồng bộ, hiện đại; phát triển một cách hài hòa giữa đô thị với nông thôn... Nhất là gắn phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội với bảo vệ chủ quyền, quyền chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và củng cố, tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh của quốc gia.
Thứ tư, Quy hoạch tổng thể quốc gia cần tập trung ưu tiên hình thành cơ bản bộ khung kết cấu hạ tầng quốc gia; đẩy mạnh cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng dựa trên cơ sở tăng suất, ứng dụng tiến bộ khoa học – công nghệ và đổi mới sáng tạo; ưu tiên phát triển một số ngành, lĩnh vực có tiềm năng, lợi thế và còn dư địa lớn, gắn với không gian phát triển mới; hình thành và phát triển các vùng động lực, các hành lang kinh tế; kết nối hiệu quả các đầu mối giao thương, đô thị, trung tâm kinh tế...

· Liên hệ trách nhiệm của cá nhân đồng chí trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương? Nêu cao tinh thần, trách nhiệm của cán bộ, đảng viên trong tình hình hiện nay

- Kiên định lập trường giai cấp, bản lĩnh chính trị và đề cao tinh thần, trách nhiệm đối với công việc. phải có phẩm chất đạo đức, phương pháp làm việc khoa học.

-Tích cực học tập nâng cao trình độ, kiến thức, năng lực toàn diện đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. phải chủ động, sáng tạo, hết lòng, hết sức hoàn thành công việc, nhiệm vụ được giao.

- Có tinh thần và trách nhiệm cao đối với tự phê bình và phê bình; phát huy ưu điểm, sửa chữa, khắc phục hạn chế, khuyết điểm.

- Có tinh thần cầu thị, có chí tiến thủ, khiêm tốn, không kiêu ngạo.

- Có tinh thần, trách nhiệm và tâm huyết phục vụ nhân dân.

- Tăng cường và thực hiện tốt vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu cấp ủy, chính quyền các cấp là một nội dung quan trọng, góp phần xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh. Trong giai đoạn cách mạng mới, người đứng đầu cấp ủy, chính quyền các cấp càng cần phải nêu gương, đi đầu thực hiện các nhiệm vụ chính trị, góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng.

2.2 Bài thu hoạch chính trị hè dành cho giáo viên 2024 Mẫu 2

Câu 1: Qua nghiên cứu chuyên đề “ Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về phát huy văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam gắn với khát vọng xây dựng tỉnh Khánh Hòa trở thành thành phố trực thuộc Trung ương vào năm 2030”, anh chị sẽ làm gì để bồi đắp ý chí tự lực, tự cường, thắp lên ngọn lửa khát vọng của bản thân và học sinh, góp phần thực hiện hóa mục tiêu của tỉnh?

Bài làm

Học tập, làm theo và nêu gương Chủ tịch Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc, Nhà văn hóa kiệt xuất, không chỉ kết tinh những thành tựu của quá khứ, không chỉ thể hiện đỉnh cao của trí tuệ và tâm hồn thời đại mà còn là những phẩm chất tiêu biểu cho nền văn hóa tương lai. Học tập Bác: Đảng bộ, chính quyền và nhân dân Khánh Hòa luôn xác định văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, văn hóa là mục tiêu, động lực và hệ điều tiết của sự phát triển; chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa đều phải được coi là quan trọng như nhau; mỗi cán bộ, đảng viên và nhân dân tiếp tục phát huy truyền thống yêu nước, suốt đời phấn đấu hy sinh cho mục tiêu lý tưởng của Đảng, lấy ấm no, hạnh phúc của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu; luôn thương yêu, quý trọng con người; việc gì có lợi cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh. Thực hành văn hóa nêu gương trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân, giúp dân, có trách nhiệm với dân; phát huy vai trò, sức mạnh của dân trong xây dựng văn hóa mới, con người mới.

Quan tâm giữ gìn, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của dân tộc đi đôi với tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa văn hóa của nhân loại. Không ngừng nỗ lực học tập, rèn luyện cả về chuyên môn và phẩm chất đạo đức và lối sống văn hóa để làm giàu trí tuệ, phẩm chất của mình hướng đến các giá trị “chân, thiện, mỹ”. Phải kiến tạo môi trường và điều kiện cần thiết, thuận lợi để văn hóa thật sự thấm sâu trong tâm lý quốc dân, vào toàn bộ đời sống và hoạt động xã hội, vào từng người, từng gia đình, từng tập thể và cộng đồng, từng địa bàn dân cư, vào mọi lĩnh vực sinh hoạt và quan hệ con người; xây dựng, kiến tạo đời sống tinh thần phong phú, cao đẹp. Các cấp ủy đảng, chính quyền phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế, văn hóa nhằm không ngừng nâng cao đời sống vật chất, văn hóa, tinh thần của nhân dân.

Phát triển con người toàn diện và xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh để văn hóa thực sự soi đường, trở thành sức mạnh nội sinh, động lực cho sự phát triển nhanh và bền vững. Chú trọng xây dựng Đảng và hệ thống chính trị về văn hóa, đạo đức; kiên quyết đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, để Đảng ta và hệ thống chính trị thật sự là đạo đức, là văn minh, tiêu biểu cho lương tri và phẩm giá con người Việt Nam. Chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức có phẩm chất đạo đức, tận tụy, hết lòng phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, gắn bó máu thịt với nhân dân.

Nêu gương: Chiều sâu của các giá trị văn hóa chính là sức cảm hóa, sức thuyết phục từ trái tim đến trái tim, bằng những lời nói, hành động tác phong giản dị, hàm súc, có sức lan tỏa mạnh mẽ; theo gương Bác, mỗi cán bộ, đảng viên phải có tư cách chuẩn mực, thật sự là tấm gương tiêu biểu trên các phương diện tự mình phải: Cần kiệm. Hòa mà không tư. Cả quyết sửa lỗi mình. Cẩn thận mà không nhút nhát. Hay hỏi. Nhẫn nại (chịu khó). Không hiếu danh, không kiêu ngạo. Nói thì phải làm; làm việc phải: Xem xét hoàn cảnh kỹ càng. Quyết đoán. Dũng cảm. Phục tùng đoàn thể. Trong cách ứng xử với nhân dân phải có thái độ ân cần, niềm nở, vừa thân ái vừa nhiệt tình, thể hiện tấm lòng độ lượng, khoan dung. Đề cao vai trò, trách nhiệm nêu gương của người đứng đầu trong thực hiện văn hóa công vụ. Lấy gương người tốt, việc tốt hằng ngày để giáo dục lẫn nhau để xây dựng Đảng, xây dựng các tổ chức cách mạng, xây dựng con người mới, văn hóa mới. Người có chức vụ càng cao, cương vị càng lớn càng phải gương mẫu trong tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống, phong cách, tác phong, lề lối công tác để cán bộ, đảng viên và nhân dân noi theo; phải thể hiện được tư tưởng vững vàng, quan điểm đúng đắn, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, hết lòng vì nước, vì dân; có phong cách lãnh đạo khoa học, dân chủ, sâu sát thực tiễn, thật sự là hạt nhân đoàn kết, quy tụ, tạo động lực và phát huy trí tuệ tập thể. Việc nêu gương của cán bộ, đảng viên phải theo phương châm“trên trước, dưới sau”,“trong trước, ngoài sau”,“học đi đôi với làm theo”; cấp ủy viên nêu gương cho đảng viên, đảng viên nêu gương cho quần chúng; cán bộ cấp trên nêu gương cho cán bộ cấp dưới; thủ trưởng cơ quan, đơn vị nêu gương cho công chức, viên chức và người lao động. Từ việc nêu gương của mỗi cán bộ, đảng viên hướng tới việc xây dựng tập thể nêu gương, đơn vị nêu gươngđể từng bước lan tỏa giá trị của người cán bộ, đảng viên và của tổ chức đến nhân dân.

Đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò của phát triển văn hóa, xây dựng con người trong đổi mới và phát triển bền vững. Các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, hệ thống chính trị và toàn xã hội xác định nhiệm vụ phát triển văn hóa và xây dựng con người là một nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt. Trong nhận thức và hành động phải luôn xác định văn hóa là hồn cốt của dân tộc, là nền tảng tinh thần của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển nhanh và bền vững. Chấn chỉnh, khắc phục thái độ xem nhẹ việc xây dựng và đấu tranh trên lĩnh vực văn hóa. Gắn các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển văn hóa và xây dựng con người với các mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của các cơ quan, đơn vị, các ngành, các cấp. Tuyên truyền, giáo dục trong đảng viên và nhân dân nhận thức, vận dụng đúng đắn, sáng tạo quan điểm xây dựng và phát triển văn hóa, con người trước yêu cầu mới.

Coi trọng công tác kiểm tra, giám sát, khen thưởng, xử lý các hoạt động lãnh đạo, quản lý văn hóa, nhất là việc thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ về phát triển văn hóa, xây dựng con người.

Đổi mới phương thức lãnh đạo theo hướng vừa đảm bảo cho văn hóa, văn nghệ, văn học, nghệ thuật, báo chí phát triển đúng định hướng chính trị, tư tưởng của Đảng, vừa đảm bảo quyền tự do, dân chủ cá nhân trong sáng tạo văn hóa, nghệ thuật, khoa học công nghệ trên cơ sở phát huy tính tự giác cao với mục đích đúng đắn. Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, cơ quan thông tin đại chúng, mạng xã hội, Internet… trong việc tuyên truyền, phổ biến về lịch sử - văn hóa nhằm nâng cao kiến thức cho đoàn viên, hội viên và nhân dân. Phát huy vai trò chủ thể của nhân dân trong xây dựng và hưởng thụ đời sống văn hóa. Nâng cao kiến thức, ý thức bảo vệ, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa, di sản văn hóa, di tích lịch sử trên địa bàn.

Xây dựng văn hóa trong Đảng và hệ thống chính trị phải được thực hiện trước hết trong các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể, trong cán bộ, công chức, viên chức, người lao động Nhà nước để tạo động lực, niềm tin và lan tỏa mạnh mẽ trong nhân dân.

Thứ nhất, tăng cường sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng; gương mẫu triển khai, thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, tạo sự thống nhất cao về chính trị, tư tưởng, nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ. Bảo đảm thực hiện nghiêm túc các nguyên tắc tổ chức, hoạt động của Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, thiểu số phục tùng đa số, cá nhân phục tùng tổ chức, cấp dưới phục tùng cấp trên. Tăng cường đoàn kết, nhất trí trong Đảng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân trên cơ sở mục tiêu giữ vững độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc gắn với việc đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.

Thứ hai, thường xuyên thực hành văn hóa tự phê bình và phê bình; mỗi cấp ủy, cán bộ, đảng viên cần nâng cao nhận thức, trách nhiệm trong thực hiện đồng bộ, quyết liệt các giải pháp văn hóa tự phê bình và phê bình, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý, người đứng đầu phải gương mẫu tự soi, tự sửa, giúp đồng chí và quần chúng tự soi, tự sửa. Phát huy vai trò tiên phong, gương mẫu trên tinh thần tiến hành từ trên xuống dưới, từ trong ra ngoài, từ cấp ủy, người đứng đầu đến cán bộ, đảng viên. Duy trì và thực hiện nghiêm túc, thường xuyên, hiệu quả các nguyên tắc xây dựng Đảng, Điều lệ Đảng; kết hợp chặt chẽ giữa công tác tư tưởng với công tác tổ chức; phát huy dân chủ; đề cao

tính tự giác, trách nhiệm, thái độ và phương pháp tự phê bình và phê bình đúng đắn, phù hợp, bảo đảm tính văn hóa, tính khoa học, tính nhân văn của mỗi cán bộ, đảng viên. Phát huy vai trò của các tổ chức quần chúng, nhất là nhân dân tại mỗi địa phương, cơ quan, đơn vị trong giám sát, phê bình tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên với các hình thức phù hợp.

Thứ ba, tăng cường rèn luyện đạo đức cách mạng cho cán bộ, đảng viên. Mỗi cán bộ, đảng viên phải thấm nhuần, tự soi, tự đối chiếu, tự sửa chữa và làm theo, gắn chặt với phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống và những biểu hiện “tự diễn biến”,“tự chuyển hóa” trong nội bộ. Kiên quyết đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, chủ nghĩa cá nhân, lối sống cơ hội, thực dụng, bè phái,“lợi ích nhóm” và tình trạng nói không đi đôi với làm, nói nhiều làm ít. Phát huy vai trò tiên phong, gương mẫu của đội ngũ cán bộ chủ chốt, người đứng đầu các cơ quan, đơn vị trong thực hiện tốt các quy định liên quan đến văn hóa công vụ, đạo đức, lối sống; ra sức rèn luyện đạo đức cách mạng cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, hết lòng phụng sự Tổ quốc, phụng sự nhân dân. Đánh giá, sử dụng đúng cán bộ, kiên quyết xử lý nghiêm cán bộ vi phạm về phẩm chất đạo đức, lối sống.

Thứ tư, coi trọng văn hóa nêu gương, văn hóa trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân

Trọng tâm xây dựng và phát triển văn hóa là xây dựng con người có nhân cách văn hóa và xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh; chú trọng mối quan giữa văn hóa và chính trị, văn hóa và kinh tế; xây dựng văn hóa trong Đảng và hệ thống chính trị; xây dựng văn hóa công chức, văn hóa công vụ, đặc biệt là đạo đức công vụ, chú trọng sự nêu gương của cán bộ, đảng viên. Xây dựng, phát triển, tạo môi trường và điều kiện xã hội thuận lợi nhất để khơi dậy truyền thống yêu nước, lòng tự hào dân tộc, niềm tin, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.

Coi trọng phát triển toàn diện, đồng bộ các lĩnh vực văn hóa, đời sống văn hóa phong phú, đa dạng, văn minh, lành mạnh, tạo điều kiện thuận lợi để các giá trị văn hóa, chuẩn mực con người Khánh Hòa không ngừng được bổ sung, phát triển, thực sự là nền tảng tinh thần, nguồn lực nội sinh và động lực đột phá cho phát triển nhanh và bền vững của tỉnh. Mỗi cộng đồng dân cư, cơ quan, đơn vị, tổ chức phải là một môi trường văn hóa lành mạnh, góp phần giáo dục, rèn luyện con người về nhân cách, lối sống. Gắn kết xây dựng môi trường văn hóa với bảo vệ môi trường sinh thái. Xây dựng gia đình thực sự là nơi hình thành, nuôi dưỡng nhân cách văn hóa và giáo dục nếp sống cho con người. Phát huy giá trị truyền thống tốt đẹp, xây dựng gia đình ấm no, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc. Xây dựng và nhân rộng các mô hình gia đình văn hóa tiêu biểu, có nền nếp, ông bà, cha mẹ mẫu mực, con cháu hiếu thảo, vợ chồng hòa thuận, anh chị em đoàn kết, thương yêu nhau.

Xây dựng mỗi trường học phải thực sự là một trung tâm văn hóa giáo dục, rèn luyện con người về lý tưởng, phẩm chất, nhân cách, lối sống; giáo dục truyền thống văn hóa cho thế hệ trẻ. Xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư, các cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp đoàn kết, dân chủ, văn minh, đạt chuẩn về văn hóa; thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở; xây dựng nếp sống văn hóa, văn minh, nhất là trong việc cưới, việc tang và lễ hội. Nâng cao chất lượng, hiệu quả phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”; lồng ghép, gắn kết các hoạt động văn hóa với phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, chương trình xây dựng nông thôn mới. Từng bước thu hẹp khoảng cách hưởng thụ văn hóa giữa các địa phương, các tầng lớp nhân dân, giữa thành thị và nông thôn, vùng biên giới, vùng đặc biệt khó khăn.

Phát huy các giá trị, nhân tố tích cực trong văn hóa tôn giáo, tín ngưỡng; khuyến khích các hoạt động tôn giáo gắn bó với dân tộc, hướng thiện, nhân đạo, nhân văn, tiến bộ,“tốt đời, đẹp đạo”. Khuyến khích các hoạt động “đền ơn đáp nghĩa”,“uống nước nhớ nguồn”, từ thiện, nhân đạo. Phê phán và ngăn chặn các biểu hiện tiêu cực, mê tín, dị đoan. Tiếp tục nâng cao hình ảnh và con người Khánh Hòa, đẩy mạnh việc giới thiệu, phát huy các giá trị, bản sắc văn hóa đặc trưng của tỉnh. Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, nâng cao các giá trị đạo đức xã hội, trước hết là đối với các xã nông thôn mới, các xã, phường, thị trấn văn hóa. Khơi dậy truyền thống văn hóa của con người Khánh Hòa: Năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì mục tiêu phát triển của tỉnh và chung sức thực hiện các chính sách an sinh xã hội vì cộng đồng. Xây dựng và thực hiện các chuẩn mực văn hóa trong lãnh đạo, quản lý; chú trọng xây dựng môi trường văn hóa công sở lành mạnh, dân chủ, đoàn kết, nhân văn; ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm bệnh quan liêu, bè phái, mất đoàn kết, chủ nghĩa cơ hội và thực dụng. Xây dựng văn hóa doanh nghiệp, doanh nhân và kinh doanh. Coi trọng xây dựng và lan tỏa các giá trị văn hóa cả trong chính trị và kinh tế, nhất là trong các cơ quan, đơn vị, cộng đồng dân cư để văn hóa thực sự thấm sâu, tạo động lực thúc đẩy kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội phát triển bền vững. Chú trọng xây dựng văn hóa ứng xử lành mạnh trong xã hội, phát huy những giá trị tích cực về thuần phong, mỹ tục của gia đình và xã hội; nêu cao tinh thần tương thân, tương ái, đoàn kết; trọng tình nghĩa, trọng công lý và đạo đức xã hội. Bảo vệ và phát huy các giá trị tốt đẹp, bền vững của truyền thống văn hóa địa phương.

Quán triệt sâu sắc quan điểm của Đảng về xây dựng văn hóa, con người đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, xây dựng hình ảnh con người Khánh Hòa với các phẩm chất tốt đẹp đó là: Cần kiệm, trung thực, mến khách, nhân nghĩa, tôn trọng kỷ cương pháp luật; có tư tưởng, tình cảm, đạo đức, lối sống lành mạnh, phong phú; có trí tuệ, bản lĩnh và tinh thần trách nhiệm cao với bản thân, gia đình, cộng đồng, xã hội; có tinh thần yêu nước, tự cường dân tộc, có ý thức đoàn kết phấn đấu vì lợi ích chung; có tầm vóc, thể lực tốt đáp ứng được yêu cầu của thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế; hiểu biết sâu sắc và tự hào về truyền thống văn hóa của các dân tộc trong tỉnh.

Chú trọng giữ gìn, phát huy những giá trị văn hóa truyền thống, những phong tục, tập quán tốt đẹp của các dân tộc. Phát động các phong trào thi đua xây dựng con người Khánh Hòa phát triển toàn diện cả về thể chất và tinh thần gắn với các nhiệm vụ, giải pháp cụ thể và phong trào thi đua tạo môi trường văn hóa, động lực tinh thần để mỗi người dân phấn đấu hoàn thiện, phát triển bản thân theo các chuẩn mực đã đề ra.

Câu 2: Qua nghiên cứu những nội dung cốt lỗi trong cuốn sách của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng “ Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiểu cực, góp phần xây dựng Đảng ta ngày càng trong sạch, vững mạnh”, anh chị nghĩ thế nào về vấn đề tham nhũng, tiêu cực trong giáo dục? Đề xuất các giải pháp để phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong giáo dục.

Bài làm

Tác phẩm “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, góp phần xây dựng Đảng và Nhà nước ta ngày càng trong sạch, vững mạnh” của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là cuốn cẩm nang về công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, có giá trị lý luận và thực tiễn quan trọng đối với công tác xây dựng Đảng, hệ thống chính trị và sự nghiệp cách mạng của nước ta hiện nay với những giá trị cụ thể.

Tác phẩm là cẩm nang trong công tác phòng chống tham nhũng, tiêu cực, vấn đề rất cốt lỗi để xây dựng Đảng và Nhà nước ta ngày càng trong sạch, vững mạnh, thể hiện nhuần nhuyễn phương châm: kết hợp đồng bộ giữa xây và chống; giữa đẩy lùi và ngăn chặn từ sớm, từ xa; giữa xử lý nghiêm minh và phòng ngừa, giáo dục; giữa xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị và tư tưởng, tổ chức và cán bộ gắn liền với suy thoái vêv đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên; giữa quyết tâm chính trị của người đứng đầu Đảng, của toàn Đảng và cả hệ thống chính trị với sự đồng thuận, ủng hộ của nhân dân, bạn bè quốc tế

Tác phẩm có ý nghĩa về lý luận và thực tiễn, là sự tổng kết thực tiễn phong phú rút ra những vấn đề có tính lý luận và các bài học kinh nghiệm quý để củng cố thêm bản lĩnh, sức mạnh và niềm tin; định hướng giải quyết thực hiện có hiệu quả công tác đấu tranh, phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong thời gian tới.

Tác phẩm khẳng định thành tựu và ý nghĩa to lớn của công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong những năm qua với vai trò của Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng tiêu cực dưới sự lãnh đạo , chỉ đạo trực tiếp của đồng chí Tổng Bí thư, Trưởng Ban Chỉ Đạo, đã có nhiều cách làm hay, sáng tạo, khoa hoạc, bài bản, chắc chắn, hiệu quả. Nhiều tư tưởng quan điểm, phương châm chỉ đạo, nguyên tắc hành động, giải pháp cơ bản đề phòng, chống tham nhũng, tiêu cực do đồng chí Tổng Bí thư khởi xướng, chỉ đạo đã phát huy hiệu quả, được khẳng định qua thực tiễn, đã đúc kết, rút ra những bài học kinh nghiệm quý, có giá trị cả về lý luận và thực tiễn, trong đó, nhiều nội dung đã được cụ thể hóa, thể chế hóa thành các quy định của Đảng, pháp luật của nhà nước.

Tác phẩm cho thấy sự nhất quán giữa nói và làm; sự kiên trì đấu tranh không ngừng nghỉ; sự thống nhất giữa những nung nấu nhiều năm và hành động quyết liệt trong đấu tranh với tham nhũng, tiêu cực của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng để xây dựng, chỉnh đồn Đảng ta ngày càng trong sạch, vững mạnh; cho thấy tầm nhìn sự nhất quán cùng những trăn trở, suy nghĩ của đồng chí Tổng Bí thư để có các biện pháp, giải pháp đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực có hiệu quả.

Tác phẩm khẳng định niềm tin, sự đồng tình, ủng hộ, cổ vũ của các tầng lớp nhân dân, đại biểu Quốc hội, chính khách, học giả nước ngoài với quyết tâm của Đảng và những chỉ đạo hiệu quả của đồng chí Tổng Bí thư trong công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ở Việt Nam.

Qua nghiên cứu những nội dung cốt lỗi trong cuốn sách của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng “ Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiểu cực, góp phần xây dựng Đảng ta ngày càng trong sạch, vững mạnh”, những vấn đề tham nhũng, tiêu cực trong giáo dục như tham nhũng trong việc xây dựng trường lớp, cung cấp trang thiết bị giảng dạy và in ấn sách giáo khoa, hối lộ của các trường và giáo viên để nhận được các hình thức khen thưởng và danh hiệu “ảo”, Hiệu trưởng nhận phụ cấp mà không hề lên lớp, phụ huynh và học sinh hối lộ để nhận được điểm tốt và được tuyển sinh vào các trường, lớp theo nguyện vọng, ép buộc học sinh phải đi học thêm bằng cách “trù dập” những học sinh không đi học, thu những khoản lệ phí không chính thức..... và điều đặc biệt ở chỗ có đến 78% phụ huynh có con học trái tuyến hài lòng về các khoản phí và phụ huynh có con học đúng tuyến là 79%. Hơn nữa, có đến 49% phụ huynh có con học trái tuyến và 57% phụ huynh có con học đúng tuyến cho rằng việc thu các khoản ngoài quy định tạo cơ hội cho các gia đình đóng góp thêm cho các nhà trường để có điều kiện dạy và học tốt hơn.

Trong khi Thanh tra Chính phủ chỉ ra nạn “chạy trường, chạy lớp”, dạy thêm tràn lan, buộc học sinh đi học thêm... là các dạng “sai phạm” trong lĩnh vực giáo dục. Còn đứng từ góc độ nhà trường thì nhà trường đã “hợp thức hóa” các hoạt động ngoài quy định; sức ép của xã hội; sức ép từ văn hóa của nhà trường…Thiếu minh bạch trong giáo dục

Tuy nhiên, những tham nhũng ở giáo viên theo đánh giá chỉ là tham nhũng “vặt”, theo thói quen văn hóa có gốc rễ từ truyền thống. Điều này không đáng sợ bằng tham nhũng ở cấp quản lý. việc chạy trường, chạy lớp giáo viên chỉ được hưởng một phần nhỏ, các hiệu trưởng và cấp quản lý cao hơn mới được hưởng nhiều. Ngoài 3 hình thức tham nhũng trên (chiếm 49%) thì còn 3 hình thức tham nhũng khác được phản ánh nhiều là sách giáo khoa, đề bạt cán bộ và chạy điểm. có 3 nguyên nhân dẫn đến cảm giác bất an, trì trệ vẫn nặng nề trong giáo dục của Việt Nam. Đó là do sự thiếu ràng buộc và nếu có ràng buộc cũng là không tương xứng giữa quyền hạn quản lý, cấp phép và nghĩa vụ, trách nhiệm giải trình, xử lý vi phạm hay bất cập.

Thứ hai là sự thiếu chú trọng đến quản lý tài chính trong bộ máy quản lý cũng như trong toàn đội ngũ những người hoạt động giáo dục, kể cả giáo dục ngoài công lập.

Và nguyên nhân cuối cùng được là cơ bản nhất đó là quan hệ xin - cho và bản thân cơ chế quản lý tập trung quan liêu triệt tiêu trách nhiệm xã hội của các cơ sở giáo dục.

“Sự thiếu minh bạch mà ai cũng thấy và rất nhiều người là nạn nhân. Trước hết là thiếu minh bạch về học phí và chi phí khác cho học tập. Nhiều trường học Việt Nam nhất là trường công còn quá nhiều chi phí thiếu công khai, minh bạch mà phụ huynh phải chi cho giáo dục con em họ”.

Tham nhũng trong giáo dục sẽ để lại hậu quả rất nặng nề và lâu dài.

Để nâng cao hiệu quả công tác PCTNTC trong giáo dục, cần chú trọng triển khai thực hiện đồng bộ các giải pháp cụ thể như sau:

Thứ nhất, tiếp tục triển khai, thực hiện có hiệu quả Luật PCTN năm 2018; Nghị định số 59/2019/NĐ-CP ngày 01/7/2019 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật PCTN năm 2018; Nghị định số 130/2020/NĐ-CP ngày 30/10/2020 của Chính phủ về kiểm soát tài sản, thu nhập của người có chức vụ, quyền hạn trong cơ quan, tổ chức, đơn vị; Hướng dẫn số 25-HD/BCĐTW của Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTNTC và các văn bản chỉ đạo của Trung ương và địa phương về công tác PCTNTC.

Thứ hai, tập trung thanh tra, kiểm tra, giám sát đối với những lĩnh vực dễ phát sinh tham nhũng, tiêu cực, chuyên môn sâu, hoạt động có tính khép kín, bí mật và các vấn đề nổi cộm, bức xúc trong xã hội. Đôn đốc, kiểm tra, giám sát việc thực hiện kết luận, kiến nghị sau kiểm tra, thanh tra, kiểm toán. Tiếp tục thực hiện nghiêm chỉ đạo của Tổng Bí thư Trung ương đảng, Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về PCTNTC và Thường trực Ban Bí thư Trung ương Đảng, Phó Trưởng Ban Chỉ đạo về cơ chế phối hợp phát hiện, xử lý sai phạm trong quá trình kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án; công tác giám định, định giá tài sản.

Thứ ba, phát huy vai trò người đứng đầu, chịu trách nhiệm toàn diện trong việc quản lý, kiểm tra, giám sát, đôn đốc việc thực thi nhiệm vụ của công chức, viên chức và người lao động thuộc quyền quản lý; đặc biệt, tại các vị trí tiếp xúc, giải quyết công việc của người dân, doanh nghiệp; kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm hành vi nhũng nhiễu, gây phiền hà cho người dân và doanh nghiệp trong giải quyết công việc.

Đồng thời, chú trọng giải quyết các đơn thư khiếu nại, tố cáo của các tổ chức và công dân có liên quan đến công tác PCTNTC. Tiếp tục thực hiện có hiệu quả việc công khai, minh bạch trong hoạt động của các cơ quan quản lý nhà nước, nâng cao trách nhiệm giải trình; tăng cường kiểm tra việc thực hiện các quy định về chế độ, định mức, tiêu chuẩn; thực hiện nghiêm việc chuyển đổi vị trí công tác, quy tắc ứng xử, quy tắc đạo đức nghề nghiệp của cán bộ, công chức, viên chức và việc tặng quà, nộp lại quà tặng; thường xuyên rà soát xung đột lợi ích trong thực hiện nhiệm vụ.

Thứ tư, đẩy nhanh tiến độ xử lý dứt điểm các vụ án, vụ việc tham nhũng, kinh tế nghiêm trọng, phức tạp, dư luận xã hội quan tâm; xác minh, điều tra làm rõ hành vi tham nhũng, chiếm đoạt trong các vụ án, vụ việc có dấu hiệu tham nhũng, sai phạm về kinh tế; nâng cao hiệu quả công tác thu hồi tài sản tham nhũng, thiệt hại, thất thoát trong các vụ án về tham nhũng, kinh tế. Tăng cường sự phối hợp giữa các ngành, các cấp chính quyền với Mặt trận Tổ quốc trong việc thực hiện công tác tuyên truyền, giám sát thu thập thông tin phản ánh, tố cáo; phát hiện xử lý tham nhũng; nâng cao hiệu quả phòng ngừa tham nhũng ở các ngành, các cấp. Đẩy mạnh cải cách hành chính; thường xuyên rà soát, sửa đổi, bổ sung, thay thế và chuẩn hóa danh mục thủ tục hành chính cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã theo quy định. Đẩy mạnh thực hiện dịch vụ công trực tuyến; tăng cường trao đổi văn bản điện tử và ứng dụng công nghệ thông tin trong các cơ quan nhà nước.

Thứ năm, thường xuyên giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao nhận thức về lối sống, đạo đức cho cán bộ, công chức, viên chức; chú trọng giáo dục về bản lĩnh chính trị, kỷ luật, kỷ cương, đạo đức công vụ, ý thức tự phê bình và phê bình; tự giác trong rèn luyện cần, kiệm, liêm, chính giữ gìn phẩm chất, xây dựng đoàn kết nội bộ; Kết luận số 21-KL/TW ngày 25/10/2021 của Ban Chấp hành Trung ương về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “ tự diễn biến ”, “ tự chuyển hoá ”; Kết luận số 01-KL/TW ngày 18/5/2021 của Bộ Chính trị “về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”.

Thứ sáu, rà soát, khắc phục hoặc kiến nghị khắc phục những sơ hở, bất cập trong cơ chế, chính sách, pháp luật liên quan đến đấu giá, đấu thầu, quản lý, sử dụng đất đai, tài sản công, xã hội hóa các dịch vụ công, ngân hàng, tài chính, tự chủ tài chính, quy hoạch xây dựng... và các vấn đề cụ thể khác mà các đoàn kiểm tra, giám sát, thanh tra, kiểm toán, cơ quan điều tra, truy tố, xét xử đã kiến nghị, đề xuất. Tăng cường thanh tra trách nhiệm của người đứng đầu cơ quan, đơn vị trong việc thực hiện pháp luật về PCTN, xử lý nghiêm các cá nhân, tổ chức vi phạm.

Ngoài ra, thường xuyên sâu sát cơ sở, gần dân, sát dân, tăng cường đối thoại, lắng nghe và kịp thời giải quyết các vấn đề bức xúc, những nguyện vọng chính đáng, hợp pháp của Nhân dân. Kiên quyết chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, xa rời quần chúng.

3. Bài thu hoạch Chính trị hè 2024 về Xây dựng không gian văn hóa

Câu hỏi: Thầy/Cô nêu những suy nghĩ của mình về sự cần thiết xây dựng Không gian văn hóa Hồ Chí Minh gắn với giữ gìn và phát huy đặc trưng văn hóa của thành phố Thủ Đức trong môi trường giáo dục, đồng thời đề ra giải pháp thiết thực để xây dựng Không gia văn hóa Hồ Chí Minh tại đơn vị mà Thầy/Cô đang công tác.

Bài làm

Xây dựng không gian văn hóa Hồ Chí Minh là một chủ trương quan trọng của Đại hội đại biểu Đảng bộ TPHCM lần thứ XI. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ Thành phố Hồ Chí Minh lần thứ XI đã xác định: Thông qua xây dựng thành phố thành không gian văn hóa Hồ Chí Minh làm cho việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trở thành nếp sống, đặc trưng văn hóa của đảng viên và Nhân dân thành phố. Đây là một trong các nhiệm vụ, giải pháp quan trọng để xây dựng Đảng về tư tưởng, chính trị, đạo đức.

Nhằm đưa việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh ngày càng lan tỏa sâu rộng, là một trong những nội dung trọng tâm, đột phá năm 2024. Đây là nơi trưng bày tượng, hình ảnh của Chủ tịch Hồ Chí Minh; trưng bày, triển lãm những hình ảnh, tư liệu, hiện vật về cuộc đời hoạt động cách mạng của Người; giới thiệu những sản phẩm văn hóa, văn học, nghệ thuật (sách, thơ, tranh ảnh…); giới thiệu, biểu dương gương điển hình trong học tập và làm theo Bác… Bên cạnh đó, nhiều cơ quan, đơn vị đưa những câu nói, lời dạy của Bác Hồ lên các bảng treo tại trụ sở, phòng làm việc, phòng tiếp dân để nhắc nhở cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức thường xuyên tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất, đạo đức, phong cách sống và làm việc theo gương Bác. Đẩy mạnh các hoạt động văn hóa, văn nghệ, triển lãm hình ảnh, tổ chức các hội nghị chuyên đề, các hoạt động trồng cây nhớ ơn Bác, biên tập tập san giới thiệu gương học tập và làm theo Bác để tuyên truyền việc xây dựng không gian văn hóa Hồ Chí Minh.

Quan tâm xây dựng không gian văn hóa Hồ Chí Minh trên không gian mạng, các đơn vị đã mở chuyên mục “Không gian văn hóa Hồ Chí Minh” trên trang thông tin điện tử, trang mạng xã hội, bản tin nội bộ. thường xuyên đăng tải các bài viết, đoạn phim ngắn giới thiệu, chia sẻ những mô hình, cách làm trong học tập và làm theo Bác; những lời Bác dạy; các giải pháp, hiến kế việc xây dựng không gian văn hóa Hồ Chí Minh. Việc xây dựng không gian văn hóa Hồ Chí Minh là một việc làm thiết thực học tập và làm theo Bác, tạo được sức lan tỏa rộng rãi trong nhân dân quận; hình thành không gian văn hóa Hồ Chí Minh

Bên cạnh đó, cũng cần có sự chú trọng đến việc xây dựng không gian văn hóa bằng việc tái hiện sinh động những giá trị trong cuộc đời, sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh như mô hình phòng đọc Hồ Chí Minh, phòng truyền thống đơn vị với những hình ảnh, tư liệu, tác phẩm gắn với cuộc đời, sự nghiệp của Người để từ đó tạo ra sự nhận thức trực quan của cán bộ, đảng viên, người lao động, học sinh, sinh viên một cách thường xuyên, liên tục. Về mặt giải pháp, ngoài không gian hiệu hữu tái hiện sinh động những giá trị, cuộc đời, sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh như tủ sách, phòng trưng bày hay các cuộc triển lãm thì cần nghiên cứu và lựa chọn nội dung trong tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh có sự phù hợp với những giá trị văn hóa con người Thành phố để đẩy mạnh học tập, tuyên truyền trong các tầng lớp nhân dân. Trong đó có thể lựa chọn học tập và tuyên truyền những giá trị điển hình trong cuộc đời, sự nghiệp của Bác như tinh thần đổi mới, sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn thử thách, lòng nhân ái, yêu thương con người.

Trong trường học phải thật sự đặc biệt chú trọng xây dựng phẩm chất đạo đức cho đội ngũ thầy, cô giáo theo tinh thần trên, cần phải chú trọng nâng cao tinh thần trách nhiệm, ý thức đạo đức của đội ngũ CBGV với mục tiêu của giáo dục và đào tạo như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định: “Vì lợi ích mười năm thì phải trồng cây/ Vì lợi ích trăm năm thì phải trồng người”(1). Người nhấn mạnh giáo dục và đào tạo có vai trò vô cùng quan trọng trong việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, là động lực của sự phát triển.

Do đó cũng cần phải có sự lựa chọn những chỉ dẫn cốt lõi nhất của Người để xây dựng đơn vị, văn hóa ứng xử của đội ngũ viên chức để từ đó từng bước tạo ra chuyển biến tích cực trong hoạt động của từng cơ quan, đơn vị. Làm được như vậy thì trong không gian văn hóa Hồ Chí Minh tại thành phố sẽ có một điểm nhấn nổi bật là văn hóa chính trị thể hiện qua văn hóa của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức.

Quan tâm xây dựng không gian văn hóa Hồ Chí Minh trên không gian mạng, các đơn vị đã mở chuyên mục “Không gian văn hóa Hồ Chí Minh” trên trang thông tin điện tử, trang mạng xã hội, bản tin nội bộ. thường xuyên đăng tải các bài viết, đoạn phim ngắn giới thiệu, chia sẻ những mô hình, cách làm trong học tập và làm theo Bác; những lời Bác dạy; các giải pháp, hiến kế việc xây dựng không gian văn hóa Hồ Chí Minh. Việc xây dựng không gian văn hóa Hồ Chí Minh là một việc làm thiết thực học tập và làm theo Bác, tạo được sức lan tỏa rộng rãi trong nhân dân quận; hình thành không gian văn hóa Hồ Chí Minh

Bên cạnh đó, cũng cần có sự chú trọng đến việc xây dựng không gian văn hóa bằng việc tái hiện sinh động những giá trị trong cuộc đời, sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh như mô hình phòng đọc Hồ Chí Minh, phòng truyền thống đơn vị với những hình ảnh, tư liệu, tác phẩm gắn với cuộc đời, sự nghiệp của Người để từ đó tạo ra sự nhận thức trực quan của cán bộ, đảng viên, người lao động, học sinh, sinh viên một cách thường xuyên, liên tục. Về mặt giải pháp, ngoài không gian hiệu hữu tái hiện sinh động những giá trị, cuộc đời, sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh như tủ sách, phòng trưng bày hay các cuộc triển lãm thì cần nghiên cứu và lựa chọn nội dung trong tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh có sự phù hợp với những giá trị văn hóa con người Thành phố để đẩy mạnh học tập, tuyên truyền trong các tầng lớp nhân dân. Trong đó có thể lựa chọn học tập và tuyên truyền những giá trị điển hình trong cuộc đời, sự nghiệp của Bác như tinh thần đổi mới, sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn thử thách, lòng nhân ái, yêu thương con người.

Mô hình này góp phần đẩy mạnh công tác tuyên truyền về học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong cán bộ, công chức, viên chức, người lao động và nhất là học sinh, giúp các em nhận thức sâu sắc hơn những nội dung cơ bản và giá trị to lớn của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Xây dựng không gian văn hóa Hồ Chí Minh không chỉ trong trường học, mà mỗi cơ quan, đơn vị có thể kết nối với nhau cùng thực hiện để qua đó lan tỏa giá trị đẹp về học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Chủ tịch Hồ Chí Minh đến với từng cán bộ, đảng viên và nhân dân, học sinh trên địa bàn TP Thủ Đức, xem đây là công việc thường xuyên, hàng ngày để giáo dục truyền thống lịch sử.

Chủ tịch Hồ Chí Minh viết: “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em”(3). Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ mục tiêu của nền giáo dục Việt Nam là “một nền giáo dục của một nước độc lập, một nền giáo dục nó sẽ đào tạo các em nên những người công dân hữu ích cho nước Việt Nam, một nền giáo dục làm phát triển hoàn toàn những năng lực sẵn có của các em”(4). Đó là một nền giáo dục mang tính nhân dân sâu sắc, thực học, không chạy theo bằng cấp, không chạy theo khối lượng kiến thức mà cần chú trọng nâng cao chất lượng, là nền giáo dục độc lập, tiến bộ, dân tộc, thực hiện mục tiêu phát triển con người toàn diện, một nền giáo dục vì con người, cho con người phụng sự Tổ quốc và Nhân dân, làm rạng danh non sông. Người từng khẳng định: “Học để làm việc, để làm người, làm cán bộ. Học để phụng sự Đoàn thể, giai cấp và nhân dân, Tổ quốc và nhân loại”(5). Chính vì mục tiêu cao cả và vai trò to lớn của giáo dục mà Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra yêu cầu cần có tầm nhìn dài hạn trong chiến lược phát triển giáo dục của quốc gia, phải coi giáo dục là sự nghiệp của quần chúng, là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân.

Đổi mới tư duy và cơ chế quản lý giáo dục, nội dung chương trình, mô hình đào tạo và phương pháp dạy học, kiểm tra, đánh giá ở các cơ sở đào tạo theo hướng phát triển năng lực và phẩm chất người học, hài hòa đức, trí, thể, mỹ. Nội dung giáo dục theo hướng tinh giản, hiện đại, thiết thực, phù hợp với từng đối tượng học sinh. Tăng thực hành, vận dụng kiến thức vào thực tiễn. Chú trọng giáo dục nhân cách, đạo đức, lối sống, tri thức pháp luật và ý thức công dân, phát huy giá trị cơ bản của văn hóa, truyền thống và đạo lý dân tộc, tinh hoa văn hóa nhân loại. Cần có tầm nhìn dài hạn trong quản lý giáo dục, phù hợp với từng loại đối tượng và cấp học, có trọng tâm, trọng điểm, lộ trình, bước đi phù hợp, bảo đảm tính hệ thống trên cơ sở thực hiện Tư tưởng Hồ Chí Minh. Người nhấn mạnh: “Học không bao giờ cùng. Học mãi để tiến bộ mãi. Càng tiến bộ, càng thấy càng phải học thêm”.

Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh vai trò kết hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội: “Bởi vì giáo dục trong nhà trường, chỉ là một phần, còn cần có sự giáo dục ngoài xã hội và trong gia đình để giúp cho việc giáo dục trong nhà trường được tốt hơn. Giáo dục trong nhà trường dù tốt mấy nhưng thiếu giáo dục trong gia đình và ngoài xã hội thì kết quả cũng không hoàn toàn”(11)… “Các đoàn thể thanh niên, phụ nữ, các cơ quan chính quyền và các cấp ủy đảng phải thật sự quan tâm đến nhà trường, đến việc học tập của con em mình hơn nữa”(12). Hoạt động quản lý giáo dục luôn rất cần có sự phối hợp của các cấp, ngành và toàn xã hội. Người chỉ rõ, để có sự phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường, gia đình và xã hội cần phát huy dân chủ, xây dựng mối quan hệ đoàn kết giữa thầy với thầy, giữa thầy và trò, giữa

chú trọng công tác xây dựng, bồi dưỡng và sử dụng hợp lý đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục - lực lượng cơ bản tham gia xây dựng và phát triển giáo dục, có vai trò quyết định đến chất lượng giáo dục và đào tạo. Xây dựng đội ngũ nhà giáo có phẩm chất đạo đức tốt, có sức khỏe, bản lĩnh chính trị vững vàng, đáp ứng được yêu cầu của thời kỳ mới. Xây dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ nhà giáo gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Việc tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ, tôn vinh nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục phải trên cơ sở đánh giá năng lực, đạo đức nghề nghiệp và hiệu quả công tác. Bởi theo Chủ tịch Hồ Chí Minh thì vấn đề then chốt quyết định chất lượng giáo dục chính là xây dựng đội ngũ những người thầy giáo và cán bộ quản lý giáo dục. học trò với nhau, giữa nhà trường với Nhân dân, chú trọng các phong trào thi đua để tạo nên môi trường giáo dục lành mạnh.

Tổ chức tốt, thực chất công tác thi đua khen thưởng, tạo động lực cho đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục, giáo viên, học sinh thi đua dạy tốt, học tốt. Nhân rộng những mô hình giáo dục và đào tạo hiệu quả trong nước, nghiên cứu chọn lọc áp dụng một số mô hình giáo dục và đào tạo của thế giới vào nhà trường, góp phần thúc đẩy sự phát triển của giáo dục và đào tạo nước ta trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế.

4. Bài thu hoạch lớp bồi dưỡng chính trị hè 2024

BÀI THU HOẠCH

LỚP BỒI DƯỠNG CHÍNH TRỊ HÈ NĂM 2024
-----

- Họ và tên: ………………..

- Năm sinh: …..

- Đảng viên chi bộ: Trường TH …..

- Đảng bộ: …………….

- Chức vụ, đơn vị công tác: Tổ trưởng CM, Trường……..

I. Câu hỏi trắc nghiệm

Đồng chí hãy dùng bút khoanh tròn vào đáp án ĐÚNG

Câu 1. Lễ ra mắt tác phẩm “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, góp phần xây dựng Đảng và Nhà nước ta ngày càng trong sạch, vững mạnh” của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng vào ngày, tháng, năm nào?

A. Ngày 02/3/2023

B. Ngày 02/02/2023

C. Ngày 03/02/2023

Câu 2. Tác phẩm “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, góp phần xây dựng Đảng và Nhà nước ta ngày càng trong sạch, vững mạnh” của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng gồm bao nhiêu trang, bao nhiêu hình ảnh minh họa và được chia làm mấy phần?

A. 523 trang, 100 hình ảnh minh họa, chia làm 4 phần

B. 603 trang, 112 hình ảnh minh họa, chia làm 3 phần

C. 623 trang, 111 hình ảnh minh họa, chia thành 3 phần

Câu 3. Phần thứ nhất có tiêu đề là gì và từ trang bao nhiêu?

A. Một số vấn đề rút ra từ thực tiễn công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ở Việt Nam (từ trang 11 - trang 206).

B. Một số vấn đề từ thực tiễn công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ở Việt Nam (từ trang 11 - trang 202).

C. Một số vấn đề từ cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ở Việt Nam (từ trang 10 - trang 200).

Câu 4. Phần thứ hai có tiêu đề là gì? từ trang bao nhiêu? gồm bao nhiêu bài viết của Tổng Bí thư

A. Nhất quán phương châm: Phòng ngừa tham nhũng, tiêu cực từ sớm từ xa; từ trang 207 - trang 522; gồm 29 bài viết của Tổng Bí thư.

B. Nhất quán phương châm: Phòng ngừa tham nhũng, tiêu cực từ sớm từ xa, cả ngọn lẫn gốc; từ trang 207 - trang 522; gồm 22 bài viết của Tổng Bí thư.

C. Nhất quán phương châm Phòng ngừa tham nhũng, tiêu cực cả ngọn lẫn gốc”; từ trang 207 - trang 522; gồm 35 bài viết của Tổng Bí thư.

Câu 5. Phần thứ ba có tiêu đề là gì? từ trang bao nhiêu

A. Tiêu đề “Trên dưới đồng lòng, dọc ngang thông suốt”; từ trang 523 - trang 619

B. Tiêu đề “Trên dưới đồng lòng”; từ trang 523 - trang 600

C. Tiêu đề “Trên dưới đồng lòng, dọc ngang thông suốt”; từ trang 520 - trang 635

Câu 6. Nhiệm kỳ 2020 - 2025, Thành ủy Ninh Bình đã xây dựng bao nhiêu chương trình công tác?

A. 4 chương trình công tác

B. 5 chương trình công tác

C. 6 chương trình công tác.

D. 7 chương trình công tác.

Câu 7. Nửa nhiệm kỳ qua, BTV Thành ủy đã thực hiện công tác luân chuyển, điều động cán bộ diện Ban Thường vụ Thành ủy quản lý, bao nhiêu đồng chí Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch UBND phường, xã không là người địa phương?

A. 12 Bí thư Đảng ủy, 13 Chủ tịch UBND

B. 13 Bí thư Đảng ủy, 12 Chủ tịch UBND

C. 13 Bí thư Đảng ủy, 13 Chủ tịch UBND

D. 14 Bí thư Đảng ủy, 14 Chủ tịch UBND

Câu 8. Từ năm 2020 đến nay, BTV Thành ủy đã chỉ đạo tổ chức thi tuyển chức danh Hiệu trưởng, Phó Hiệu trưởng các trường THCS, Tiểu học và Mầm non đối với bao nhiêu trường?

A. 11 trường

B. 12 trường

C. 13 trường

D. 14 trường

Câu 9. Trong nửa nhiệm kỳ vừa qua, BTV Thành ủy đã thành lập được bao nhiêu tổ chức Đảng, đoàn thể tại các doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước theo Nghị quyết số 08 - NQ/TU của BTV Tỉnh uỷ?

A. 01 Tổ chức Đảng, 16 đoàn thể trong DN ngoài khu vực Nhà nước

B. 02 Tổ chức Đảng, 16 đoàn thể trong DN ngoài khu vực Nhà nước

C. 03 Tổ chức Đảng, 16 đoàn thể trong DN ngoài khu vực Nhà nước

D. 04 Tổ chức Đảng, 16 đoàn thể trong DN ngoài khu vực Nhà nước

Câu 10. Nửa nhiệm kỳ qua, Ban Thường vụ Thành uỷ đã kiểm tra bao nhiêu Tổ chức đảng, giám sát bao nhiêu Tổ chức Đảng và đảng viên?

A. 18 Tổ chức đảng, giám sát 13 Tổ chức Đảng, 29 đảng viên

B. 19 Tổ chức đảng, giám sát 14 Tổ chức Đảng, 30 đảng viên

C. 20 Tổ chức đảng, giám sát 15 Tổ chức Đảng, 31 đảng viên

D. 21 Tổ chức đảng, giám sát 16 Tổ chức Đảng, 32 đảng viên

Câu 11. Trong nửa nhiệm kỳ qua, Đảng ủy, UBKT cấp ủy cơ sở kiểm tra bao nhiêu Tổ chức đảng, đảng viên; giám sát bao nhiêu Tổ chức Đảng và đảng viên?

A. Kiểm tra 267 tổ chức Đảng

B. Kiểm tra 198 đảng viên

C. Giám sát 129 tổ chức Đảng và 57 đảng viên

D. Kiểm tra 267 tổ chức Đảng và 198 đảng viên; giám sát 129 tổ chức Đảng và 57 đảng viên.

Câu 12. Đến giữa nhiệm kỳ Đại hội, toàn thành phố đã xây dựng được bao nhiêu mô hình, điển hình “Dân vận khéo”?

A. 200 mô hình, điển hình “Dân vận khéo”

B. 300 mô hình, điển hình “Dân vận khéo”

C. 400 mô hình, điển hình “Dân vận khéo”

D. 372 mô hình, điển hình “Dân vận khéo”

(284 mô hình, điển hình cấp cơ sở; 88 cấp thành phố).

Câu 13. Năm 2022 thành phố đạt bao nhiêu phần trăm tỷ lệ gia đình văn hóa, thôn, phố và cơ quan doanh nghiệp đạt chuẩn văn hóa?

A. 91,7% gia đình đạt chuẩn văn hóa

B. 98,3% thôn, phố đạt chuẩn văn hóa

C. 96,7% cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp đạt chuẩn văn hóa

D. Cả ba đáp án trên

Câu 14. Tỷ lệ % trường đạt chuẩn quốc gia mức độ I?

A. 94 % trường đạt chuẩn quốc gia mức độ I

B. 95 % trường đạt chuẩn quốc gia mức độ I

C. 95,7 % trường đạt chuẩn quốc gia mức độ I

D. 96 % trường đạt chuẩn quốc gia mức độ I

Câu 15. Hiện nay thành phố có bao nhiêu phường, xã không còn hộ nghèo?

A. 02 phường, xã không còn hộ nghèo

B. 03 phường, xã không còn hộ nghèo

C. 04 phường, xã không còn hộ nghèo

D. 05 phường, xã không còn hộ nghèo

II. Câu hỏi tự luận

Sau khi nghiên cứu tác phẩm “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, góp phần xây dựng Đảng và nhà nước ta ngày càng trong sạch, vững mạnh” của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, đồng chí rút ra được những nội dung cốt lõi gì? Với vị trí công tác của mình, đồng chí cần làm gì để nâng cao hiệu quả tuyên truyền đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực tại cơ quan, đơn vị?

Bài làm

1. Nội dung cốt lõi của Cuốn sách “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, góp phần xây dựng Đảng và Nhà nước ta ngày càng trong sạch, vững mạnh” của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng là:

Công cuộc đổi mới đất nước trải qua 35 năm đã để lại những chuyển biến rõ rệt, sâu sắc về nhiều mặt. Bên cạnh những thành tựu, đất nước ta còn gặp không ít những khó khăn, cần phải vượt qua cũng như những hạn chế cần khắc phục. Trong đó tham nhũng tiêu cực là một trong những mối đe dọa trực tiếp đến sự tồn vong của Đảng và chế độ, do đó cần phải loại bỏ hoàn toàn những mầm mống của tham nhũng để giữ Đảng trong sạch vững mạnh. Cuốn sách “Kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, góp phần xây dựng Đảng và Nhà nước ta ngày càng trong sạch, vững mạnh”, của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng được ra mắt nhân dịp kỷ niệm 93 năm ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3/2/1930 – 3/2/2023) đã góp phần hệ thống hóa sự chỉ đạo của đồng chí Tổng bí thư - Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng tiêu cực, từ đó giúp cán bộ, đảng viên, Nhân dân hiểu rõ và thực hiện có hiệu quả công tác này.

Nội dung Tác phẩm gồm 623 trang, 111 hình ảnh minh họa, được trình bày theo phong các cách báo chí, hiện đại, chia thành 3 phần (Phần thứ nhất, có tiêu đề: “Một số vấn đề rút ra từ thực tiễn công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ở Việt Nam”; Phần thứ hai, có tiêu đề: “Nhất quán phương châm: Phòng ngừa tham nhũng, tiêu cực từ sớm từ xa, cả ngọn lẫn gốc”; Phần thứ ba, có tiêu đề: “Trên dưới đồng lòng, dọc ngang thông suốt”).

Phần thứ nhất: Một số vấn đề rút ra từ thực tiễn công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ở Việt Nam, gồm bài viết tổng quan của Tổng Bí thư đánh giá công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ở Việt Nam từ khi thành lập Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng (năm 2013) đến nay; phát biểu kết luận của đồng chí Tổng Bí thư tại các hội nghị toàn quốc về công tác phòng, chống tham nhũng và kết luận tại các phiên họp, cuộc họp của Ban Chỉ đạo và Thường trực Ban Chỉ đạo. Các bài viết, bài phát biểu thể hiện tư duy lý luận về công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; thực tiễn và những kết quả đạt được, những bước tiến trong cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ở Việt Nam trong 10 năm (2012 - 2022). Xuyên suốt các bài viết, bài phát biểu của đồng chí Tổng Bí thư cho thấy sự chỉ đạo rất sát sao, cụ thể và nhất quán của người đứng đầu Đảng, nhắc nhở mỗi cơ quan, đơn vị, đặc biệt là mỗi cán bộ, đảng viên phải nâng cao trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ, góp phần làm cho “Đảng ta, Nhà nước ta luôn trong sạch, vững mạnh; toàn hệ thống chính trị vững mạnh”.

Phần thứ hai: Nhất quán phương châm: Phòng ngừa tham nhũng, tiêu cực, từ sớm, từ xa, cả ngọn lẫn gốc, gồm 22 bài viết tiêu biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên. Trong công tác phòng, chống tham nhũng thì cùng với chống là xây, cùng với đấu tranh là ngăn chặn, do vậy xuyên suốt các bài viết của đồng chí Nguyễn Phú Trọng qua các thời kỳ, trên nhiều cương vị công tác, đảm nhiệm nhiều vị trí khác nhau cho thấy, đồng chí luôn dành sự quan tâm đặc biệt tới công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên, củng cố lòng tin của Nhân dân với vai trò lãnh đạo của Đảng, với công cuộc xây dựng đất nước.

Phần thứ ba: Trên dưới đồng lòng, dọc ngang thông suốt, gồm ý kiến đánh giá, sự đồng tình, ủng hộ, ghi nhận của Nhân dân trong nước cùng như bạn bè quốc tế đối với cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ở Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng, với vai trò của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng, Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng. Sự ủng hộ, tin tưởng của Nhân dân thuộc mọi tầng lớp, trên mọi vùng miền, từ nhà báo, nhà văn,… cho đến những cán bộ hưu trí, đảng viên, cho thấy sức lan toả rộng khắp, sự tham gia, vào cuộc của cả hệ thống chính trị trong cuộc chiến chống “giặc nội xâm” nhằm xây dựng Đảng, xây dựng đất nước. Sự tin tưởng vào tương lai, vào cơ đồ của dân tộc của đông đảo các tầng lớp nhân dân chính là sự phản bác đánh thép nhất trước những luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch đối với cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng ở Việt Nam.

Cuốn sách là tài liệu rất giá trị cả về mặt lý luận và thực tiễn, có thể coi là cuốn “cẩm nang” về công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ở nước ta. Qua đó giúp cho cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và người lao động hiểu rõ hơn về chủ trương, đường lối và quyết tâm đấu tranh chống “giặc nội xâm”, ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm tham nhũng, tiêu cực của Đảng, Nhà nước ta - một cuộc chiến không tiếng súng nhưng vô cùng quyết liệt, cam go.

Giá trị cốt lõi của tác phẩm nói trên của đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng chính là cái “tầm”, “tâm” và “tài” của một người đảng viên cộng sản suốt đời vì nước, vì dân với một tầm nhìn chiến lược về công tác xây dựng Đảng, hệ thống chính trị và đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực ngay từ khi còn là một đảng viên trẻ cho đến khi trở thành vị lãnh đạo cao nhất của Đảng ta.

2. Với vị trí công tác của mình, đồng chí cần làm gì để nâng cao hiệu quả tuyên truyền đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực tại cơ quan, đơn vị?

Tác phẩm của đồng chí Tổng Bí thư có ý nghĩa chính trị hết sức to lớn, hàm chứa những giá trị quan trọng về lý luận và thực tiễn, đang được Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Ninh Bình, chính quyền các cấp, hội, đoàn thể ở tỉnh ta cũng như cấp ủy, chính quyền nhiều địa phương khác triển khai học tập, tạo sức lan tỏa mạnh mẽ, trở thành đợt sinh hoạt chính trị, tư tưởng sâu rộng. Việc nghiên cứu, quán triệt nội dung Cuốn sách có tác dụng định hướng công tác phòng, chống tham nhũng ở mỗi cấp, mỗi ngành, góp phần làm cho Đảng ta ngày càng trong sạch, vững mạnh. Muốn làm được những điều này thiết nghĩ từng tổ chức Đảng, cán bộ, đảng viên nhất là đội ngũ giáo viên cần thiết lan tỏa thông qua những biện pháp sau:

* Một là, giữ vững nền tảng tư tưởng, thường xuyên giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhiệm vụ và yêu cầu đặt ra đối với cán bộ, đảng viên trong từng giai đoạn cách mạng.

Chỉ có nắm vững chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối cách mạng của Đảng mới bảo đảm cho cán bộ, đảng viên xác định đúng mục tiêu, lý tưởng, trung thành tuyệt đối với Đảng, Tổ quốc và Nhân dân. Thực hiện giáo dục liêm chính, đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền về phòng, chống tham nhũng: “Liêm” là luôn luôn tôn trọng giữ gìn của công và của dân; trong sạch, không tham lam địa vị, tiền của, danh tiếng, không cậy quyền thế mà đục khoét, ăn của dân, dìm dập người giỏi, để giữ địa vị và danh tiếng của mình. “Chính” là thẳng thắn, đứng đắn. Đối với mình: không tự cao, tự đại, luôn chịu khó học tập cầu tiến bộ, luôn kiểm điểm mình để phát huy điều hay, sửa đổi những khuyết điểm. Đối với người: không nịnh hót người trên, xem khinh người dưới, luôn giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết, không dối trá, lừa lọc. Ðối với việc: đặt việc công lên trên việc tư, làm việc gì cũng phải đến nơi, đến chốn, không ngại khó, nguy hiểm, cố gắng làm việc tốt cho dân, cho nước.

* Hai là, bản thân cần thực hiện nghiêm kế hoạch của cấp ủy cấp trên trong việc tuyên truyền, quán triệt nội dung của Cuốn sách.

Để thực hiện được điều này đòi hỏi phải xây dựng kế hoạch cụ thể gắn với triển khai quán triệt theo chức năng, nhiệm vụ của tổ chức, cơ quan, đơn vị, tránh triển khai hình thức, chiếu lệ, làm cho có, không có mục đích và kế hoạch rõ ràng, không cỗ vũ, động viên, khuyến khích cán bộ, đảng viên trong cơ quan, đơn vị tham gia.

* Ba là, thực hiện tốt công tác tuyên truyền, vận động cán bộ, đảng viên, đông đảo quần chúng nhân dân trong và ngoài nước tham gia nghiên cứu, quán triệt, góp phần lan tỏa giá trị, đóng góp vào công tác phòng, chống tham nhũng của nước ta.

Công tác tuyên truyền, vận động phải được thực hiện thông qua nhiều kênh thông tin chính thống khác nhau, với chủ thể tuyên truyền đa dạng, đối tượng được tuyên truyền đông đảo, rộng rãi, từ đó khuyến khích mọi người tham gia vào công tác phòng, chống tham nhũng, để công việc này trở thành việc làm thường xuyên của cán bộ, đảng viên và Nhân dân.

Trong công tác tuyên truyền, vận động cần chú trọng đến những nội dung cốt lõi, gắn với thực tiễn công tác của mỗi cấp ủy, chính quyền địa phương và từng cá nhân để giá trị của Cuốn sách tạo được hiệu ứng tích cực, phù hợp với tình hình thực tiễn. Tuyên truyền, vận động để mọi người nhận thức đượcnhững quan điểm xuyên suốt của công cuộc phòng, chống tham nhũng tiêu cực: Chủ động phát hiện, xử lý nghiêm minh, không có vùng cấm, không có ngoại lệ, bất kể người đó là ai và không chịu áp lực của bất cứ cá nhân nào.Công cuộc đấu tranh này không làm đơn độc mà phải gắn liền với chống tha hóa về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống,“tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.

* Bốn là, đối với tổ chức Đảng, để công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực đạt hiệu quả cao nhất, trước hết mỗi cá nhân trong tổ chức phải tăng cường tự đổi mới, tự chỉnh đốn, phải nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu, đặc biệt là “phòng, chống suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, đảng viên”. Đây là cái “gốc” của vấn đề, là nhiệm vụ chính trị cấp bách, hệ trọng của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta, phải được thực hiện nghiêm túc, chặt chẽ, dựa trên sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và sự tham gia tích cực của toàn thể Nhân dân. Các cấp ủy Đảng cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo phát hiện, xử lý kịp thời, nghiêm minh các vụ việc tham nhũng, tiêu cực; tiếp tục kiện toàn tổ chức, bộ máy của các cơ quan tư pháp, thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, pháp chế trong công tác phòng, chống tiêu cực, tham nhũng, lãng phí.

Các cấp ủy, tổ chức Đảng triển khai cho cán bộ, đảng viên đọc, nghiên cứu, quán triệt sâu sắc nội dung Cuốn sách; đưa vào nội dung sinh hoạt chi bộ; đồng thời triển khai những công việc cụ thể để thực hiện tốt công cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, kinh tế - xã hội không ngừng phát triển, đời sống vật chất, tinh thần của người dân được nâng cao.

* Năm là, cá nhân đảng viên phải có ý thức tự giác trong việc nghiên cứu, quán triệt, vận dụng vào thực tiễn công tác ở từng vị trí khác nhau để phát huy hết giá trị của Cuốn sách; mỗi cán bộ, đảng viên không ngừng rèn luyện bản lĩnh chính, tu dưỡng đạo đức cách mạng, học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống; gương mẫu trong công tác và cuộc sống, trong đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, quan liêu, tham nhũng, lãng phí; chấp hành Quy định về những điều đảng viên không được làm; luôntrung thành với chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối đổi mới của Đảng; không có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, “tự diễn biến, tự chuyển hóa”. Bên cạnh đó, cần tuyên truyền cho những người xung quanh cùng nhận thức được ý nghĩa và tầm quan trọng của công tác phòng, chống tham nhũng của Đảng và Nhà nước ta, để từ đó mọi người chung tay góp phần xây dựng một nước Việt Nam phát triển thịnh vượng, bền vững, trong sạch.

* Sáu là, thường xuyên sơ kết, tổng kết công tác phòng, chống tham nhũng để thấy được tác dụng triển khai công tác này từ khi quán triệt nội dung Cuốn sách, từ đó góp phần củng cố niềm tin của cán bộ, đảng viên và Nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng, tranh thủ thêm sự đồng thuận của đông đảo người dân đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí của Đảng và Nhà nước ta.

Người viết thu hoạch

5. Bài thu hoạch chính trị hè 2024 về Học và làm theo lời Bác

BÀI THU HOẠCH

Những nội dung cơ bản đã thu thập được sau khi tham dự học tập và nghiên cứu nội dung chuyên đề HỌC TẬP VÀ LÀM THEO BÁC năm 2024

HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH VỀ:

TĂNG CƯỜNG TRÁCH NHIỆM CỦA CÁN BỘ, ĐẢNG VIÊN TRONG THỰC HIỆN NHIỆM VỤ ĐƯỢC GIAO; ĐẨY MẠNH CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH, GÓP PHẦN NÂNG CAO CHỈ SỐ NĂNG LỰC CẠNH TRANH CẤP TỈNH, THỰC HIỆN THẮNG LỢI NGHỊ QUYẾT ĐẠI HỘI ĐẢNG BỘ TỈNH LẦN THỨ XI (NHIỆM KỲ 2020-2025)

(Chủ đề thực hiện Kết luận số 01-KL/TW, ngày 18/5/2021 của Bộ Chính trị)

NỘI DUNG CHUYÊN ĐỀ

Phần 1

Tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về tăng cường trách nhiệm của cán bộ, đảng viên trong thực hiện nhiệm vụ được giao.

Phần 2

Cải cách hành chính, nâng cao chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh và những vấn đề đặt ra về trách nhiệm của cán bộ, đảng viên hiện nay

Phần 3

Vận dụng tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về tăng cường trách nhiệm của cán bộ, đảng viên; góp phần đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh, thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Đồng Nai lần thứ XI.

1. Vị trí, vai trò

Theo Hồ Chí Minh:

“Cán bộ là gốc của mọi công việc, Có cán bộ tốt việc gì cũng xong. Muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém”.

“Đảng là do nhiều người cách mạng họp lại” ; “Đảng là gồm các đảng viên mà tổ chức nên. Mọi công việc của Đảng đều do đảng viên làm. Mọi nghị quyết của Đảng đều do đảng viên chấp hành. Mọi chính sách của Đảng đều do đảng viên mà thấu đến quần chúng. Mọi khẩu hiệu, mọi kế hoạch của Đảng đều do đảng viên cố gắng thực hiện”

Người từng chỉ rõ: “Để lãnh đạo cách mạng, Đảng phải mạnh. Đảng mạnh là do chi bộ tốt. Chi bộ tốt là do các đảng viên đều tốt” .

Chủ tịch Hồ Chí Minh ví cán bộ, đảng viên như máy phát điện, “máy mạnh thì đèn sáng”; “như dây chuyền của bộ máy”, như “tiền vốn” của Đảng

Hồ Chí Minh từng nói: “Cán bộ là những người đem chính sách của Đảng, của Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ hiểu rõ, để đặt chính sách cho đúng. Vì vậy cán bộ là gốc của mọi công việc”; “có cán bộ tốt thì việc gì cũng xong. Muôn việc thành công hay thất bại là do cán bộ tốt hoặc kém”

Quan điểm của Người về vị trí, vai trò, nhiệm vụ của người cán bộ, đảng viên vừa thể hiện tính khoa học, toàn diện, vừa đòi hỏi mỗi cán bộ, đảng viên phải luôn nâng cao tinh thần trách nhiệm trong thực hiện nhiệm vụ được giao nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp cách mạng.

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh: “có tinh thần, trách nhiệm là phải.

“nắm vững chính sách, đi đúng đường lối quần chúng, làm tròn nhiệm vụ”;

bất kỳ việc to hay nhỏ, khó hay dễ, cũng phải “đưa cả tinh thần, lực lượng ra

làm cho đến nơi đến chốn, vượt mọi khó khăn, làm cho thành công”.

2. Tăng cường trách nhiệm của cán bộ, đảng viên

Nội dung tăng cường trách nhiệm của cán bộ, đảng viên trong thực hiện nhiệm vụ được giao theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh gồm những nội dung sau:

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Tinh thần trách nhiệm là gì? Là khi Đảng, Chính phủ hoặc cấp trên giao cho ta điều gì, bất kỳ to hay nhỏ, khó hay dễ, ta cũng đưa cả tinh thần, lực lượng ra làm cho đến nơi đến chốn, vượt mọi khó khăn, làm cho thành công. Làm một cách cẩu thả, làm cho có chuyện, dễ làm khó bỏ, đánh trống bỏ dùi, gặp sao làm vậy là không có tinh thần trách nhiệm (…)

Bất kỳ ai, ở địa vị nào, làm công tác gì, gặp hoàn cảnh nào, đều phải có tinh thần trách nhiệm. Tinh thần trách nhiệm là: nắm vững chính sách, đi đúng đường lối quần chúng, làm tròn nhiệm vụ (…) Công việc kháng chiến kiến quốc ngày càng nhiều, càng mới, càng to, càng phức tạp, cán bộ ta không khỏi vấp váp khuyết điểm; nhưng với sự giáo dục của Đảng, của Chính phủ và của quần chúng, cùng với lòng kiên quyết dùi mài tinh thần trách nhiệm của cán bộ, chúng ta nhất định chiến thắng khuyết điểm”

Từ quan điểm Hồ Chí Minh về tinh thần trách nhiệm và nội dung các quan điểm của Người về phẩm chất, tiêu chuẩn, tiêu chí xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên và qua tấm gương đạo đức, phong cách sáng ngời của Hồ Chí Minh về nêu cao tinh thần trách nhiệm trước Tổ quốc, trước Đảng và Nhân dân, tựu chung lại có thể thấy tinh thần trách nhiệm của người cán bộ, đảng viên trong thực hiện nhiệm vụ được giao có những nội dung chủ yếu sau:

Một là, theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, để tăng cường trách nhiệm của mình, người cán bộ, đảng viên phải luôn đặt lợi ích của Đảng, của Tổ quốc, của Nhân dân lên trên hết, trước hết; hết lòng hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân, “quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng. Đó là điều chủ chốt nhất.

Trong bất kỳ ở hoàn cảnh nào, đảng viên và cán bộ cần phải luôn luôn ra sức phấn đấu, ra sức làm việc, cố gắng học tập để nâng cao trình độ văn hóa, tri thức và chính trị của mình. Luôn luôn giữ gìn kỷ luật. Luôn luôn xứng đáng là một người cán bộ, một người đảng viên, phấn đấu hy sinh vì lý tưởng Cộng sản cao đẹp: độc lập, tự do của Tổ quốc, ấm no, hạnh phúc của Nhân dân.

Hai là, với “vai trò kép” vừa là người lãnh đạo, vừa là người phục vụ Nhân dân, đảng viên “Làm cán bộ tức là suốt đời làm đày tớ trung thành của Nhân dân. Mấy chữ a, b, c này không phải ai cũng thuộc đâu, phải học mãi, học suốt đời mới thuộc được” . Vì thế, Người nhấn mạnh: “Bất kỳ bao giờ, bất kỳ việc gì, đều phải tính đến lợi ích chung của Đảng, phải đặt lợi ích của Đảng lên trên hết, trước hết, việc của cá nhân và lợi ích của cá nhân phải để lại sau.

Ba là, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ rằng, tăng cường tinh thần trách nhiệm của người cán bộ, đảng viên trong thực hiện nhiệm vụ được Đảng và Nhân dân giao phó luôn gắn liền với phát huy vai trò nêu gương về mọi mặt. Người căn dặn: “cán bộ Đảng và chính quyền cần biết lãnh đạo thiết thực và xung phong làm gương mẫu” . Tính tiên phong, gương mẫu là một trong những chuẩn mực đạo đức của người cán bộ cách mạng, thể hiện trách nhiệm trước Đảng, trước Tổ quốc và Nhân dân.

Hồ Chí Minh nhiều lần nhấn mạnh, để lãnh đạo được quần chúng, mỗi người cán bộ, đảng viên “phải làm mực thước cho người ta bắt chước”; phải là “lúc khổ sở, khó khăn thì đảng viên ta đi trước, khi sướng thì đảng viên ta hưởng sau”. Đây vừa thể hiện tính tiên phong, gương mẫu - một trong những chuẩn mực và cũng là nguyên tắc tu dưỡng, rèn luyện đạo đức của cán bộ, đảng viên; vừa là lời ca ngợi, đồng thời cũng là đòi hỏi của quần chúng đối với tinh thần trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, đảng viên.

Gương mẫu là một giá trị, nét đẹp của văn hóa. Hồ Chí Minh là tấm gương đã tận hiến đời mình cho cách mạng, cho Nhân dân, cho đất nước. Trong Di chúc, Người đề cập về việc riêng nhưng cho thấy tinh thần phục vụ, cống hiến hy sinh của Người với Tổ quốc, với Đảng, với Nhân dân: “Suốt đời tôi hết lòng hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ Nhân dân. Nay dù phải từ biệt thế giới này, tôi không có điều gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng không được phục vụ Nhân dân lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa”.

Bốn là, mỗi cán bộ, đảng viên trong quá trình thực hiện nhiệm vụ được giao phải nêu cao tinh thần và nghiêm chỉnh chấp hành CTDL của Đảng, CSPL của Nhà nước; phải luôn “cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”. Người còn chỉ rõ: “Đem lòng chí công vô tư mà đối với người, đối với việc. Quyết tâm làm gương về mặt: siêng năng, tiết kiệm, trong sạch. Chớ kiêu ngạo, tự mãn, tự túc. Nói ít làm nhiều, thân ái đoàn kết” . Đây là một yêu cầu nữa của nâng cao tinh thần trách nhiệm và làm một bảo đảm để người cán bộ, đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ được Đảng và Nhân dân giao cho.

Trách nhiệm của cán bộ, đảng viên là giáo viên:

“Sự nghiệp trồng người” là sự nghiệp cao cả, lâu dài, nó không phải là một con đường bằng phẳng mà có nhiều chông gai, cám dỗ. Chỉ khi có lòng trắc ẩn sâu sắc, có đức dày - trí sáng - lòng trong thì nhà giáo mới vượt qua được những thử thách của nghề, không bị sa ngã, không vì lợi ích vật chất tầm thường mà đánh mất đi mối quan hệ thầy trò trong sáng, thiêng liêng và trách nhiệm cao cả của một “nghề cao quý nhất trong các nghề cao quý”. Người thầy phải thực sự là tấm gương sáng về rèn luyện đạo đức, nhân cách, phải khách quan, công bằng. Có như thế, người thầy mới thật sự là người bạn lớn, người đồng hành, “người lái đò” tin cậy cho các thế hệ học trò cập được những bến bờ tri thức mới.

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn mong muốn “giáo viên cũng phải tiến bộ cho kịp thời đại thì mới làm được nhiệm vụ. Chớ tự túc, tự mãn, cho là giỏi rồi thì dừng lại. Mà dừng lại là lùi bước, là lạc hậu, mình tự đào thải trước. Cho nên phải cố gắng học tập để cải tạo mình, cải tạo tư tưởng của mình, cải tạo con em và giúp vào việc cải tạo xã hội”

Hồ Chí Minh khẳng định: “không có thầy giáo thì không có giáo dục... Không có giáo dục, không có cán bộ thì cũng không nói gì đến kinh tế văn hóa”. “Thầy dạy tốt, trò học tốt, cung cấp đủ cán bộ cho nông nghiệp, công nghiệp, cho các ngành kinh tế và văn hóa. Đó là nhiệm vụ vẻ vang của các thầy giáo, cô giáo”. Theo Hồ Chí Minh, người thầy là gốc, là cội nguồn của tri thức, của đạo đức và cũng là người gieo trồng những “hạt giống đỏ” cho cách mạng, cho tương lai tươi sáng của dân tộc.

6. Bài thu hoạch lớp bồi dưỡng chính trị hè cho cán bộ quản lý, giáo viên về chuyên đề tâm đắc nhất

BÀI THU HOẠCH

Lớp bồi dưỡng chính trị hè cho cán bộ quản lý, giáo viên các trường học năm 2024
-----

I. CÂU HỎI VIẾT THU HOẠCH:

Câu 1: (05 điểm)

- Qua học tập, nghiên cứu những nội dung cốt lõi và vấn đề mới trong các Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư, thứ năm Ban Chấp Hành Trung ương khóa XIII của Đảng, anh/chị tâm đắc nội dung nào nhất? Vì sao? (04 điểm)

- Liên hệ thực tiễn các nội dung trên tại đơn vị các anh/chị đang công tác? (01 điểm)

Câu 2: (05 điểm)

- Để triển khai và thực hiện có hiệu quả chuyên đề năm 2024 “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ cán bộ, thật sự tiên phong, gương mẫu, có đạo đức cách mạng trong sáng, bản lĩnh chính trị vững vàng, đủ năng lực đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và phát triển Thành phố Hồ Chí Minh” tại đơn vị công tác, theo anh/chị cần tập trung thực hiện những nội dung, giải pháp gì? (04 điểm)

- Liên hệ thực tiễn bản thân nhằm thực hiện tốt nội dung trên trong thời gian tới. (01 điểm)

II. NỘI DUNG VIẾT THU HOẠCH:

Câu 1:

Qua học tập, nghiên cứu những nội dung cốt lõi và vấn đề mới trong các văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, tôi tâm đắc nhất nội dung “Đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, phát triển con người” vì phát triển và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao là một đột phá chiến lược, là yếu tố quyết định đẩy mạnh phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ, cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển đổi mô hình tăng trưởng và là lợi thế cạnh tranh quan trọng nhất, bảo đảm cho phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững.

Nhiệm vụ:

Để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đổi mới toàn diện và phát triển nhanh giáo dục và đào tạo, cần phải thực hiện tốt các vấn đề sau:

- Coi trọng phát triển đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi, đội ngũ chuyên gia, quản trị doanh nghiệp giỏi, lao động lành nghề và cán bộ khoa học, công nghệ đầu đàn. Đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu đa dạng, đa tầng của công nghệ và trình độ phát triển của các lĩnh vực, ngành nghề.

- Thực hiện liên kết chặt chẽ giữa các doanh nghiệp, cơ sở sử dụng lao động, cơ sở đào tạo và Nhà nước để phát triển nguồn nhân lực theo nhu cầu xã hội. Thực hiện các chương trình, đề án đào tạo nhân lực chất lượng cao đối với các ngành, lĩnh vực chủ yếu, mũi nhọn. Chú trọng phát hiện, bồi dưỡng, phát huy nhân tài; đào tạo nhân lực cho phát triển kinh tế tri thức.

- Phát triển giáo dục phải thực sự là quốc sách hàng đầu. Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, dân chủ hóa và hội nhập quốc tế, trong đó, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý là khâu then chốt. Tập trung nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, coi trọng giáo dục đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, khả năng lập nghiệp. Đổi mới cơ chế tài chính giáo dục. Thực hiện kiểm định chất lượng giáo dục, đào tạo ở tất cả các bậc học. Xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường với gia đình và xã hội.

- Mở rộng giáo dục mầm non, hoàn thành phổ cập mầm non 5 tuổi. Thực hiện phổ cập giáo dục tiểu học và trung học cơ sở với chất lượng ngày càng cao. Phát triển mạnh và nâng cao chất lượng dạy nghề và giáo dục chuyên nghiệp. Rà soát, hoàn thiện quy hoạch và thực hiện quy hoạch mạng lưới trường đại học, cao đẳng và dạy nghề trong cả nước. Thực hiện đồng bộ các giải pháp để nâng cao chất lượng giáo dục đại học, bảo đảm cơ chế tự chủ gắn với nâng cao trách nhiệm xã hội của các cơ sở giáo dục, đào tạo. Tập trung đầu tư xây dựng một số trường, khoa, chuyên ngành mũi nhọn, chất lượng cao.

- Đổi mới mạnh mẽ nội dung, chương trình, phương pháp dạy và học ở tất cả các cấp, bậc học. Tích cực chuẩn bị để thực hiện chương trình giáo dục phổ thông mới. Mở rộng và nâng cao chất lượng đào tạo ngoại ngữ. Nhà nước tăng đầu tư, đồng thời đẩy mạnh xã hội hóa, huy động toàn xã hội chăm lo phát triển giáo dục.

Đề xuất giải pháp:

Để nâng cao chất lượng giáo dục, các giải pháp cần được ngành giáo dục triển khai đồng bộ, đó là:

- Đổi mới phương pháp, hình thức tổ chức dạy học; Đổi mới kiểm tra đánh giá và tăng cường quản lý đổi mới phương pháp dạy học, kiểm tra đánh giá.

- Kiểm tra và phân loại học sinh đầu năm học, qua đó chỉ đạo bồi dưỡng phụ đạo học sinh yếu kém ngoài giờ lên lớp. Xác định các nguyên nhân học sinh bỏ học và áp dụng các biện pháp vận động tạo điều kiện về hỗ trợ kinh tế để giảm tỉ lệ học sinh bỏ học.

- Tổ chức chỉ đạo bồi dưỡng giáo viên các môn học thực hiện dạy học theo chuẩn kiến thức kỹ năng của Chương trình giáo dục phổ thông mới. Chỉ đạo dạy học hiệu quả, đổi mới phương pháp dạy học: Chỉ đạo dạy học theo chuẩn kiến thức kỹ năng trong chương trình giáo dục phổ thông. Chỉ đạo vận dụng các phương pháp dạy học phát huy tính tích cực, sáng tạo khuyến khích khả năng tự học của học sinh. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin hợp lý; tổ chức dạy học sát đối tượng; sử dụng hợp lý Sách giáo khoa khắc phục dạy học theo lối đọc - chép. Qua đó từng bước làm thay đổi cách dạy của giáo viên.

- Trong kiểm tra đánh giá cũng cần thực hiện đổi mới. Đảm bảo đánh giá sát, đúng trình độ học sinh với thái độ khách quan, công minh và hướng dẫn học sinh biết tự đánh giá năng lực của mình; thực hiện đúng quy định của Quy chế đánh giá, xếp loại học sinh của Bộ đã ban hành.

- Cần tổ chức xây dựng và duy trì nguồn học liệu mở với các dữ liệu bám sát chuẩn kiến thức kỹ năng của Chương trình giáo dục phổ thông, cập nhật thường xuyên để phục vụ dạy học, kiểm tra đánh giá.

- Tập huấn, bồi dưỡng về chuyên môn và nghiệp vụ cho cán bộ quản lý, giáo viên: Bồi dưỡng giảng dạy theo chuẩn kiến thức, kỹ năng; bồi dưỡng hướng dẫn ra đề kiểm tra đánh giá.

- Tăng cường cơ sở vật chất thiết bị trường học cho trường học. Về thiết bị dạy học cần được tăng cường bổ sung hàng năm đáp ứng yêu cầu giảng dạy; các phòng học được củng cố đầu tư sửa chữa đảm bảo điều kiện học tập cho học sinh; phòng bộ môn đáp ứng được yêu cầu phục vụ khai thác, sử dụng của giáo viên. Sách giáo khoa được phát hành đầy đủ, kịp thời đến địa phương trong dịp hè để chuẩn bị năm học mới.

CÂU 2:

Để triển khai và thực hiện có hiệu quả chuyên đề năm 2024 “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ cán bộ, thật sự tiên phong, gương mẫu, có đạo đức cách mạng trong sáng, bản lĩnh chính trị vững vàng, đủ năng lực đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và phát triển Thành phố Hồ Chí Minh” tại đơn vị công tác cần tập trung thực hiện những nội dung, giải pháp đó là:

* Cần nhận thức sâu sắc, thấm nhuần tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Coi đây là công việc thường xuyên, không thể thiếu đối với mỗi cán bộ, giáo viên, nhân viên trong nhà trường.

Nâng cao nhận thức cho cán bộ, giáo viên, nhân viên về nội dung, giá trị và ý nghĩa to lớn của tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Đẩy mạnh nghiên cứu, phát triển, vận dụng sáng tạo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh gắn với việc thực hiện phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp của công tác xây dựng, chỉnh đốn đội ngũ cán bộ, giáo viên, nhân viên…

* Các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể đưa nội dung làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh vào chương trình, kế hoạch hành động thực hiện nghị quyết của đảng bộ cấp mình, gắn với nhiệm vụ chính trị.

Kết hợp chặt chẽ giữa học tập với giảng dạy, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong thực hiện nhiệm vụ đơn vị.

* Đẩy mạnh tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân tham gia các phong trào thi đua yêu nước, lôi cuốn sự vào cuộc của toàn xã hội.

Đẩy mạnh tuyên truyền, gắn việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh với các cuộc vận động, phong trào thi đua của các cấp, các ngành.

Làm cho mỗi cán bộ, giáo viên, nhân viên nhận thức sâu sắc và tự giác thực hiện bổn phận, trách nhiệm của bản thân, gắn bó chặt chẽ, liên hệ mật thiết với nhân dân, “trọng dân, gần dân, tin dân, hiểu dân, học dân, dựa vào dân và có trách nhiệm với dân”.

Nghiên cứu tổ chức cuộc vận động “Toàn Đảng, toàn dân khơi dậy khát vọng phát triển đất nước”, với quyết tâm “sánh vai với các cường quốc” như mong ước của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Phát huy vai trò của báo chí và hệ thống thông tin đại chúng, đẩy mạnh tuyên truyền trên các phương tiện truyền thông nhằm đạt hiệu quả cao nhất trong công tác tuyên truyền.

* Nêu cao trách nhiệm nêu gương trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về ý chí, tự lực, tự cường dân tộc, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh trong cán bộ, giáo viên, nhân viên, nhất là người đứng đầu. Trước hết là các đồng chí Hiệu trưởng, Hiệu phó, Chủ tịch công đoàn, các tổ trưởng chuyên môn theo phương châm cán bộ có chức vụ càng cao càng phải gương mẫu.

Mỗi cán bộ, giáo viên, nhân viên cần phát huy vai trò nêu gương trong xây dựng ý chí, khát vọng phát triển của bản thân và của cơ quan, đơn vị. Không ngừng học tập, tu dưỡng, rèn luyện, trau dồi đạo đức cách mạng, tự giác nêu gương cần, kiệm, liêm, chính, lao động sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm.

* Nghiên cứu, bổ sung, hoàn thiện các chuẩn mực đạo đức cách mạng phù hợp với điều kiện mới, làm cơ sở cho cán bộ, giáo viên, nhân viên tự giác tu dưỡng, rèn luyện, nâng cao ý thức tu dưỡng, “nói đi đôi với làm”, “rèn luyện suốt đời”, thường xuyên “tự soi”, “tự sửa”.

* Coi trọng công tác kiểm tra, giám sát.

Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện xây dựng, chỉnh đốn đội ngũ cán bộ, giáo viên, nhân viên nhằm cảnh tỉnh, cảnh báo, phát hiện từ sớm, kịp thời ngăn chặn vi phạm nội quy trường học, pháp luật của Nhà nước, bảo đảm cho việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh được thực hiện nghiêm túc, thực sự đi vào nền nếp, thực chất, hiệu quả.

Phát huy vai trò giám sát của ban thanh tra nhân dân trong thực hiện quy định của nhà trường. Xử lý kiên quyết, nghiêm minh các giáo viên, nhân viên vi phạm. Khen thưởng, biểu dương, động viên kịp thời những tấm gương tiêu biểu.

Liên hệ thực tiễn bản thân nhằm thực hiện tốt nội dung trên trong thời gian tới: Bản thân luôn cố gắng tự bồi dưỡng mang lại kết quả cao nhất trong bồi dưỡng thường xuyên giáo viên. Luôn trau dồi, học hỏi kinh nghiệm từ đồng nghiệp, mạnh dạn học hỏi và luôn tìm tòi đổi mới phương pháp dạy học. Công tác chuyên môn:

* Thực hiện đúng qui chế chuyên môn:

Luôn có ý thức nghiêm túc, tự giác trong việc cải tiến lề lối làm việc, nâng cao năng suất lao động. Thực hiện nghiêm túc và tuân thủ đúng theo các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước.
Chấp hành nghiêm túc quy chế của ngành, quy định cơ quan, đơn vị, đảm bảo số lượng, chất lượng ngày, giờ công lao động (Đảm bảo tham gia đầy đủ các buổi họp cơ quan, tổ chuyên môn, đảm bảo đúng giờ, tuyệt đối không bỏ tiết - quên tiết…).

* Hoạt động bồi dưỡng học sinh giỏi, phụ đạo học sinh yếu kém, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện:

Với đối tượng là học sinh khá giỏi: Rèn luyện kĩ năng tư duy, sáng tạo thông qua các câu hỏi để mở rộng và đào sâu khai thác kiến thức chuyên môn, chủ động nỗ lực tạo điều kiện tối đa để HS phát huy tính chủ động và tự học – tự rèn…
Đối với học sinh yếu kém: Đảm bảo HS nắm được những kiến thức cơ bản nhất theo chuẩn kiến thức kĩ năng. Giảng giải cụ thể những, đàm thoại, thảo luận nhóm, phân công HS khá hỗ trợ giúp đỡ HS yếu... v.v

NGƯỜI VIẾT THU HOẠCH

7. Bài thu hoạch chính trị hè về xây dựng nhà nước pháp quyền chuẩn 2024

Câu 1: Đ/c nêu những quan điểm, mục tiêu và đặc trưng của nhà nước pháp quyền xã hội của nghĩa mà nhân dan ta đang xây dựng tại nghị quyết số 27-nq/tw của BCH trung ương đảng khoá XIII của Đảng?

Trả lời

Sự ra đời của Nghị quyết số 27- NQ/TW Hội nghị Trung ương 6 khóa XIII ngày 09/11/2022 Về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Bài viết tập trung làm rõ một số quan điểm chỉ đạo của Đảng về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, qua đó thấy được giá trị lý luận và thực tiễn của Nghị quyết.

Từ khi ra đời đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn đặt lên hàng đầu quan điểm xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Quá trình đổi mới tư duy, bổ sung, hoàn thiện cả về lý luận cũng như thực tiễn về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta được xác định ngày càng rõ hơn.Văn kiện Đại hội XIII khẳng định: “tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân do Đảng lãnh đạo, là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị”[2; tr. 174]. Trong bối cảnh đó, Nghị quyết số 27 - NQ/TW Về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới ra đời. Nội dung Nghị quyết là sự tập trung các quan điểm chỉ đạo về tình hình, mục tiêu, trọng tâm và các nhiệm vụ, giải pháp tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) trong giai đoạn mới

II - QUAN ĐIỂM

1. Kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới và bảo đảm sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng. Nắm vững và xử lý tốt các mối quan hệ lớn giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và Nhân dân làm chủ; giữa nhà nước, thị trường và xã hội; giữa thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa và tăng cường pháp chế, bảo đảm kỷ cương xã hội. Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị; luôn phải đặt trong tổng thể công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, huy động sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị với quyết tâm cao, nỗ lực lớn, hành động quyết liệt, kiên trì, hiệu quả; thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

2. Thực hiện nhất quán nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về Nhân dân, phát huy quyền làm chủ của Nhân dân trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ, kiểm soát hiệu quả giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp dưới sự giám sát của Nhân dân.

3. Bảo đảm thượng tôn Hiến pháp và pháp luật. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức xã hội chủ nghĩa; thể chế hóa kịp thời, đầy đủ và tổ chức thực hiện hiệu quả chủ trương, đường lối của Đảng; lấy con người là trung tâm, mục tiêu, chủ thể và động lực phát triển đất nước; Nhà nước tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân.

4. Bám sát thực tiễn đất nước và xu thế phát triển của thời đại, kế thừa những thành tựu đã đạt được, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế phù hợp với Việt Nam; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh quốc gia với sức mạnh quốc tế; bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia, chế độ xã hội chủ nghĩa.

5. Bảo đảm tổng thể, đồng bộ, liên thông giữa đổi mới lập pháp, cải cách hành chính, cải cách tư pháp; kết hợp hài hòa giữa kế thừa, ổn định với đổi mới, phát triển; tiến hành khẩn trương, nghiêm minh, nhất quán, có trọng tâm, trọng điểm và lộ trình, bước đi vững chắc. Những vấn đề thực tiễn đòi hỏi, đã rõ, được thực tiễn chứng minh là đúng, có sự thống nhất cao thì kiên quyết thực hiện; những vấn đề chưa rõ, còn nhiều ý kiến khác nhau thì tiếp tục nghiên cứu, tổng kết thực tiễn, thực hiện thí điểm khi cơ quan có thẩm quyền cho phép; những chủ trương đã thực hiện, nhưng không phù hợp thì nghiên cứu điều chỉnh, sửa đổi kịp thời.

III- MỤC TIÊU, TRỌNG TÂM

1. Mục tiêu

1.1. Mục tiêu tổng quát

Hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân, do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; có hệ thống pháp luật hoàn thiện, được thực hiện nghiêm minh, nhất quán; thượng tôn Hiến pháp và pháp luật, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ hiệu quả quyền con người, quyền công dân; quyền lực nhà nước là thống nhất, được phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ, kiểm soát hiệu quả; nền hành chính, tư pháp chuyên nghiệp, pháp quyền, hiện đại; bộ máy nhà nước tinh gọn, trong sạch, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có đủ phẩm chất, năng lực, thực sự chuyên nghiệp, liêm chính; quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả; đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước nhanh, bền vững, trở thành nước phát triển, có thu nhập cao theo định hướng xã hội chủ nghĩa vào năm 2045.

1.2. Mục tiêu cụ thể đến năm 2030

- Hoàn thiện cơ bản các cơ chế bảo đảm quyền làm chủ của Nhân dân, bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Thượng tôn Hiến pháp và pháp luật trở thành chuẩn mực ứng xử của mọi chủ thể trong xã hội. Hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, nhân đạo, đầy đủ, đồng bộ, thống nhất, kịp thời, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận, mở đường cho đổi mới sáng tạo, phát triển bền vững và cơ chế tổ chức thực hiện pháp luật nghiêm minh, nhất quán. Hoàn thiện cơ chế phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp, bảo đảm quyền lực nhà nước là thống nhất, được kiểm soát hiệu quả.

- Tiếp tục đổi mới tổ chức và nâng cao chất lượng hoạt động của Quốc hội; bảo đảm Quốc hội thực sự là cơ quan đại biểu cao nhất của Nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, nâng cao hiệu quả thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo quy định của Hiến pháp.

- Hoàn thành cơ bản việc xây dựng nền hành chính nhà nước phục vụ Nhân dân, dân chủ, pháp quyền, chuyên nghiệp, hiện đại, trong sạch, vững mạnh, công khai, minh bạch; bảo đảm Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, thực hiện quyền hành pháp, cơ quan chấp hành của Quốc hội; phân cấp, phân quyền hợp lý giữa Trung ương và địa phương; cơ bản hoàn thiện tổ chức bộ máy chính quyền địa phương.

- Hoàn thành cơ bản việc xây dựng nền tư pháp chuyên nghiệp, hiện đại, công bằng, nghiêm minh, liêm chính, phụng sự Tổ quốc, phục vụ Nhân dân, bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tổ chức, cá nhân.

- Tổ chức bộ máy nhà nước cơ bản tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có đủ phẩm chất, năng lực, chuyên nghiệp, liêm chính, chí công, vô tư.

2. Trọng tâm

- Hoàn thiện hệ thống pháp luật và cơ chế tổ chức thực hiện pháp luật nghiêm minh, nhất quán; bảo đảm thượng tôn Hiến pháp và pháp luật; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực pháp luật.

- Hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước, đẩy mạnh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, tăng cường phân cấp, phân quyền, làm rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các tổ chức, cá nhân trong bộ máy nhà nước đi đôi với nâng cao năng lực thực thi; xây dựng tổ chức bộ máy nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.

- Đẩy mạnh cải cách tư pháp, bảo đảm tính độc lập của tòa án theo thẩm quyền xét xử, thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.

*8 đặc trưng cơ bản của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

Nghị quyết khẳng định, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. "Đặc trưng này thể hiện tính đặc thù của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, phù hợp với hệ thống chính trị Việt Nam", đồng chí Phan Đình Trạc nhấn mạnh.

Đặc trưng thứ hai của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Trưởng ban Nội chính Trung ương cho biết, đây là nội dung nhằm thể chế hóa Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) và Điều 2 Hiến pháp năm 2013.

Đặc trưng thứ ba là quyền con người, quyền công dân được công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật. Công nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền công dân vừa là bản chất, vừa là mục tiêu của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, là giá trị cao cả của xã hội.

Đặc trưng thứ tư là nhà nước được tổ chức và hoạt động theo Hiến pháp và pháp luật, quản lý xã hội bằng Hiến pháp và pháp luật. Đây là đặc trưng xuyên suốt bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp trong tổ chức và hoạt động của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Đặc trưng thứ năm là quyền lực nhà nước thống nhất, có sự phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ và kiểm soát hiệu quả giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.

Đặc trưng thứ sáu là hệ thống pháp luật dân chủ, công bằng, nhân đạo, đầy đủ, kịp thời, đồng bộ, thống nhất, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận, được thực hiện nghiêm minh và nhất quán.

Đặc trưng thứ bảy là bảo đảm tính độc lập của tòa án theo thẩm quyền xét xử, thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.

Đặc trưng thứ tám là tôn trọng và bảo đảm thực hiện các điều ước quốc tế mà nhà nước đã ký kết hoặc gia nhập, bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia-dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc, pháp luật quốc tế.

Câu 2: a. Những quan điểm cơ bản của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nêu cao tinh thần trách nhiệm phục vụ nhân dân?

Trả lời

Là người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Ðảng ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn trăn trở và dành sự quan tâm hàng đầu cho việc chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ cách mạng thực hành gương sáng về nêu cao tinh thần trách nhiệm trước Ðảng, trước nhân dân, coi đó là nhân tố có ý nghĩa quyết định đến thắng lợi của sự nghiệp cách mạng.

Ðể xứng danh, ngang tầm với đòi hỏi của tình hình, nhiệm vụ, sự tín nhiệm của quần chúng nhân dân và sự suy tôn của toàn dân tộc, tất yếu đòi hỏi Ðảng phải luôn trong sạch, kiểu mẫu. Trong đó, nâng cao tinh thần phục vụ nhân dân chính là một phẩm chất trung tâm về đạo đức cách mạng của người cán bộ cách mạng. Như Người từng chỉ dẫn: "đạo đức cách mạng là: Quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Ðảng, cho cách mạng. Ðó là điều chủ chốt nhất... Ðặt lợi ích của Ðảng và của nhân dân lao động lên trên, lên trước lợi ích riêng của cá nhân mình. Hết lòng hết sức phục vụ nhân dân. Vì Ðảng, vì dân mà đấu tranh quên mình, gương mẫu trong mọi việc" (1).

Trong điều kiện Ðảng cầm quyền, người cán bộ cách mạng phải lấy lợi ích tối cao của dân tộc, của Ðảng, của nhân dân làm nền tảng và mục tiêu phấn đấu, thể hiện ở lý tưởng đấu tranh, sự tự giác và ý thức chính trị, tinh thần trách nhiệm rất cao trước Ðảng, trước nhân dân. Như Hồ Chí Minh từng chỉ dẫn: "Tinh thần trách nhiệm là gì? Là khi Ðảng, Chính phủ, hoặc cấp trên giao cho ta việc gì, bất kỳ to hay nhỏ, khó hay dễ, ta cũng đưa cả tinh thần, lực lượng ra làm cho đến nơi đến chốn, vượt mọi khó khăn, làm cho thành công. Làm một cách cẩu thả, làm cho có chuyện, dễ làm khó bỏ, đánh trống bỏ dùi, gặp sao làm vậy, v.v., là không có tinh thần trách nhiệm (…) Bất kỳ ai, ở địa vị nào, làm công tác gì, gặp hoàn cảnh nào, đều phải có tinh thần trách nhiệm. Tinh thần trách nhiệm là: nắm vững chính sách, đi đúng đường lối quần chúng, làm tròn nhiệm vụ" (2).

Theo tư tưởng Hồ Chí Minh: Chân lý là cái gì có lợi cho Tổ quốc, cho nhân dân. Yêu thương, tôn trọng nhân dân luôn gắn liền với ý chí đấu tranh và khát vọng mãnh liệt để làm cho dân tộc độc lập, dân quyền tự do, dân sinh hạnh phúc. Ðó là tư tưởng giải phóng xã hội, giải phóng con người một cách toàn diện, triệt để, thấm đượm lý tưởng chính trị, bản chất nhân văn và văn hóa Hồ Chí Minh. Vấn đề số một trong đạo đức phục vụ nhân dân của người cách mạng là lý tưởng, lẽ sống: Sống cho ai, sống vì cái gì?

Bởi vì, "Cái quý nhất của con người là cuộc sống và danh dự sống, bởi vì, đời người chỉ sống có một lần. Phải sống sao cho khỏi xót xa, ân hận vì những năm tháng đã sống hoài, sống phí; để khỏi phải hổ thẹn vì những việc làm ti tiện, đớn hèn, mang tai, mang tiếng, mọi người khinh bỉ; để đến khi nhắm mắt xuôi tay, có thể tự hào rằng: Ta đã sống có ích, đã mang tất cả đời ta, tất cả sức ta hiến dâng cho sự nghiệp cao quý nhất trên đời: Vì vinh quang của Tổ quốc, của Ðảng, vì hạnh phúc của nhân dân, của con người; để con cháu chúng ta mai sau mãi mãi biết ơn, kính trọng, học tập và noi theo" (3).

Thực tiễn lịch sử cầm quyền của các đảng chính trị trên thế giới.

b. Với vị trí công tác của mình, đồng chí sẽ làm gì và làm thế nào để phục vụ nhân dân tốt hơn theo tư tưởng HCM

Trả lời

Với cương vị là một giáo viên công tác trong ngành Giáo dục, tôi nghĩ chúng ta cần làm tốt những công việc sau đây:

– Mỗi giáo viên phải nghiêm túc, thường xuyên tự kiểm điểm bản thân. Tiên phong đi đầu trong việc nêu gương về đạo đức, lối sống

– Gương mẫu chấp hành các quy định của địa phương nơi cư trú, tham gia sinh hoạt, đóng góp ý kiến xây dựng tổ chức, chính quyền nơi cư trú.

- Có ý thức giữ gìn an ninh trật tự, đảm bảo an toàn tại nơi làm việc cũng như tại nơi cư trú. Bản thân và gia đình không nói hoặc làm trái với các quy định của Đảng, tinh thần nghị quyết của Đại hội XIII.

– Đối với chuyên môn, tham gia các lớp tập huấn và học bồi dưỡng thường xuyên đầy đủ, cập nhật và nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, tích cực đổi mới phương pháp dạy học. Chú trọng giáo dục đạo đức, lối sống, kĩ năng sống cho học sinh trong quá trình giảng dạy. Đồng thời tăng cường công tác thông tin tuyên truyền về giáo dục đến phụ huynh tạo sự chuyển biến nhận thức và sự đồng thuận của nhân dân đối với sự nghiệp đổi mới giáo dục.

– Cùng với các tổ chức đoàn thể xây dựng nếp sống văn minh trong trường học. Xây dựng tốt mối quan hệ thầy với trò, trò với trò tạo nên môi trường sư phạm lành mạnh

– Giáo viên phải là người mẹ thứ hai quan tâm chăm sóc học sinh như con đẻ của mình, các em phải khỏe thì mới học tập tốt được.

– Phối hợp với các tổ chức đoàn thể trong nhà trường thường xuyên tổ chức các hoạt động ngoài giờ lên lớp, hoạt động ngoại khóa để các em được nói lên nguyện vọng chính đáng của mình, để trường học thực sự là một môi trường tốt nhất để học sinh phát triển toàn diện

8. Câu hỏi thảo luận lớp bồi dưỡng, tập huấn chính trị hè năm 2024

Vấn đề 1: Theo Thầy/Cô, các văn kiện Hội nghị lần thứ sáu, Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành TW Đảng khoá XIII đánh giá về công tác lãnh đạo, chỉ đạo và triển khai thực hiện Nghị quyết ĐH XIII của Đảng từ đầu nhiệm kỳ đến nay có những nội dung cốt lõi, những điểm mới gì? Thầy/Cô quan tâm nội dung nào trong những nhiệm vụ trọng tâm từ nay đến hết nhiệm kỳ Đại hội XIII của Đảng?

Vấn đề 2: Với nhiệm vụ chính trị của ngành Giáo dục và nhiệm vụ chuyên môn của bản thân, Thầy (Cô) vận dụng nội dung “phát huy giá trị văn hóa, con người Việt Nam tại Thành phố Hồ Chí Minh” và phát huy “Không gian văn hóa Hồ Chí Minh” như thế nào trong thời gian tới?

Vấn đề 3: Theo nội dung Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 07 tháng 10 năm 2022 của Bộ Chính trị “về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Đông Nam Bộ đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045” và Nghị quyết số 31-NQ/TW ngày 30 tháng 12 năm 2012 của Bộ Chính trị “về phương hướng, nhiệm vụ phát triển Thành phố Hồ Chí Minh đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”, Thầy (Cô) nhận định những nhiệm vụ nào ngành Giáo dục nói chung và đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục, giáo viên cần nỗ lực để góp phần thực hiện đạt hiệu quả tại thành phố Thủ Đức?

Vấn đề 4: Nghiên cứu Nghị quyết số 98/2023/NQ-QH15 ngày 24 tháng 6 năm 2023 của Quốc hội khóa XV “về thí điểm một số cơ chế, chính sách đặc thù phát triển Thành phố Hồ Chí Minh”, Thầy (Cô) sẽ vận dụng như thế nào vào công táccủa mình trong thời gian tới?

Vấn đề 5: Với những thông tin về tình hình thế giới và tình hình phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, quốc phòng an ninh thành phố Thủ Đức trong 6 tháng đầu năm 2024 đã được nghiên cứu, Thầy (Cô) nhận định như thế nào về vai trò, nhiệm vụ của bản thân để góp phần tuyên truyền, định hướng, giữ vững niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng và đường lối phát triển thành phố Thủ Đức trong thời gian tới?

Vấn đề 6: Liên hệ chức trách, nhiệm vụ bản thân, Thầy (Cô) nêu những đóng góp để lan tỏa nội dung của Đề án “Xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2021-2030” mà Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt?

Trả lời

Gợi ý câu trả lời được VnDoc.com đăng tải ngay sau khi kết thúc thời gian bồi dưỡng, tập huấn chính trị hè năm 2024

Hướng dẫn viết bài thu hoạch chính trị hè:

- Để có thể viết được một bài thu hoạch chính trị đầy đủ nội dung, chất lượng tốt thì bên cạnh việc chú ý theo dõi kỹ lưỡng nội dung các buổi học tập thì cần phải thường xuyên theo dõi các thông tin kinh tế, chính trị, các hoạt động, chính sách của Đảng và Nhà nước.

- Nội dung bài thu hoạch phải đưa ra được những tư tưởng, chỉ đạo then chốt trong Nghị quyết 35. Các bài chính trị đều cần phải có lý thuyết đi kèm với thực tiễn, người viết phải liên hệ thực tế, rút ra những bài học kinh nghiệm và đưa ra những quan điểm đóng góp của bản thân.

- Liên hệ bản thân, công việc và đơn vị công tác

9. Bài thu hoạch chính trị hè giáo viên 2024

Câu 1:

Phân tích nội dung cốt lõi, những điểm mới trong các văn kiện Hội nghị lần thứ Tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII?

Câu 2:

Phân tích nội dung cốt lõi, những điểm mới trong các văn kiện Hội nghị lần thứ Năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII?

Câu 3:

Thầy/ Cô đề xuất giải pháp để thực hiện tốt chủ đề năm 2024 “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên thật sự tiên phong, gương mẫu, có đạo đức cách mạng trong sáng, bản lĩnh chính trị vững vàng, đủ năng lực đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ”, góp phần xây dựng và phát triển thành phố Thủ Đức thành một khu đô thị “thông minh, sáng tạo, có chất lượng sống tốt, văn minh, hiện đại, nghĩa tình; phát triển nhanh, bền vững” tại đơn vị?

Câu 4:

Thầy/ Cô nhận xét về nội dung triển khai xây dựng Không gian văn hóa Hồ Chí Minh gắn với giữ gìn và phát huy đặc trưng văn hóa của thành phố Thủ Đức hiện nay và giải pháp xây dựng Không gian văn hóa Hồ Chí Minh tại đơn vị?

Gợi ý câu trả lời Bài thu hoạch chính trị hè giáo viên 2024, mời các bạn xem trong file tải về.

10. Bài thu hoạch chính trị hè 2024 về ý chí tự lực tự cường

Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ kính yêu của dân tộc ta đã dâng hiến tất cả tình cảm trí tuệ và cuộc đời cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta. Người đã để lại tài sản vô giá là tư tưởng và tấm gương đạo đức trong sáng, mẫu mực cao đẹp kết tinh những giá trị truyền thống của dân tộc của nhân loại và thời đại. Chính vì vậy học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là niềm vinh dự và tự hào đối với mỗi chúng ta. Qua các chuyên đề bồi dưỡng chính trị hè năm 2024 tôi tâm đắc nhất chuyên đề “Học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh về ý chí tự lực, tự cườngvà khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.

Những nội dung cơ bản:

Về ý chí tự lực, tự cường

- Một là, ý chí tự lực, tự cường là không phụ thuộc vào lực lượng bên ngoài, có quan điểm độc lập trong quan hệ quốc tế.

- Hai là, ý chí tự lực, tự cường là phải nhận thức rõ sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc với chủ nghĩa quốc tế trong sáng. Hồ Chí Minh khẳng định, nhân tố mang tính quyết định của cách mạng giải phóng dân tộc chính là sức mạnh của toàn dân tộc.

- Ba là, ý chí tự lực, tự cường là sự chủ động, chuẩn bị mọi mặt các điều kiện của cách mạng.

- Bốn là, ý chí tự lực, tự cường là đặc biệt chú trọng phát huy vai trò, sức mạnh của nhân dân.

- Năm là, ý chí tự lực, tự cường là quyết tâm bảo vệ và giữ vững nền độc lập dân tộc.

Về khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc

1. Xây dựng, phát triển đất nước giàu mạnh, cường thịnh, nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài.

2. Thực hiện khát vọng đất nước giàu mạnh, cường thịnh trong điều kiện Đảng cầm quyền, xây dựng chế độ mới, mưu cầu hạnh phúc, ấm no cho Nhân dân.

3. Xây dựng nền tảng kinh tế vững chắc, thực hiện một cách có kế hoạch với sự đồng lòng của Chính phủ và người dân.

4. Phát huy tối đa nội lực dân tộc, tranh thủ ngoại lực, có chính sách mở cửa, thu hút đầu tư nước ngoài

5. Luôn xuất phát từ hoàn cảnh cụ thể của đất nước, vận dụng sáng tạo lý luận vào thực tiễn để đưa ra những quan điểm, chủ trương phù hợp; không giáo điều, máy móc trong học tập kinh nghiệm của nước khác

Liên hệ bản thân:

Trong những năm công tác trong ngành giáo dục bản thân tôi luôn luôn gương mẫu rèn luyện phẩm chất tư cách, làm tròn nhiệm vụ được giao. Sống cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, hoà nhã thân ái với mọi người, hết lòng vì nhân dân phục vụ.

Luôn tham gia các hoạt động chuyên môn của nhà trường cũng như của Ngành. Luôn có ý thức giữ gìn đoàn kết cơ quan đơn vị. Bản thân tôi tự luôn đặt mình trong tổ chức, trong tập thể, tôn trọng nguyên tắc, pháp luật, không kéo bè kéo cánh gây mất đoàn kết nội bộ. Luôn động viên những người thân trong gia đình giữ gìn đạo đức, lối sống, xây dựng gia đình văn hoá.

Bên cạnh những ưu điểm, bản thân tôi nhận thấy mình cũng còn những nhược điểm như đôi lúc làm việc còn chưa khoa học, chưa hệ thống, tinh thần làm việc đôi lúc chưa thật sự sâu sát, tỉ mỉ.

Phương hướng phấn đấu, rèn luyện:

Nước ta đặt biệt là TP HCM hiện nay đang trong giai đoạn hết sức khó khăn do đại dịch Covit-19 hoành hành, do vậy tôi không ngừng nâng cao trình độ của bản thân để thích ứng với điều kiện xã hội mới. Đẩy mạnh công tác tự học, tự bồi dưỡng để nâng cao nghiệp vụ chuyên môn của bản thân. Luôn nêu gương trước đồng nghiệp, học sinh.

Tuyên truyền đường lối chính sách pháp luật của Đảng, của nhà nước đến quần chúng nhân dân. Không ngừng tự học để nâng cao chuyên môn nghiệp vụ. Chống các biểu hiện suy thoái về phẩm chất đạo đức. Luôn tu dưỡng đạo đức phẩm chất nhà giáo, không ngừng tự học suốt đời.

Thường xuyên nắm bắt các chủ trương, chính sách về phòng dịch Covid-19 của Đảng, Nhà nước, của chính quyền các cấp. Qua đó tích cực tham gia các hoạt động quyên góp phòng chống dịch, thực hiện tốt khẩu hiệu 5K, tích cực thực hiện các công tác phòng chống dịch cho bản thân, gia đình và góp phần lan tỏa đến cộng đồng dân cư…

11. Bài thu hoạch chính trị hè 2024 cho giáo viên

Học chính trị hè hàng năm là khoảng thời gian quan trọng để các giáo viên, giảng viên, viên chức công chức, cán bộ đảng viên nâng cao khả năng tiếp thu từ bồi dưỡng lý luận chính trị. Tại lớp học tập bồi dưỡng, các học viên sẽ được nghiên cứu và học tập các chuyên đề về những nội dung cơ bản, những điểm mới trong các Văn kiện Đại hội XIII của Đảng. Tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW và chuyên đề toàn khóa năm 2024 “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về ý chí tự lực, tự cường và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”; Sau đây là một số mẫu bài thi hoạch chính trị hè 2024

Câu hỏi: Trong các chuyên đề bồi dưỡng Chính trị hè năm 2024. Thầy/Cô tâm đắc nội dung chuyên đề nào nhất? Nêu nội dung cơ bản của chuyên đề, liên hệ với chức trách nhiệm vụ của bản thân và đề ra hướng phấn đấu thực hiện nội dung đó đạt hiệu quả cao.

Bài làm:

Trong các chuyên đề bồi dưỡng chính trị hè năm 2024 rất bổ ích đối với một nhà giáo như tôi. Nhưng trong tất các chuyên đề đó chuyên đề tôi tâm đắc nhất là chuyên đề “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về ý chí tự lực, tự cường và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”. Chuyên đề này nói với chúng ta phải học tập tốt, có ý chí tự lực để có thể giúp ích cho đất nước.

Chuyên đề “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về ý chí tự lực, tự cường và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc” cho ta thấy được ý chí tự lực, tự cường và khát vọng về quyền sống chân chỉnh của dân tộc đã bồi đắp tư tưởng, sự nghiệp cách mạng của Nguyễn Ái Quốc và lan tỏa trong mọi giai tầng xã hội Việt Nam. Nói cách khác, chính chủ nghĩa yêu nước, khát vọng giải phóng dân tộc và xây dựng đất nước “đàng hoàng”, “to đẹp” đã đưa Người đến với chủ nghĩa Mảc-Lênin, đặt nền móng cho sự phát triển tư tưởng mácxít ở Việt Nam, tạo ra những điều kiện căn bản, tiên quyết đưa đến những thành công của cách mạng nước nhà.

Về tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về ý chí tự lực, tự cường, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.

Trước hết ta nói đến tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về ý chí tự lực, tự cường. Thứ nhất, ý chí tự lực, tự cường là không phụ thuộc vào lực lượng bên ngoài, có quan điểm độc lập trong quan hệ quốc tế. Nguyễn Ái Quốc cho rằng, cách mạng ở các nước thuộc địa (trong đó có Việt Nam) hoàn toàn có thể chủ động giành thắng lợi, không phụ thuộc việc cách mạng ở chính quốc có thắng lợi hay không. Nguyễn Ái Quốc nêu rõ quyết tâm, ý chí, phương pháp cách mạng, thể hiện sâu sắc quan điểm tự lực, tự cường trong đấu tranh cách mạng: "Đối với tôi, câu trả lời đã rõ ràng: trở về nước, đi vào quần chúng, thức tỉnh họ, tổ chức họ, đoàn kết họ, huấn luyện họ, đưa họ ra đấu tranh giành tự do độc lập". Thứ hai, ý chí tự lực, tự cường là phải nhận thức rõ sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc với chủ nghĩa quốc tế trong sáng. Hồ Chí Minh khẳng định, nhân tố mang tính quyết định của cách mạng giải phóng dân tộc chính là sức mạnh của toàn dân tộc. Thứ ba, ý chí tự lực, tự cường là sự chủ động, chuẩn bị mọi mặt các điều kiện của cách mạng. Qua thắng lợi Cách mạng tháng Tám năm 1945 thể hiện việc vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin ở một nước thuộc địa, khẳng định đường loi cách mạng đúng đắn của Đảng, tinh thần, ý chí tự lực, tự cường của toàn dân tộc theo tư tưởng của Bác. Tư tưởng tự lực, tự cường, chủ động chuẩn bị chu đáo các điều kiện cách mạng tiếp tục được phát triển và khẳng định trong các giai đoạn cách mạng sau, đưa tới thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945- 1954), kháng chiến chống đế quốc Mỹ (1954-1975), trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước (1975- nay), đặc biệt trong 35 năm đổi mới (1986- nay). Thứ bốn, ý chí tự lực, tự cường là đặc biệt chú trọng phát huy vai trò, sức mạnh của nhân dân. Nó được thể hiện rõ qua hai cuộc kháng chiến chống Pháp (1946-1954) và cuộc kháng chiến chống Mỹ (1964-1975). Thứ năm, luôn xuất phát từ hoàn cảnh cụ thể của đất nước, vận dụng sáng tạo lý luận vào thực tiễn để đưa ra những quan điểm, chủ trương phù hợp; không giáo điều, máy móc trong học tập kinh nghiệm của nước khác. Theo Hồ Chí Minh, xây dựng, phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa đòi hỏi Việt Nam phải có cách làm, bước đi và biện pháp thích hợp. “Ta không thể giống Liên Xô, vì Liên Xô có phong tục tập quán khác, có lịch sử địa lý khác... ta có thể đi con đường khác để tiến lên chủ nghĩa xã hội”. Chúng ta dùng lập trường, quan điểm, phương pháp chủ nghĩa Mác - Lênin mà tổng kết những kinh nghiệm của Đảng ta, phân tích một cách đúng đắn những đặc điểm của nước ta. Có như thế, chúng ta mới có thể dần dần hiểu được quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam, định ra được những đường lối, phương châm, bước đi cụ thể của cách mạng xã hội chủ nghĩa thích hợp với tình hình nước ta.

Tiếp theo, ta nói về tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Thứ nhất là xây dựng, phát triển đất nước giàu mạnh, cường thịnh, nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài. Thứ hai là hực hiện khát vọng đất nước giàu mạnh, cường thịnh trong điều kiện Đảng cầm quyền, xây dựng chế độ mới, mưu cầu hạnh phúc, ấm no cho nhân dân. Hai điều này cho thấy được ý chí, khát vọng độc lập của Tổ quốc, hạnh phúc cho nhân dân, hùng cường cho dân tộc và tấm gương mẫu mực suốt đời phụng sự đất nước, phục vụ nhân dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn là động lực, tư tưởng soi đường cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc, vĩ một Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc. Thứ ba ta muốn nói đến là xây dựng nền tảng kinh tế vững chắc, thực hiện một cách có kế hoạch vớỉ sự đồng lòng của Chính phủ và người dân. “Nhân dân ta, đặc biệt là công nhân và nông dân ta, phải hăng hái thi đua yêu nước, thực hiện khẩu hiệu: làm nhiều, nhanh, tốt, rẻ”. “Tự lực cánh sinh, tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm”. Có sự chung sức, đồng lòng của toàn Đảng, toàn xã hội, như vậy mới phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thúc đẩy sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ngày càng thắng lợi.Thứ tư là phát huy tối đa nội lực dân tộc, tranh thủ ngoại lực, có chính sách mở cửa, thu hút đầu tư nước ngoài. Và cuối cùng là luôn xuất phát từ hoàn cảnh cụ thể của đất nước, vận dụng sáng tạo lý luận vào thực tiễn để đưa ra những quan điểm, chủ trương phù hợp; không giáo điều, máy móc trong học tập kinh nghiệm của nước khác. Qua những điều trên cho thấy những chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh có giá trị chỉ đạo thực tiễn và nghiên cứu lý luận về sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước theo con đường của chủ nghĩa xã hội, trở thành cơ sở, nền tảng tư tưởng đặc biệt quan trọng để Đảng đổi mới tư duy lý luận, nắm bắt thực tiễn, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan, hoạch định đường lối đổi mới tại Đại hội lần thứ VI của Đảng (12/1986) và lãnh đạo sự nghiệp đổi mới trong các giai đoạn cách mạng để Vỉệt Nam có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay.

Để việc học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh trong thời gian tới đi vào chiều sâu, chất lượng, thiết thực, cần tập trung làm tốt ba nội dung: Học tập, làm theo Bác và nêu gương của cán bộ, đảng viên. Nghiên cứu, thực hiện hiệu quả các giải pháp sau: Cần nhận thức sâu sắc, thấm nhuần tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. Coi đây là công việc thường xuyên, không thể thiếu đối với mỗi cán bộ, đảng viên; Các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể đưa nội dung làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh vào chương trình, kế hoạch hành động thực hiện nghị quyết của đảng bộ cấp mình, gắn với nhiệm vụ chính trị; Đẩy mạnh tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân tham gia các phong trào thi đua yêu nước, lôi cuốn sự vào cuộc của toàn xã hội; Nêu cao trách nhiệm nêu gương trong học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về ý chí, tự lực, tự cường dân tộc, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh trong cản bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu; Nghiên cứu, bẻ sung, hoàn thiện các chuẩn mực đạo đức cách mạng; Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả việc nghiên cứu, vận dụng và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới, theo hướng khoa học, sáng tạo, hiện đại và gắn lý luận với thực tiễn, phù hợp với từng đối tượng.; Nâng cao tính khoa học, tính chiến đấu trong đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, cơ hội chỉnh trị, chủ động thông tin kịp thời, chính xác, khách quan, đúng định hướng chính trị để phòng, chống “diễn biến hòa bình”, loại thông tin xấu, độc trên internet, mạng xã hội, để cán bộ, đảng viên và nhân dân nhận thức đúng đắn, tích cực tham gia bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, làm cho tư tưởng tiến bộ thấm sâu vào toàn bộ đời sống xã hội, có tác dụng uốn nắn những biểu hiện lệch lạc, bồi đắp thế giới quan, phương pháp luận và niềm tin khoa học trong mỗi cán bộ, đảng viên và người dân, củng cố sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng và sự đồng thuận trong xã hội.; Coi trọng công tác kiểm tra, giám sát nhằm tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và phát huy vai trò giám sát của các cơ quan dân cử, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, báo chí và nhân dân đối với cán bộ, đảng viên trong thực hiện quy định nêu gương. Xử lý kiên quyết, nghiêm minh các tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên vi phạm. Khen thưởng, biểu dương, động viên kịp thời những mô hình hay, các điển hình tiên tiến, tấm gương tiêu biểu. Chúng ta cũng có thể nghĩ ngay đến về dịch COVID hiện nay chúng ta cũng nên có ý thức tự giác và tuân theo các quy định của nhà nước đưa ra để đẩy lùi dịch bệnh đưa đất nước ta và nhân ta có cuộc sống bình thường trở lại. Một phần chúng ta cũng nên học hỏi các bạn sinh viên nghành y ở các tỉnh, các tình nguyện viên đã dám đứng ra và giúp chúng ta từng ngày và cực khổ chăm lo chúng ta để đẩy lùi dịch bệnh.

Qua những nội dung và các giải pháp về chuyên đề “ Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về ý chí tự lực, tự cường và khát vọng xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc” cho ta thấy được là sự vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh trong bối cảnh hiện nay, đáp ứng yêu cầu thực tiễn phát triển đất nước, nguyện vọng của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta trong công cuộc đẩy mạnh toàn diện và đồng bộ sự nghiệp đổi mới đất nước, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.

12. Bài thu hoạch khát vọng phát triển đất nước phồn vinh hạnh phúc

Câu 1: Những nội dung cơ bản trong tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc

1. Xây dựng, phát triển đất nước giàu mạnh, cường thịnh, nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài.

- Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, với cương vị là người đứng đầu Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh mong muốn xây dựng đất nước giàu mạnh, mang lại tự do, ấm no, hạnh phúc cho nhân dân. Tư tưởng của Người đã được nhấn mạnh tại Đại hội II của Đảng (1951): Xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, phú cường. Người nhiều lần nhắc nhở: “Nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”.

- Trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ ngày 03/9/1945, Người đã nêu lên những nhiệm vụ cấp bách của chính quyền đó là diệt giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm. Nói cách khác, tập trung giải quyết hai vấn đề trọng yếu: phục hồi và phát triển nội lực đất nước; đối ngoại linh hoạt tránh nguy cơ ngoại xâm, kéo dài thời gian chuẩn bị cho cuộc kháng chiến.

- Trong các nhiệm vụ và giải pháp cấp bách đó, Người đặc biệt chú trọng việc nâng cao dân trí, phục vụ công cuộc xây dựng, phát triển đất nước giàu mạnh. Trong thư gửi các học sinh nhân ngày khai trường đầu tiên của nước Việt Nam độc lập (05/9/1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cổ vũ, khích lệ: “Non sông Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay không, dân tộc Việt Nam có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em”.

- Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ, trước đây thực dân Pháp cai trị đã thực hiện chính sách ngu dân để dễ lừa dối, bóc lột dân ta, có tới 95% đồng bào ta không biết chữ. “Nay chúng ta đã giành được quyền độc lập. Một trong những công việc phải thực hiện cấp tốc trong lúc này là nâng cao dân trí”. Nạn thất học, kém hiểu biết là một cản trở lớn cho sự phát triển của đất nước và dân tộc. Người kêu gọi: “...Mọi người Việt Nam phải hiểu biết quyền lợi của mình, bổn phận của mình, phải có kiến thức mới để có thể tham gia vào công cuộc xây dựng nước nhà và trước hết phảibiết đọc, biết viết chữ quốc ngữ”.

- Bên cạnh việc nâng cao dân trí, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng chỉ ra nhiệm vụ quan trọng trong kiến thiết đất nước là bồi dưỡng nhân tài. “Kiến thiết cần có nhân tài. Nhân tài nước ta dù chưa có nhiều lắm nhưng nếu chúng ta khéo lựa chọn, khéo phân phối, khéo dùng thì nhân tài càng ngày càng phát triển càng thêm nhiều”.

- Xuyên suốt hai cuộc trường chinh kháng chiến chống lại các thế lực đế quốc thực dân Pháp và Mỹ, đường lối kiến thiết đất nước, từng bước hiện thực hóa vọng xây dựng và phát triển đất nước giàu mạnh, cường thịnh luôn được Đảng và Bác Hồ lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện một cách cụ thể, phù hợp, sáng tạo và quyết liệt.

- Trước lúc đi xa, trong Di chúc Người bày tỏ điều mong muốn cuối cùng, cũng là khát vọng tột bậc: “Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”.

- Những tư tưởng, khát vọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về một Việt Nam hùng cường tiếp tục được toàn Đảng, toàn dân tộc từng bước hiện thực hóa trong công cuộc xây dựng đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa, công cuộc đổi mới phát triển đất nước trong 35 năm qua và trong những chặng đường tiếp theo. Kết quả, thành tựu đem lại “rất quan trọng, khá toàn diện, tạo nhiều dấu ấn nổi bật”, như Văn kiện Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định: “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”.

2. Thực hiện khát vọng đất nước giàu mạnh, cường thịnh trong điều kiện Đảng cầm quyền, xây dựng chế độ mới, mưu cầu hạnh phúc, ấm no cho Nhân dân

- Hồ Chí Minh ngay từ khi ra đi tìm đường cứu nước đã mang khát vọng lớn lao: Độc lập cho Tổ quốc, tự do, hạnh phúc cho đồng bào. Người khẳng định: “Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”.

- Khi nước nhà độc lập, khát vọng ấm no, hạnh phúc của nhân dân trở thành động lực và mục tiêu hành động của toàn Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Trong tư tưởng của Người, hạnh phúc của người dân đơn giản là quyền sống, từ đó phát triển một dân tộc, một quốc gia hạnh phúc. Đó là một xã hội do nhân dân lao động làm chủ, bình đẳng, không có chế độ người bóc lột người, “một xã hội hoàn toàn mới mẻ, đầy tính nhân văn, “đưa quần chúng đến một cuộc sống xứng đáng, vẻ vang và ngày càng phồn vinh, làm cho mọi người lao động có một Tổ quốc tự do, hạnh phúc và hùng cường, hướng tới những chân trời tươi sáng”.

- Trong quá trình xây dựng đất nước, Người rất coi trọng các chính sách kinh tế nhằm đạt tới sự ổn định và phát triển xã hội, đem lại hạnh phúc cho con người. Người khẳng định Ðảng ta, Nhà nước ta từ nhân dân mà ra, vừa là người lãnh đạo vừa là người đầy tớ của nhân dân, không có lợi ích nào khác lợi ích của nhân dân.

- Cả cuộc đời hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh hiến dâng trọn vẹn cho cách mạng, “chỉ có một mục đích, là phấn đấu cho quyền lợi Tổ quốc, và hạnh phúc của quốc dân”. Trong Di chúc, Người dặn dò: “Đảng, Chính phủ và đồng bào phải tìm mọi cách làm cho họ có nơi ăn chốn ở yên ổn, đồng thời phải mở những lớp dạy nghề thích hợp với mỗi người để họ có thể dần dần “tự lực cánh sinh”. Mong muốn của Người là ai ai cũng được góp công sức vào sự nghiệp cách mạng của dân tộc và được hưởng thành quả do cách mạng mang lại. Ý chí, khát vọng độc lập của Tổ quốc, hạnh phúc cho Nhân dân, hùng cường cho dân tộc và tấm gương mẫu mực suốt đời phụng sự đất nước, phục vụ Nhân dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn là động lực, tư tưởng soi đường cho toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, bảo vệ vững chắc nền độc lập dân tộc, vì một Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc.

3. Xây dựng nền tảng kinh tế vững chắc, thực hiện một cách có kế hoạch với sự đồng lòng của Chính phủ và người dân.

- Hiện thực khát vọng đất nước phồn vinh, hạnh phúc theo tư tưởng Hồ Chí Minh là phải xây dựng chế độ chính trị dân chủ, tiến bộ, thật sự vì dân, xây dựng đời sống kinh tế, văn hóa - xã hội văn minh, tiến bộ với những giá trị đạo đức tốt đẹp. Muốn vậy, phải xây dựng nền tảng kinh tế vững chắc, có kế hoạch thực hiện với sự đồng lòng của Chính phủ và người dân.

- Đất nước giành được độc lập, vấn đề kiến thiết, phát triển kinh tế - xã hội trở nên cấp thiết. Ngày 31/12/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh số 78 về việc thiết lập “Ủy ban nghiên cứu kế hoạch kiến thiết” của Chính phủ. Phát biểu trong phiên họp đầu tiên của Ủy ban ngày 10/01/1946, Hồ Chí Minh mong muốn mọi người “đem tài năng tri thức lo bồi bổ về mặt kinh tế và xã hội”, “Làm cho dân có ăn. Làm cho dân có mặc. Làm cho dân có chỗ ở. Làm cho dân có học hành”.

- Trong thư gửi các giới công thương Việt Nam, Người viết: “Trong lúc các giới khác trong quốc dân ra sức hoạt động để giành lấy nền hoàn toàn độc lập của nước nhà, thì giới Công-Thương phải hoạt động để xây dựng một nền kinh tế và tài chính vững vàng và thịnh vượng. Chính phủ nhân dân và tôi sẽ tận tâm giúp giới Công-Thương trong công cuộc kiến thiết này”. Người nhấn mạnh, nền kinh tế quốc dân thịnh vượng nghĩa là các sự kinh doanh của các nhà công nghiệp, thương nghiệp thịnh vượng. Các nhà công nghiệp, thương nghiệp hãy cùng đem vốn vào làm những công cuộc ích quốc lợi dân. - Trong lĩnh vực nông nghiệp, Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: “Nước muốn giàu mạnh thì phải phát triển nông nghiệp”, “Chúng ta phải quý mỗi tấc đất như một tấc vàng”. Người khuyến khích: “Trong công cuộc xây dựng nước nhà, Chính phủ trông mong vào nông dân, trông cậy vào nông nghiệp một phần lớn. Nông dân ta giàu thì nước ta giàu. Nông nghiệp ta thịnh thì nước ta thịnh. Nông dân muốn giàu, nông nghiệp muốn thịnh, thì cần phải có hợp tác xã”.

- Theo Người, “muốn tiến lên chủ nghĩa xã hội thì phải phát triển công nghiệp nhưng đồng thời cũng phải phát triển nông nghiệp, vì hai ngành đó khăng khít với nhau... Nếu ngành công nghiệp phát triển mà ngành nông nghiệp không phát triển thì khập khễnh như người đi một chân”. Xuất phát từ điều kiện nước ta, sản xuất nông nghiệp có một vị trí hết sức quan trọng, Người chủ trương phải cải tạo và phát triển nông nghiệp thì mới có cơ sở để phát triển các ngành kinh tế khác, để tạo điều kiện cho việc công nghiệp hóa nước nhà. “Nhân dân ta, đặc biệt là công nhân và nông dân ta, phải hăng hái thi đua yêu nước, thực hiện khẩu hiệu: làm nhiều, nhanh, tốt, rẻ”. “Tự lực cánh sinh, tăng giasản xuất, thực hành tiết kiệm”. Có sự chung sức, đồng lòng của toàn Đảng, toàn xã hội, như vậy mới phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thúc đẩy sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ngày càng thắng lợi.

4. Phát huy tối đa nội lực dân tộc, tranh thủ ngoại lực, có chính sách mở cửa, thu hút đầu tư nước ngoài

- Vấn đề nội lực dân tộc là một điểm quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Với tinh thần “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”, ngay khi thời cơ đến, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, sức mạnh nội lực của hơn 20 triệu người dân Việt Nam đã được phát huy, làm nên thắng lợi vĩ đại của cuộc Cách mạng Tháng Tám, giành chính quyền về tay nhân dân.

- Sau ngày nền độc lập ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Tự lúc giành quyền độc lập đến nay, xứ Việt Nam ta vẫn hết sức cố gắng để một mặt yên nội trị, một mặt gây thực lực chống xâm lăng và tranh thủ ngoại giao được thắng lợi. Sức cố gắng ấy đã đem lại cho chúng ta những kết quả khả quan”. Điều này đã nói lên tinh thần, quan điểm, đường lối của Đảng và Bác Hồ trong xây dựng và bảo vệ đất nước là phát huy tối đa các nguồn lực bên trong, tranh thủ nguồn lực bên ngoài, có chính sách mở cửa, hỗ trợ phát triển nền kinh tế nhằm tạo nội lực dân tộc vững mạnh.

- Người tuyên bố: “Đối với các nước dân chủ, nước Việt Nam sẵn sàng thực thi chính sách mở cửa và hợp tác trong mọi lĩnh vực”, “Nước Việt Nam dành sự tiếp nhận thuận lợi cho đầu tư của các nhà tư bản, nhà kỹ thuật nước ngoài trong tất cả các ngành kỹ nghệ của mình”.

- Quan điểm của Người trong việc mở cửa, hợp tác quốc tế không chỉ nhằm mục đích nhận được sự giúp đỡ của bạn bè quốc tế, mà thông qua đó thu hút ngoại lực, thu hút đầu tư, tạo ra những điều kiện phát huy tiềm năng của đất nước, phát triển kinh tế, nâng cao đời sống của nhân dân. Các nước bạn giúp ta cũng như thêm vốn cho ta, do vậy phải sử dụng có hiệu quả các nguồn lực từ bên ngoài. Ta phải khéo dùng cái vốn ấy để bồi bổ lực lượng, phát triển khả năng của ta, tức là có thêm điều kiện để tự lực cánh sinh.

- Ngay từ cuộc kháng chiến chống Pháp, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu rõ vấn đề này trong đường lối kháng chiến, đường lối kiến thiết đất nước.

Người chỉ rõ phải phát triển toàn diện kinh tế từ nông nghiệp, công nghiệp, thương nghiệp tới phát triển dịch vụ, mở rộng giao lưu kinh tế với các nước, trước hết là các nước anh em, các nước xã hội chủ nghĩa. Suốt cuộc kháng chiến, mặc dù tình hình thế giới diễn biến phức tạp, song Người vẫn cố gắng mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, tranh thủ sự ủng hộ, giúp đỡ của các nước bạn cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. “Cuộc kháng chiến lâu dài của chúng ta được thắng lợi là do nơi chúng ta động viên kinh tế được thành công, vì chúng ta có biết động viên kinh tế một cách khôn khéo, thực lực của chúng ta mới được đầy đủ và bền bỉ”.

- Trong thời kỳ kháng chiến chống đế quốc Mỹ, ý chí tự lực, tự cường được khơi dậy mạnh mẽ trong toàn Đảng và nhân dân hai miền Nam – Bắc nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ thống nhất đất nước, bảo toàn nền độc độc lập, đưa cả nước tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Thời gian này, chúng ta tiếp tục nhận được rất nhiều sự ủng hộ, giúp đỡ từ các nước anh em và bè bạn quốc tế. Điều này một lần nữa khẳng định quan điểm, đường lối đúng đắn của Đảng và Bác về coi trọng nội lực, khéo léo tranh thủ, tận dụng ngoại lực, xây dựng, phát triển và bảo vệ đất nước.

5. Luôn xuất phát từ hoàn cảnh cụ thể của đất nước, vận dụng sáng tạo lý luận vào thực tiễn để đưa ra những quan điểm, chủ trương phù hợp; không giáo điều, máy móc trong học tập kinh nghiệm của nước khác

- Công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam được Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt ra trên cơ sở nhận thức khoa học, đúng đắn lý luận chủ nghĩa Mác-Lênin, phù hợp với thực tiễn đất nước. Từ thực tiễn, hoàn cảnh nước ta là một nước nông nghiệp lạc hậu, lại trải qua chiến tranh, Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, xây dựng chủ nghĩa xã hội “không thể làm mau được mà phải làm dần dần”, “làm sao cho dân giàu nước mạnh”.

- Độc lập, sáng tạo trong tư duy, quan điểm, chủ trương và hành động là phong cách nổi bật của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Theo Người, xây dựng, phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa đòi hỏi Việt Nam phải có cách làm, bước đi và biện pháp thích hợp. “Ta không thể giống Liên Xô, vì Liên Xô có phong tục tập quán khác, có lịch sử địa lý khác… ta có thể đi con đường khác để tiến lên chủ nghĩa xã hội”.

- Chúng ta phải học tập kinh nghiệm các nước anh em và áp dụng những kinhnghiệm ấy một cách sáng tạo. Chúng ta phải nâng cao sự tu dưỡng về chủ nghĩa Mác - Lênin để dùng lập trường, quan điểm, phương pháp chủ nghĩa Mác - Lênin mà tổng kết những kinh nghiệm của Đảng ta, phân tích một cách đúng đắn những đặc điểm của nước ta. Có như thế, chúng ta mới có thể dần dần hiểu được quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam, định ra được những đường lối, phương châm, bước đi cụ thể của cách mạng xã hội chủ nghĩa thích hợp với tình hình nước ta.

Những chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh có giá trị chỉ đạo thực tiễn và nghiên cứu lý luận về sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước theo con đường của chủ nghĩa xã hội, trở thành cơ sở, nền tảng tư tưởng đặc biệt quan trọng để Đảng đổi mới tư duy lý luận, nắm bắt thực tiễn, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan, hoạch định đường lối đổi mới tại Đại hội lần thứ VI của Đảng (12/1986) và lãnh đạo sự nghiệp đổi mới trong các giai đoạn cách mạng để Việt Nam có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay.

Câu 2: “Khát vọng phát triển đất nước” là một trong những nội dung mới được đề cập và xuất hiện rất nhiều lần trong các nội dung văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng, nó chi phối những quan điểm chỉ đạo, tầm nhìn và định hướng, mục tiêu và nhiệm vụ mà Đảng nêu ra.

Trong chủ đề Đại hội XIII của Đảng, khát vọng phát triển đất nước được thể hiện như một tuyên ngôn chính trị của Đảng ta: Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước, phát huy ý chí, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; tiếp tục đẩy mạnh toàn diện và đồng bộ công cuộc đổi mới; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng XHCN.

Trong các quan điểm chỉ đạo, tầm nhìn và định hướng phát triển: Khát vọng phát triển đất nước được thể hiện:

-Kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; kiên định đường lối đổi mới của Đảng; kiên định các nguyên tắc xây dựng Đảng để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đây là vấn đề mang tính nguyên tắc, bất di, bất dịch; đó là con đường duy nhất đúng đắn để xây dựng và phát triển đất nước.

-Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi. Tiếp tục phát triển nhanh và bền vững đất nước; gắn kết chặt chẽ và triển khai đồng bộ các nhiệm vụ, trong đó phát triển kinh tế - xã hội là trung tâm; xây dựng Đảng là then chốt; phát triển văn hóa là nền tảng tinh thần; bảo đảm quốc phòng, an ninh là trọng yếu, thường xuyên.

- Khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý chí tự cường dân tộc, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị và của nền văn hóa, con người Việt Nam, bồi dưỡng sức dân, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, có cơ chế thu hút, trọng dụng nhân tài, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, ứng dụng mạnh mẽ khoa học và công nghệ, nhất là những thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, tạo động lực mới cho phát triển nhanh và bền vững đất nước.

- Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; nêu cao ý chí độc lập, tự chủ, chủ động, tích cực hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, trong đó nguồn lực nội sinh, nhất là nguồn lực con người là quan trọng nhất

- Tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện, xây dựng Nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là đội ngũ cán bộ cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ, gắn bó mật thiết với nhân dân là những nhân tố có ý nghĩa quyết định thành công của sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước, bảo vệ Tổ quốc.

Trong mục tiêu tổng quátvà mục tiêu cụ thể: Nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực cầm quyền và sức chiến đấu của Đảng; xây dựng Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; củng cố, tăng cường niềm tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ xã hội chủ nghĩa; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy ý chí và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại; đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; phấn đấu đến giữa thế kỷ XXI, nước ta trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa.

Mục tiêu cụ thể đến năm 2025, kỷ niệm 50 năm giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước: Là nước đang phát triển, có công nghiệp theo hướng hiện đại, vượt qua mức thu nhập trung bình thấp. Đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng: Là nước đang phát triến, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao. Đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, nay là nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Trở thành nước phát triển, thu nhập cao.

Trong định hướng phát triển đất nước giai đoạn 2022 – 2030 Đảng ta khẳng định:

Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển bền vững về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường..., tháo gỡ kịp thời những khó khăn, vướng mắc; khơi dậy mọi tiềm năng và nguồn lực, tạo động lực mới cho sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước.

Hoàn thiện toàn diện, đồng bộ thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tạo môi trường thuận lợi để huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực, thúc đẩy đầu tư, sản xuất kinh doanh. Bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, đổi mới mạnh mẽ mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; tập trung xây dựng kết cấu hạ tầng và phát triển đô thị; phát triển kinh tế nông thôn gắn với xây dựng nông thôn mới; đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia; phát triển kinh tế số trên nền tảng khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế.

Tạo đột phá trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, thu hút và trọng dụng nhân tài. Thúc đẩy nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng mạnh mẽ thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, chú trọng một số ngành, lĩnh vực trọng điểm, có tiềm năng, lợi thế để làm động lực cho tăng trưởng theo tinh thần bắt kịp, tiến cùng và vượt lên ở một số lĩnh vực so với khu vực và thế giới.

Phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc để văn hóa thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Tăng đầu tư cho phát triển sự nghiệp văn hóa. Xây dựng, phát triển, tạo môi trường và điều kiện xã hội thuận lợi nhất để khơi dậy truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc, niềm tin, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc; tài năng, trí tuệ, phẩm chất của con người Việt Nam là trung tâm, mục tiêu và động lực phát triển quan trọng nhất của đất nước.

Quản lý phát triển xã hội có hiệu quả, nghiêm minh, bảo đảm an ninh xã hội, an ninh con người; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; xây dựng môi trường văn hoá, đạo đức xã hội lành mạnh, văn minh; chú trọng nâng cao chất lượng dịch vụ y tế, chất lượng dân số, gắn dân số với phát triển; quan tâm đến mọi người dân, bảo đảm chính sách lao động, việc làm, thu nhập, thực hiện tốt phúc lợi xã hội, an sinh xã hội. Không ngừng cải thiện toàn diện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.

Chủ động thích ứng có hiệu quả với biến đổi khí hậu, phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai, dịch bệnh; quản lý, khai thác, sử dụng hợp lý, tiết kiệm, hiệu quả và bền vững tài nguyên; lấy bảo vệ môi trường sống và sức khoẻ nhân dân làm mục tiêu hàng đầu…

Kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Giữ vững an ninh chính trị, bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, an ninh kinh tế, an ninh mạng, an ninh con người, xây dựng xã hội trật tự, kỷ cương. Chủ động ngăn ngừa các nguy cơ chiến tranh, xung đột từ sớm, từ xa; phát hiện sớm và xử lý kịp thời những nhân tố bất lợi, nhất là những nhân tố có thể gây đột biến; đẩy mạnh đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hoạt động chống phá của các thế lực thù địch

Tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hoá, đa dạng hoá; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, có hiệu quả; bảo vệ vững chắc Tổ quốc, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, không ngừng nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của Việt Nam

Thực hành và phát huy rộng rãi dân chủ xã hội chủ nghĩa, quyền làm chủ và vai trò tự quản của nhân dân; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc; củng cố, nâng cao niềm tin của nhân dân, tăng cường đồng thuận xã hội; tiếp tục đổi mới tổ chức, nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội.

Xây dụng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trong sạch, vững mạnh, tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả, vì nhân dân phục vụ và vì sự phát triển của đất nước…

Tiếp tục nắm vững và xử lý tốt các quan hệ lớn trong quá trình đi lên xây dựng CNXH ở nước ta.

Trong nhiệm vụ trọng tâm và đột phá chiến lược thể hiện:

Tại nhiệm vụ trọng tâm thứ 4 báo cáo chính trị Đại hội XIII của Đảng khẳng định:

Khơi dậy khát vọng phát triển đất nước Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc; phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hội nhập quốc tế, nâng cao chất lượng cuộc sống và chỉ số hạnh phúc của con người Việt Nam.

Tại bước đột phá chiến lược thứ hai thể hiện: Phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; ưu tiên phát triển nguồn nhân lực cho công tác lãnh đạo, quản lý và các lĩnh vực then chốt trên cơ sở nâng cao, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện, cơ bản về chất lượng giáo dục và đào tạo gắn với cơ chế tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ nhân tài, đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng và phát triển mạnh khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam, tinh thần đoàn kết, tự hào dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

13. Bài thu hoạch chính trị hè năm 2024

Họ và tên: ………………………………………………………………………………

Chức vụ: ……………………………………………………………………………….

Đơn vị công tác:………………………………………………………………………..

Câu hỏi:

Anh, chị hiểu như thế nào về cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư? Cuộc cách mạng này có tác động như thế nào đối với ngành giáo dục? Theo anh, chị ngành giáo dục cần làm gì để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho xã hội trong thời đại của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0?

Bài làm

Thế nào là cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư?

Cách mạng công nghiệp 4.0 hay còn gọi là cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 trên thế giới đang diễn ra tại nhiều nước phát triển.

Cuộc cách mạng 4.0 là sự gắn kết giữa các nền công nghệ, làm xóa đi ranh giới giữa thế giới vật thể, thế giới số hóa và thế giới sinh học. Đó là các công nghệ internet vạn vật, trí tuệ nhân tạo, người máy, xe tự lái, in ba chiều, máy tính siêu thông minh, công xưởng thông minh, công nghệ nano, công nghệ sinh học… Đây là cuộc cách mạng về sản xuất thông minh dựa trên các thành tựu đột phá trong các lĩnh vực công nghệ khác nhau với nền tảng là các đột phá của công nghệ số. Trung tâm củacuộc cách mạng 4.0 là công nghệ thông tin và internet kết nối vạn vật (IoT), không chỉ giúp con người giao tiếp với con người, mà còn là con người giao tiếp với máy, con người giao tiếp với đồ vật và đồ vật giao tiếp với nhau.

Tác động của cuộc cách mạng 4.0 tới ngành giáo dục:

Sự tác động của cuộc cách mạng 4.0 tới giáo dục là rất lớn, vừa tạo ra cơ hội nhưng cũng đặt ra những thách thức ngày càng nhiều hơn cho các cơ sở giáo dục.. Cụ thể là:

Tạo ra nhu cầu đào tạo cao cho các cơ sở giáo dục. Trong mọi lĩnh vực ngành nghề, những bước đi có tính đột phá về công nghệ mới như trí thông minh nhân tạo, robot, mạng internet, phương tiện độc lập, in 3D, công nghệ nano, công nghệ sinh học, khoa học về vật liệu, lưu trữ năng lượng và tin học lượng tử sẽ còn tác động mạnh mẽ hơn tới đời sống xã hội. Trong cuộc cách mạng 4.0, hệ thống giáo dục nghề nghiệp sẽ bị tác động rất mạnh và toàn diện, danh mục nghề đào tạo sẽ phải điều chỉnh, cập nhật liên tục vì các ranh giới giữa các lĩnh vực rất mỏng manh. Theo đó, sẽ là sự liên kết giữa các lĩnh vực lý - sinh; cơ - điện tử - sinh, từ đó hàng loạt nghề nghiệp cũ sẽ mất đi và thay vào đó là cơ hội cho sự phát triển của những ngành nghề đào tạo mới, đặc biệt là sự liên quan đến sự tương tác giữa con người và máy móc. Thị trường lao động trong nước cũng như quốc tế sẽ có sự phân hóa mạnh mẽ giữa nhóm lao động có trình độ thấp và nhóm lao động có trình độ cao. Các nhà nghiên cứu chỉ ra rằng, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 không chỉ đe dọa tới việc làm của những lao động trình độ thấp, mà ngay cả lao động có kỹ năng bậc trung cũng sẽ bị ảnh hưởng nếu họ không được trang bị kiến thức mới - kỹ năng sáng tạo cho nền kinh tế 4.0. Cách mạng công nghiệp 4.0 không chỉ tạo ra cơ hội đào tạo những người mới chưa qua đào tạo, còn đòi hỏi ngay cả những người đã đi làm, từ công nhân đến kỹ sư đều phải thay đổi, cập nhật về kiến thức, kỹ năng ở mức độ cao hơn. Theo mục tiêu của Chính phủ, năm 2020, nước ta sẽ có khoảng 1.000.000 doanh nghiệp, tức là cũng cần một triệu cán bộ công nghệ thông tin. Tuy nhiên, hiện nay chúng ta mới có 300.000 cán bộ công nghệ thông tin, nên chỉ riêng nhu cầu đào tạo mới của ngành này để cung cấp cho xã hội một lực lượng lao động làm chủ công nghệ thông tin đã là cơ hội lớn cho các trường đào tạo.

Làm thay đổi mọi hoạt động trong các cơ sở đào tạo. Để đáp ứng đủ nhân lực cho nền kinh tế sáng tạo, đòi hỏi phải thay đổi các hoạt động đào tạo, nhất là ngành nghề đào tạo, hình thức và phương pháp đào tạo với sự ứng dụng mạnh mẽ củacông nghệ thông tin. Theo đó, các phương thức giảng dạy cũ không còn phù hợp với nhu cầu của xã hội. Với sự vận dụng những thành tựu của cách mạng 4.0 thì người học ở bất cứ đâu đều có thể truy cập vào thư viện của nhà trường để tự học, tự nghiên cứu. Như vậy, không thể chỉ tồn tại mô hình thư viện truyền thống mà các trường phải xây dựng được thư viện điện tử. Hoặc chúng ta sẽ có những mô hình giảng dạy mới như đào tạo trực tuyến không cần lớp học, không cần giáo viên đứng lớp, người học sẽ được hướng dẫn học qua mạng. Những lớp học ảo, thầy giáo ảo, thiết bị ảo có tính mô phỏng, bài giảng được số hóa và chia sẻ qua những nền tảng như Facebook, YouTube, Grab, Uber... sẽ trở thành xu thế phát triển trong hoạt động đào tạo nghề nghiệp trong thời gian tới. Khi đó, kiến thức không thể bó hẹp và độc quyền bởi một người hay trong một phạm vi tổ chức. Người học có nhiều cơ hội để tiếp cận, tích lũy, chắt lọc cái mới, cái hay, có nhiều cơ hội để trở thành một công dân toàn cầu - người lao động tương lai có khả năng làm việc trong môi trường sáng tạo và có tính cạnh tranh. Phần thưởng cuối cùng không còn là bằng cấp trên giấy tờ nữa, mà là bằng cấp theo nghĩa mở rộng, trao đổi tri thức, sáng tạo, giá trị đóng góp cho xã hội. Bởi một doanh nghiệp tuyển dụng là cần người làm được việc chứ không cần người có văn bằng cao. Từ đó có thể bỏ việc yêu cầu về bằng cấp hay xem đó là điều kiện tiên quyết khi tuyển dụng lao động. Như vậy, các cơ sở giáo dục sẽ phải chuyển đổi mạnh mẽ sang mô hình chỉ đào tạo “những gì thị trường cần”, những nội dung của các môn cơ bản sẽ phải được rút ngắn và thay thế vào đó là những nội dung cần thiết để đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp, của nền kinh tế nói chung và đảm bảo để người học thực hiện được phương châm “học tập suốt đời”. Theo mô hình mới này, việc gắn kết giữa cơ sở giáo dục đào tạo với doanh nghiệp là yêu cầu tất yếu để bổ sung cho nhau. Đồng thời, đẩy mạnh việc hình thành các cơ sở đào tạo trong doanh nghiệp để phân chia các nguồn lực chung, làm cho các nguồn lực được sử dụng một cách tối ưu hơn. Điều này sẽ tác động đến việc bố trí cán bộ quản lý, phục vụ và đội ngũ giáo viên của các cơ sở giáo dục nghề nghiệp. Khi đó, tại các cơ sở giáo dục, tất cả các dữ liệu của người học từ mã số, điểm số, thông tin cá nhân... đều đã được số hóa tại một nơi lưu trữ. Trong nhiều trường hợp, người dạy chỉ cần “vứt” tài liệu lên “mây” (Cloud), tất cả mọi người tranh luận trên “mây” mà vẫn đảm bảo được sự riêng tư, hiệu quả và tính đồng bộ. Trước thực tế này, nếu các trường không thay đổi thì sẽ không có người học. Doanh nghiệp nói riêng và thị trường nói chung có nhu cầu như thế nào, thì người học sẽ càng hướng tới tìm học những nơi đáp ứng được nhu cầu đó. Đây thực sự là một thách thức vì hầu như các trường hiện nay mới chỉ dừng lại ở mức độ giáo viên giảng dạy bằng máy chiếu, video, chia sẻ tài liệu trên mạng. Kinh phí eo hẹp cũng là một trong những điểm chính khiến các ứng dụng khoa học công nghệ chưa phát triển trong trường học.

Ngành giáo dục cần làm:

Đổi mới phương thức đào tạo, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, công nghệ số vào trong hoạt động giảng dạy và học, nâng cao năng lực và chất lượng của đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý.

Đẩy mạnh xây dựng cơ sở vật chất, bao gồm: cơ ngơi trường học, trang thiết bị hiện đại, thư viện...

Phải đặc biệt quan tâm đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục (CBQLGD) các cấp, từ cấp bộ đến địa phương (sở, quận, huyện) thật sự có đức, có tài; đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ giáo viên có trình độ cao, năng lực chuyên môn giỏi và có tư cách đạo đức tốt.

Cải cách chế độ tiền lương, thực hiện tốt chế độ thâm niên (cho GV và CBQLGD và GV đã nghỉ hưu các thời kỳ), thiết thực chăm lo nâng cao đời sống cho họ.

Tăng cường tự học và trau dồi tiếng Anh cho giáo viên và học sinh.

Bên cạnh hoạt động đào tạo, cần tích cực tham gia công tác nghiên cứu khoa học để nâng cao trình độ, kiến thức chuyên môn, gắn nghiên cứu với các hoạt động chuyển giao tại cơ sở, đặc biệt chú trọng các nghiên cứu mô phỏng, nghiên cứu tương tác…

Cần đẩy mạnh công tác dự báo nhu cầu thị trường nhân lực trong tương lai gần và xa hơn

Cần sự kết hợp 3 “nhà”: Nhà trường – Nhà khoa học – Nhà doanh nghiệp trong đào tạo nhân lực phục vụ CMCN 4.0

Các trường đại học ở Việt Nam cần học tập, kinh nghiệm đào tạo của các trường đại học ở nước ngoài, trong việc xây dựng các trung tâm đổi mới sáng tạo gắn rất chặt với doanh nghiệp. Nhờ những trung tâm đó, sinh viên được học tập ở môi trường rất thật; các doanh nghiệp liên kết với các trường để tìm nguồn nhân lực tương lai.

Hoạt động của trung tâm đổi mới sáng tạo ở trường phải thiết thực và đi cùng với nhịp thở cuộc sống, thoát ly lý thuyết thuần tuý. Từ đây, cần xây dựng môi trường dạy và học mà phải gắn rất chặt với môi trường kinh doanh, với thực tiễn đặt hàng của xã hội…

Cần rà soát, sắp xếp, quy hoạch lại mạng lưới cơ sở giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp gắn với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội và nhu cầu của thị trường lao động trong cả nước, từng vùng và địa phương.

Nâng cao chất lượng đào tạo của các trường sư phạm. Thực hiện tốt công tác tuyển sinh đại học, cao đẳng. Xây dựng cơ chế, chính sách phân luồng giáo dục, gắn với đào tạo nghề và phát triển kỹ năng nghề nghiệp cho học sinh phổ thông.

Đổi mới nội dung, phương thức đào tạo nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp; Nâng cao chất lượng đào tạo một số trường đại học, một số nghề tiếp cận trình độ các nước phát triển trong ASEAN và thế giới.

14. Bài thu hoạch chính trị hè

14.1. Bài thu hoạch Chính trị hè 2024 Mẫu 1

Câu 1: Anh (chị) hãy trình bày những điều cơ bản tại Quy định trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên trong Quy định số 08-QĐ/TW, ngày 25/10/2018 của Chấp hành Trung ương).

Câu 2: Hãy nêu những hành động thiết thực của mình để thể hiện trách nhiệm nêu gương của bản thân người giáo viên trong môi trường sư phạm?

Gợi ý trả lời

Câu 1: Quy định trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên số 08-QĐ/TW, ngày 25/10/2018 của Chấp hành Trung ương:

Điều 1. Cán bộ, đảng viên, trước hết là Uỷ viên Bộ Chính trị, Uỷ viên Ban Bí thư, Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương phải nghiêm chỉnh chấp hành Cương lĩnh, Điều lệ, nghị quyết, chỉ thị, quy định, quy chế của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; gương mẫu thực hiện Quy định số 101-QĐ/TW, ngày 07/6/2012 của Ban Bí thư về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, chủ chốt các cấp; Quy định số 55-QĐ/TW, ngày 19/12/2016 của Bộ Chính trị về một số việc cần làm ngay để tăng cường trách nhiệm nêu gương. Cán bộ, đảng viên giữ chức vụ càng cao càng phải gương mẫu nêu gương.

Điều 2. Uỷ viên Bộ Chính trị, Uỷ viên Ban Bí thư, Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương phải gương mẫu đi đầu thực hiện:

1. Tuyệt đối trung thành với Tổ quốc, với nhân dân, với Đảng Cộng sản Việt Nam. Nghiên cứu, nắm vững hệ thống các nguyên tắc cơ bản và kiên quyết bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Có lập trường tư tưởng vững vàng, quan điểm đúng đắn, chính kiến rõ ràng trước những vấn đề mới, khó, phức tạp, nhạy cảm. Chủ động ngăn chặn, phản bác các thông tin, quan điểm xuyên tạc, sai trái, thù địch.

2. Hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân, vì lợi ích của nhân dân, của quốc gia - dân tộc và mục tiêu, lý tưởng cách mạng của Đảng. Không làm bất

cứ việc gì có hại cho Đảng, cho đất nước và nhân dân. Lấy ấm no, hạnh phúc và sự hài lòng của nhân dân làm mục tiêu phấn đấu.

3. Thực hành phong cách lãnh đạo khoa học, dân chủ, sâu sát thực tiễn, hiệu quả; thực sự là hạt nhân đoàn kết, quy tụ, tạo động lực và phát huy trí tuệ tập thể. Chỉ đạo quyết liệt, hiệu quả công tác cải cách hành chính, ứng dụng thành tựu khoa học, công nghệ.

4. Sẵn sàng nhận và nỗ lực hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ khi được phân công. Tâm huyết, tận tuỵ với công việc. Tích cực giải quyết dứt điểm các vấn đề phức tạp, bức xúc, tồn đọng kéo dài; chủ động, kịp thời xử lý có hiệu quả các tình huống khẩn cấp, đột xuất, bất ngờ trong địa phương, lĩnh vực mình phụ trách.

5. Tích cực thực hiện quy định về phân cấp, phân quyền và kiểm soát chặt chẽ quyền lực. Chủ động thực hiện chủ trương thí điểm của Trung ương; khuyến khích mô hình, cách làm mới, hiệu quả. Năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm; tìm tòi, đổi mới, phát huy tiềm năng, thế mạnh của địa phương, ngành, lĩnh vực do mình phụ trách.

6. Giữ vững nguyên tắc, dân chủ, công tâm, khách quan, công khai, minh bạch trong công tác cán bộ. Chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ kế cận. Chủ động, tích cực phát hiện, thu hút, trọng dụng người có đức, có tài, khát khao cống hiến. Bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì sự nghiệp của Đảng, vì lợi ích quốc gia - dân tộc.

7. Không ngừng học tập, tu dưỡng, rèn luyện, trau dồi đạo đức cách mạng. Mẫu mực về đạo đức, lối sống. Thực sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; trung thực, giản dị, thẳng thắn, chân thành.

8. Nghiêm túc thực hành tự phê bình và phê bình; thấy đúng phải cương quyết bảo vệ, thấy sai phải quyết liệt đấu tranh; không tranh công đổ lỗi. Dũng cảm nhận khuyết điểm và trách nhiệm. Chủ động xin từ chức khi thấy mình không còn đủ điều kiện, năng lực, uy tín để thực hiện nhiệm vụ.

Điều 3. Uỷ viên Bộ Chính trị, Uỷ viên Ban Bí thư, Uỷ viên Ban Chấp hành Trung ương phải nghiêm khắc với bản thân và kiên quyết chống:

1. Chủ nghĩa cá nhân, cục bộ, bản vị. Lợi dụng tập thể để né tránh trách nhiệm hoặc lấy danh nghĩa tập thể thực hiện mục đích cá nhân. Nói không nhất quán, nói không đi đôi với làm, nói nhiều làm ít.

2. Độc đoán, chuyên quyền, quan liêu, xa dân, thờ ơ, vô cảm trước những khó khăn, bức xúc của nhân dân. Định kiến với người góp ý, phê bình. Trực tiếp, mượn danh hoặc cung cấp tài liệu cho người khác để nói, viết, đăng tin, bài sai sự thật nhằm đề cao tập thể, cá nhân mình hoặc hạ thấp uy tín của tập thể, cá nhân khác trên các phương tiện truyền thông, mạng xã hội.

3. Chủ trì tham mưu, ban hành cơ chế, chính sách trái chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, làm ảnh hưởng đến uy tín của Đảng hoặc gây thiệt hại đối với lợi ích của Nhà nước, tập thể và công dân.

4. Chạy hoặc tiếp tay cho chạy chức, chạy quyền, chạy phiếu bầu, chạy phiếu tín nhiệm. Can thiệp không đúng thẩm quyền, trách nhiệm, trái quy định vào công tác cán bộ; đề bạt, bổ nhiệm, bố trí cán bộ không đủ tiêu chuẩn, điều kiện theo quy định, nhất là đối với người nhà, người thân.

5. Tham nhũng, hối lộ dưới mọi hình thức; tặng quà, nhận quà vì vụ lợi. Can thiệp không đúng thẩm quyền, trách nhiệm, trái quy định vào công tác kiểm tra, thanh tra, kiểm toán, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án; đối với việc đề xuất, cho chủ trương, thẩm định, phê duyệt, đấu thầu, chỉ định thầu các dự án, đề án kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh; đấu giá đất đai, tài sản nhà nước.

6. Lãng phí công quỹ, tài sản, phương tiện, nhân lực và thời gian làm việc. Tổ chức đoàn đi công tác ở trong và ngoài nước không đúng thành phần, thời gian và nội dung yêu cầu công việc. Sống, sinh hoạt, tiêu dùng, giải trí xa hoa, lãng phí.

7. Lợi dụng doanh nghiệp hoặc để doanh nghiệp lợi dụng nhằm vụ lợi. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn, uy tín để sử dụng, vay, mượn tiền, tài sản, phương tiện của tổ chức, cá nhân trái quy định.

8. Để vợ (chồng), bố, mẹ, con, anh chị em ruột lợi dụng chức vụ, quyền hạn, uy tín của mình để vụ lợi. Để vợ (chồng), con đẻ, con nuôi sống xa hoa, phô trương, lãng phí hoặc sa vào tệ nạn xã hội, vi phạm pháp luật.

Câu 2: Hãy nêu những hành động thiết thực của mình để thể hiện trách nhiệm nêu gương của bản thân người giáo viên trong môi trường sư phạm?

Nói đến trách nhiệm nêu gương là nói đến một trong những nhiệm vụ hàng đầu trong chương trình dạy học của ngành giáo dục. Trước đây, khi chưa có Quy định nêu gương của Trung Ương Đảng thì trong ngành giáo dục cũng đã có quy định này và đó được đưa vào một phương pháp dạy học chủ chốt trong các phương pháp dạy học của người giáo viên. Đó là phương pháp “Nêu gương”.

Vậy trước hết chúng ta cần hiểu nêu gương là gì?

Nêu gương là lấy hành động, việc làm tốt của bản thân làm gương trước mọi người để mọi người cùng học tập làm theo. Để nêu gương trước hết bản thân phải có đạo đức trong sáng, lành mạnh, nhân cách tốt và hành động đúng đắn. Học đi đôi với hành, mọi lời nói và hành động phải chuẩn mực và hiệu quả để mọi người nhìn vào đó như là hình mẫu và cùng nhau học tập.

“Muốn hướng dẫn nhân dân, mình phải mực thước cho người ta bắt chước”, cách nói giản dị đó là của Bác Hồ về trách nhiệm và bổn phận nêu gương của cán bộ, đảng viên, về công tác giáo dục, rèn luyện cán bộ, nhằm xây dựng đội ngũ những người tiêu biểu nhất, tiên tiến nhất, xứng tầm lãnh đạo cách mạng. Để thực sự nêu gương, người cán bộ, đảng viên phải không ngừng rèn luyện, tu dưỡng cả về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, trách nhiệm, tác phong công tác, ý thức tổ chức kỷ luật, quan hệ với quần chúng nhân dân…

Càng giữ chức vụ cao, yêu cầu, đòi hỏi càng lớn. Bản thân mỗi cán bộ, đảng viên phải nói đúng, làm đúng, đạo đức lối sống phải trong sáng, lành mạnh, tác phong công tác phải mẫu mực, quần chúng mới tin tưởng, yêu mến và noi theo. Làm sao có thể nêu gương khi bản thân cán bộ, đảng viên vi phạm nguyên tắc, quy định, điều lệ Đảng, vi phạm chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước, không thực hiện đúng chức trách, nhiệm vụ được giao, không trung thực trong kê khai tài sản, thu nhập, lợi dụng chức trách nhiệm vụ được giao để trục lợi, lo vun vén cá nhân, ưu ái cho người thân, gia đình trong quy hoạch, luân chuyển, bổ nhiệm cán bộ…

Làm sao nhân dân có thể yêu mến, tin cậy những ông quan “nói một đằng, làm một nẻo,” kêu gọi người khác sống lành mạnh, tiết kiệm, trong khi bản thân sống xa hoa, lãng phí bằng tài sản, công quỹ nhà nước, bằng tiền thuế của dân, cờ bạc, tiệc tùng vô độ…

Những ung nhọt đó nếu không sớm cắt bỏ sẽ “làm giảm sút vai trò lãnh đạo của Đảng, làm tổn thương tình cảm và suy giảm niềm tin của nhân dân với Đảng, là một nguy cơ trực tiếp đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ”, như nghị quyết trung ương 4 Khóa XII nhận định.

Đặc biệt trong môi trường sư phạm, vai trò nêu gương càng phải được thực hiện và phát huy hằng ngày cho học sinh. Trước hết là người giáo viên, tôi luôn phấn đấu một người thầy mẫu mực về nhân cách, trong sáng về đạo đức để các em noi theo, Mọi việc làm và hành động của mình luôn ở mức chuẩn mực, có thể mình chưa giỏi toàn diện trong chuyên môn nhưng bản thân luôn cầu tiến, không ngừng học tập để nâng cao trình độ đồng thời cũng là làm gương chăm chỉ cho học sinh có động lực vươn lên.

Ngoài ra trong giảng dạy, tôi luôn chọn những em học sinh có gương tốt để nêu trong mỗi tiết dạy nhằm khơi dậy tính học tập lẫn nhau, noi gương lẫn nhau cho các em cùng tiễn bộ. Với phương châm “Mỗi thầy cô giáo là một tấm gương đạo đức tự học và sáng tạo” để làm nền tảng cho học sinh noi theo.

14.2. Bài thu hoạch Chính trị hè 2024 Mẫu 2

Anh, chị hiểu như thế nào về cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư? Cuộc cách mạng này có tác động như thế nào đối với ngành giáo dục? Theo anh, chị ngành giáo dục cần làm gì để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cho xã hội trong thời đại của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0?

Gợi ý trả lời

Thế nào là cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư?

Cách mạng công nghiệp 4.0 hay còn gọi là cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 trên thế giới đang diễn ra tại nhiều nước phát triển.

Cuộc cách mạng 4.0 là sự gắn kết giữa các nền công nghệ, làm xóa đi ranh giới giữa thế giới vật thể, thế giới số hóa và thế giới sinh học. Đó là các công nghệ internet vạn vật, trí tuệ nhân tạo, người máy, xe tự lái, in ba chiều, máy tính siêu thông minh, công xưởng thông minh, công nghệ nano, công nghệ sinh học… Đây là cuộc cách mạng về sản xuất thông minh dựa trên các thành tựu đột phá trong các lĩnh vực công nghệ khác nhau với nền tảng là các đột phá của công nghệ số. Trung tâm của cuộc cách mạng 4.0 là công nghệ thông tin và internet kết nối vạn vật (IoT), không chỉ giúp con người giao tiếp với con người, mà còn là con người giao tiếp với máy, con người giao tiếp với đồ vật và đồ vật giao tiếp với nhau.

Tác động của cuộc cách mạng 4.0 tới ngành giáo dục:

Sự tác động của cuộc cách mạng 4.0 tới giáo dục là rất lớn, vừa tạo ra cơ hội nhưng cũng đặt ra những thách thức ngày càng nhiều hơn cho các cơ sở giáo dục.. Cụ thể là:

Tạo ra nhu cầu đào tạo cao cho các cơ sở giáo dục. Trong mọi lĩnh vực ngành nghề, những bước đi có tính đột phá về công nghệ mới như trí thông minh nhân tạo, robot, mạng internet, phương tiện độc lập, in 3D, công nghệ nano, công nghệ sinh học, khoa học về vật liệu, lưu trữ năng lượng và tin học lượng tử sẽ còn tác động mạnh mẽ hơn tới đời sống xã hội. Trong cuộc cách mạng 4.0, hệ thống giáo dục nghề nghiệp sẽ bị tác động rất mạnh và toàn diện, danh mục nghề đào tạo sẽ phải điều chỉnh, cập nhật liên tục vì các ranh giới giữa các lĩnh vực rất mỏng manh. Theo đó, sẽ là sự liên kết giữa các lĩnh vực lý - sinh; cơ - điện tử - sinh, từ đó hàng loạt nghề nghiệp cũ sẽ mất đi và thay vào đó là cơ hội cho sự phát triển của những ngành nghề đào tạo mới, đặc biệt là sự liên quan đến sự tương tác giữa con người và máy móc. Thị trường lao động trong nước cũng như quốc tế sẽ có sự phân hóa mạnh mẽ giữa nhóm lao động có trình độ thấp và nhóm lao động có trình độ cao. Các nhà nghiên cứu chỉ ra rằng, cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 không chỉ đe dọa tới việc làm của những lao động trình độ thấp, mà ngay cả lao động có kỹ năng bậc trung cũng sẽ bị ảnh hưởng nếu họ không được trang bị kiến thức mới - kỹ năng sáng tạo cho nền kinh tế 4.0. Cách mạng công nghiệp 4.0 không chỉ tạo ra cơ hội đào tạo những người mới chưa qua đào tạo, còn đòi hỏi ngay cả những người đã đi làm, từ công nhân đến kỹ sư đều phải thay đổi, cập nhật về kiến thức, kỹ năng ở mức độ cao hơn. Theo mục tiêu của Chính phủ, năm 2020, nước ta sẽ có khoảng 1.000.000 doanh nghiệp, tức là cũng cần một triệu cán bộ công nghệ thông tin. Tuy nhiên, hiện nay chúng ta mới có 300.000 cán bộ công nghệ thông tin, nên chỉ riêng nhu cầu đào tạo mới của ngành này để cung cấp cho xã hội một lực lượng lao động làm chủ công nghệ thông tin đã là cơ hội lớn cho các trường đào tạo.

Làm thay đổi mọi hoạt động trong các cơ sở đào tạo. Để đáp ứng đủ nhân lực cho nền kinh tế sáng tạo, đòi hỏi phải thay đổi các hoạt động đào tạo, nhất là ngành nghề đào tạo, hình thức và phương pháp đào tạo với sự ứng dụng mạnh mẽ của công nghệ thông tin. Theo đó, các phương thức giảng dạy cũ không còn phù hợp với nhu cầu của xã hội. Với sự vận dụng những thành tựu của cách mạng 4.0 thì người học ở bất cứ đâu đều có thể truy cập vào thư viện của nhà trường để tự học, tự nghiên cứu. Như vậy, không thể chỉ tồn tại mô hình thư viện truyền thống mà các trường phải xây dựng được thư viện điện tử. Hoặc chúng ta sẽ có những mô hình giảng dạy mới như đào tạo trực tuyến không cần lớp học, không cần giáo viên đứng lớp, người học sẽ được hướng dẫn học qua mạng. Những lớp học ảo, thầy giáo ảo, thiết bị ảo có tính mô phỏng, bài giảng được số hóa và chia sẻ qua những nền tảng như Facebook, YouTube, Grab, Uber... sẽ trở thành xu thế phát triển trong hoạt động đào tạo nghề nghiệp trong thời gian tới. Khi đó, kiến thức không thể bó hẹp và độc quyền bởi một người hay trong một phạm vi tổ chức. Người học có nhiều cơ hội để tiếp cận, tích lũy, chắt lọc cái mới, cái hay, có nhiều cơ hội để trở thành một công dân toàn cầu - người lao động tương lai có khả năng làm việc trong môi trường sáng tạo và có tính cạnh tranh. Phần thưởng cuối cùng không còn là bằng cấp trên giấy tờ nữa, mà là bằng cấp theo nghĩa mở rộng, trao đổi tri thức, sáng tạo, giá trị đóng góp cho xã hội. Bởi một doanh nghiệp tuyển dụng là cần người làm được việc chứ không cần người có văn bằng cao. Từ đó có thể bỏ việc yêu cầu về bằng cấp hay xem đó là điều kiện tiên quyết khi tuyển dụng lao động. Như vậy, các cơ sở giáo dục sẽ phải chuyển đổi mạnh mẽ sang mô hình chỉ đào tạo “những gì thị trường cần”, những nội dung của các môn cơ bản sẽ phải được rút ngắn và thay thế vào đó là những nội dung cần thiết để đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp, của nền kinh tế nói chung và đảm bảo để người học thực hiện được phương châm “học tập suốt đời”. Theo mô hình mới này, việc gắn kết giữa cơ sở giáo dục đào tạo với doanh nghiệp là yêu cầu tất yếu để bổ sung cho nhau. Đồng thời, đẩy mạnh việc hình thành các cơ sở đào tạo trong doanh nghiệp để phân chia các nguồn lực chung, làm cho các nguồn lực được sử dụng một cách tối ưu hơn. Điều này sẽ tác động đến việc bố trí cán bộ quản lý, phục vụ và đội ngũ giáo viên của các cơ sở giáo dục nghề nghiệp. Khi đó, tại các cơ sở giáo dục, tất cả các dữ liệu của người học từ mã số, điểm số, thông tin cá nhân... đều đã được số hóa tại một nơi lưu trữ. Trong nhiều trường hợp, người dạy chỉ cần “vứt” tài liệu lên “mây” (Cloud), tất cả mọi người tranh luận trên “mây” mà vẫn đảm bảo được sự riêng tư, hiệu quả và tính đồng bộ. Trước thực tế này, nếu các trường không thay đổi thì sẽ không có người học. Doanh nghiệp nói riêng và thị trường nói chung có nhu cầu như thế nào, thì người học sẽ càng hướng tới tìm học những nơi đáp ứng được nhu cầu đó. Đây thực sự là một thách thức vì hầu như các trường hiện nay mới chỉ dừng lại ở mức độ giáo viên giảng dạy bằng máy chiếu, video, chia sẻ tài liệu trên mạng. Kinh phí eo hẹp cũng là một trong những điểm chính khiến các ứng dụng khoa học công nghệ chưa phát triển trong trường học.

Ngành giáo dục cần làm:

Đổi mới phương thức đào tạo, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, công nghệ số vào trong hoạt động giảng dạy và học, nâng cao năng lực và chất lượng của đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý.

Đẩy mạnh xây dựng cơ sở vật chất, bao gồm: cơ ngơi trường học, trang thiết bị hiện đại, thư viện...

Phải đặc biệt quan tâm đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục (CBQLGD) các cấp, từ cấp bộ đến địa phương (sở, quận, huyện) thật sự có đức, có tài; đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ giáo viên có trình độ cao, năng lực chuyên môn giỏi và có tư cách đạo đức tốt.

Cải cách chế độ tiền lương, thực hiện tốt chế độ thâm niên (cho GV và CBQLGD và GV đã nghỉ hưu các thời kỳ), thiết thực chăm lo nâng cao đời sống cho họ.

Tăng cường tự học và trau dồi tiếng Anh cho giáo viên và học sinh.

Bên cạnh hoạt động đào tạo, cần tích cực tham gia công tác nghiên cứu khoa học để nâng cao trình độ, kiến thức chuyên môn, gắn nghiên cứu với các hoạt động chuyển giao tại cơ sở, đặc biệt chú trọng các nghiên cứu mô phỏng, nghiên cứu tương tác…

Cần đẩy mạnh công tác dự báo nhu cầu thị trường nhân lực trong tương lai gần và xa hơn

Cần sự kết hợp 3 “nhà”: Nhà trường – Nhà khoa học – Nhà doanh nghiệp trong đào tạo nhân lực phục vụ CMCN 4.0

Các trường đại học ở Việt Nam cần học tập, kinh nghiệm đào tạo của các trường đại học ở nước ngoài, trong việc xây dựng các trung tâm đổi mới sáng tạo gắn rất chặt với doanh nghiệp. Nhờ những trung tâm đó, sinh viên được học tập ở môi trường rất thật; các doanh nghiệp liên kết với các trường để tìm nguồn nhân lực tương lai.

Hoạt động của trung tâm đổi mới sáng tạo ở trường phải thiết thực và đi cùng với nhịp thở cuộc sống, thoát ly lý thuyết thuần tuý. Từ đây, cần xây dựng môi trường dạy và học mà phải gắn rất chặt với môi trường kinh doanh, với thực tiễn đặt hàng của xã hội…

Cần rà soát, sắp xếp, quy hoạch lại mạng lưới cơ sở giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp gắn với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội và nhu cầu của thị trường lao động trong cả nước, từng vùng và địa phương.

Nâng cao chất lượng đào tạo của các trường sư phạm. Thực hiện tốt công tác tuyển sinh đại học, cao đẳng. Xây dựng cơ chế, chính sách phân luồng giáo dục, gắn với đào tạo nghề và phát triển kỹ năng nghề nghiệp cho học sinh phổ thông.

Đổi mới nội dung, phương thức đào tạo nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp; Nâng cao chất lượng đào tạo một số trường đại học, một số nghề tiếp cận trình độ các nước phát triển trong ASEAN và thế giới.

14.3. Bài thu hoạch Chính trị hè 2024 Mẫu 3

Câu hỏi: Hiện nay trên các trang mạng xã hội có nhiều thông tin sai trái xuyên tạc các giá trị nền tảng tư tưởng của Đảng. Bản thân đồng chí cần làm gì và có những giải pháp nào để bảo vệ những giá trị bền vững của chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời gian tới?

Bài làm

Nghị quyết số 35-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa XII “về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới” khẳng định bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng là “bảo vệ Đảng, Cương lĩnh chính trị, đường lối của Đảng; bảo vệ nhân dân, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam; bảo vệ công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế; bảo vệ lợi ích quốc gia, dân tộc; giữ gìn môi trường hoà bình, ổn định để phát triển đất nước” .

Mạng xã hội (MXH) là hệ thống của những mối quan hệ giữa con người trên nền tảng internet; “Việt Nam là nước có số người dùng Internet và MXH thuộc tốp đầu trên thế giới, với hơn 64 triệu người dùng Internet (chiếm 67% dân số); hơn 55 triệu người dùng MXH (chiếm 57% dân số) và 436 MXH đang hoạt động, đứng thứ 7 trong 10 nước có số người sử dụng MXH nhiều nhất thế giới” . Cùng với những giá trị tích cực, MXH cũng bộc lộ những mặt trái và hệ lụy của nó đối với sự phát triển của đất nước. MXH “được ví như con dao 2 lưỡi ẩn chứa nhiều vấn đề bất cập và hiểm họa khó lường đối với người sử dụng không đúng mục đích” . Thực tế, bên cạnh các thông tin bổ ích, có giá trị đối với xã hội thì còn vô số thông tin, hình ảnh có nội dung xấu độc có thông tin sai trái như: xuyên tạc nền tảng tư tưởng của Đảng, chống phá đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, phủ nhận thành tựu của công cuộc đổi mới, bịa đặt, vu cáo, nói xấu các đồng chí lãnh đạo cấp cao của Đảng, Nhà nước, gây chia rẽ đoàn kết nội bộ, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nội bộ ta trên mọi lĩnh vực. Tác hại của những thông tin xấu độc trên MXH do các thế lực “mạng đen” tung ra có tác động tiêu cực đến tình hình tư tưởng, dư luận xã hội, gây nghi ngờ, gieo rắc sự hoang mang, dao động, làm giảm sút lòng tin của một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa.

Nhận thức được vấn đề trên, bản thân tôi đề nghị những giải pháp sau để bảo vệ những giá trị bền vững của chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong thời gian tới

Một là, tăng cường giáo dục tạo sự chuyển biến về nhận thức, trách nhiệm của các tổ chức, các lực lượng

Hai là, tiếp tục đổi mới nội dung, hình thức bồi dưỡng

Ba là, tổ chức tốt các hoạt động thực tiễn đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trên MXH cho học viên ở các học viện, trường quân sự quân đội hiện nay theo tinh thần Nghị quyết số 35-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa XII

Bốn là, tăng cường vai trò cấp ủy Đảng, phát huy sức mạnh tổng hợp các tổ chức, các lực lượng

Năm là, phát huy tính tích cực, chủ động, tự rèn luyện kỹ năng đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trên MXH của học viên

Là một người giáo viên đang mang trọng trách sự nghiệp trồng người, bản thân tôi luôn ý thức được rằng tuyệt đối trung thành với đường lối của Đảng, pháp luật của nhà nước. Gương mẫu trong mọi hành động của bản thân trước học sinh, phụ huynh học sinh và nhân dân nơi cư trú. Không nghe và không làm theo những tuyên truyền sai trái về các chính sách của Đảng pháp luật của nhà nước. Sống giản dị, tiết kiệm luôn học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.

Sử dụng lành mạnh trang trang mạng xã hội như Facebook, Internet, v.v…để phục vụ cho công tác chuyên môn của bản thân. Chủ động nhận diện, đấu tranh loại bỏ trước các âm mưu, thủ đoạn, hành động xấu xa của các thế lực thù địch, phản động, từ việc viết bài đăng trên các phương tiện truyền thông xã hội nhằm xuyên tạc Chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước ta, bôi xấu các lãnh đạo cấp cao, nhằm gây chia rẽ nội bộ; đến những việc như kêu gọi tụ tập, kích động biểu tình, chống phá; gây hấn, lăng nhục, chửi bới vô cớ, phạm pháp… để khiêu khích chính quyền, lực lượng chức năng “trấn áp” và quay video clip, chụp ảnh, lives tream để vu oan cho chính quyền…

Ngoài những hành động, việc làm của bản thân về chống các biểu hiện tiêu cực, các quan điểm sai trái nêu trên, bản thân còn luôn nêu cao tinh thần và tuyên truyền đến những người thân trong gia đình, đến học sinh, phụ huynh học sinh và nhân dân nơi cư trú cần có những biện pháp kịp thời ngăn chặn, đấu tranh với những thông tin xuyên tạc, các bài đăng, các hình ảnh gây hấn, lăng nhục, chửi bới vô cớ, phạm pháp… để khiêu khích chính quyền, lực lượng chức năng “trấn áp” và quay video clip, chụp ảnh, lives tream để vu oan cho chính quyền…

Xây dựng lối sống lành mạnh với gia đình và cộng đồng. Sống vui vẻ hòa nhà và xây dựng mối đoàn kết nội bộ ở cơ quan cũng như trên địa bàn cư trú. Tích cực học hỏi để nâng cao trình độ chuyên môn, góp phần nhỏ bé của bản thân vào công tác giáo dục của đơn vị. Luôn xứng đáng là tấm gương đạo đức tự học và sáng tạo.

Vì tài liệu rất dài. Để tham khảo trọn bộ bài thu hoạch chính trị hè, các bạn hãy tải về để lấy trọn bộ tài liệu này nhé!

Chia sẻ, đánh giá bài viết
75
Chọn file muốn tải về:
Chỉ thành viên VnDoc PRO tải được nội dung này!
79.000 / tháng
Đặc quyền các gói Thành viên
PRO
Phổ biến nhất
PRO+
Tải tài liệu Cao cấp 1 Lớp
Tải tài liệu Trả phí + Miễn phí
Xem nội dung bài viết
Trải nghiệm Không quảng cáo
Làm bài trắc nghiệm không giới hạn
Mua cả năm Tiết kiệm tới 48%
Sắp xếp theo
    🖼️

    Gợi ý cho bạn

    Xem thêm
    🖼️

    Văn bản giáo dục

    Xem thêm