Giao diện mới của VnDoc Pro: Dễ sử dụng hơn - chỉ tập trung vào lớp bạn quan tâm. Vui lòng chọn lớp mà bạn quan tâm: Lưu và trải nghiệm

Nghị luận bài thơ Nhàn

Nghị luận bài thơ Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm

Nghị luận bài thơ Nhàn vừa được VnDoc.com sưu tập và xin gửi tới bạn đọc cùng tham khảo. Mong rằng qua bài viết này bạn đọc có thêm tài liệu để học tập và có thêm ý tưởng để xây dựng bài văn cho mình nhé. Mời các bạn cùng tham khảo chi tiết và tải về bài viết tại đây.

Ngoài ra, VnDoc.com đã thành lập group chia sẻ tài liệu học tập THPT miễn phí trên Facebook: Tài liệu học tập lớp 10. Mời các bạn học sinh tham gia nhóm, để có thể nhận được những tài liệu mới nhất.

Nghị luận bài Nhàn mẫu 1

Văn học có sứ mệnh nâng đỡ tâm hồn con người, khéo con người thoát khỏi vũng bùn lầy của sa ngã và cám dỗ. Vậy nên, dù một bài thơ, bài văn hay đến mấy, xúc cảm dạt dào đến mấy, nó nhất thiết chỉ có giá trị khi nó mang chứa một tư tưởng lớn, một triết lý sống thanh cao để hướng người đọc đến thế giới của chân thiện mỹ. Nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm với những triết lý sâu sắc đã gửi gắm những chiêm nghiệm cả một đời thơ của thi nhân, từ đó nâng đỡ tâm hồn người đọc và hướng xúc cảm của người thưởng thức đến thế giới của cái đẹp.

Mở đầu bài thơ, người đọc ngay lập tức cảm nhận được nhịp điệu chậm rãi, thong thả và sự thanh thản trong tâm hồn của người nghệ sĩ đằm mình vào trang viết:

“Một mai một cuốc một cần câu

Thơ thẩn dầu ai vui thú nào”

Các từ một lặp lại 3 lần, cho thấy phần nào sự chuẩn bị đã sẵn sàng và độc thời khiến nhịp thơ càng thêm chậm, và mang đến cảm giác thư thái cho người đọc. Những hình ảnh một mai, một cuốc, một cần câu ấy đã khiến hình ảnh Nguyễn Bỉnh Khiêm xuất hiện trong câu thơ trên giống như một lão nông tri điền và một bậc tao nhân mặc khách, ông cáo quan về ở ẩn, tránh xa chốn quan trường bụi bặm về ẩn nơi thôn dã vui với thú điền viên, hòa mình với thiên nhiên cảnh vật. Đặc biệt, cách dùng từ rất giàu sức gợi của tác giả cũng phần nào giúp người đọc cảm nhận được rõ hơn tâm hồn, tư thế và tâm thế của tác giả. Từ “thơ thẩn” dã toát lên phần nào tư thế và tâm thế của nhân vật trữ tình, thoải mái, ung dung tự tại mà cũng đầy kiêu ngạo như một lời thách thức với đời rằng mặc ai vui thú nào, ta đây vẫn say sưa với thú điền viên, với thú an nhàn, qua đó phần nào giúp ta thấy được sự gắn bó của nhà thơ với nông thôn, với cuộc sống dân dã, bình dị đời thường.

Tiếp tục mạch thơ trên, hai câu thơ thực lại gây ấn tượng trong lòng độc giả bởi sự sâu sắc, triết lý mà nó gợi ra:

“Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ

Người khôn người đến chốn lao xao”

Nơi vắng vẻ là nơi con người hiền hòa, hòa mình vào thú vui bình dị, không ganh đua đố kị. Và đó cũng là nơi tâm hồn con người tìm được cho mình những khoảng lặng giữa sự bộn bề của cuộc đời nặng nhọc bởi gánh nặng cơm áo gạo tiền. Ngược lại, chốn lao xao là chốn quan trường với những ganh đua, ganh ghét, là cửa ải danh lợi ồn ào, phiền não. Như vậy, có thể thấy ở đây nhà thơ sử dụng lối nói ngược mang hàm nghĩa mỉa mai: Người khôn vậy mà cứ đến chốn lao xao sống, như con thiêu thân lao đầu vào ngọn đèn. Họ có biết đâu ở đấy đầy rẫy những ganh đua, đố kị, mưu sâu kế hiểm thâm độc, sống ở đó con người luôn luôn phải mệt mỏi, phải suy nghĩ đắn đo, vạch mưu tính kế, liệu có vui sướng được chăng? Hóa ra, cái dại của nhà thơ lại là cái dại khôn. Cái khôn của người hóa ra là cái khôn của dại. Cái dại của Nguyễn Bỉnh Khiêm là “Đại trí như ngu”- cái dại của kẻ hiểu được quy luật vần xoay của thế sự nhân sinh:

Từ đó, người đọc càng thấy được cái tâm và cái tầm của Nguyễn Bỉnh Khiêm dẫu chỉ qua hai câu thực hàm súc, cô đọng. Việc rời xa chốn lao xao, tránh xa thị phi vòng danh lợi giúp ta thấy được tâm hồn thanh cao của Nguyễn Bỉnh Khiêm, đồng thời một cách kín đáo gửi gắm quan niệm về triết lý sống nhàn. Nhàn ở đây, là gắn với sự thanh cao, không bị vướng vào vòng danh lợi để tự tha hóa bản tính tốt đẹp của chính mình.

“Thu ăn măng trúc đông ăn giá

Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao”

Hai câu thơ trên ta đều thấy sự xuất hiện của những hình ảnh dân dã quen thuộc, bình dị của chốn thôn quê. Trở về với thiên nhiên, với xóm làng, tác giả thật sự hòa mình với cuộc sống thôn quê, cuộc sống của người nông dân chất phác đôn hậu, cuộc sống thanh đạm an nhàn. Mùa nào thức nấy, chẳng cần phải lo lắng, bon chen. Đó là sự hòa mình, gắn bó gần gũi với thiên nhiên, ngay trong sự giản dị nhưng ta vẫn cảm nhận được sự giàu có phong phú mà tự nhiên mang lại cho con người.

Tuy nhiên, nếu đan xen ở các câu thơ trên vừa là những triết lý sâu sắc vừa là những chiêm nghiệm thấm thía thì đến câu kết, dường như toàn bộ tâm tư phía trên của nhà văn mới được bộc lộ trọn vẹn:

“Rượu, đến cội cây ta sẽ uống

Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao”

Trong câu thơ trên, có sử dụng điển tích chỉ phú quý công danh chỉ là ảo mộng, chỉ là áng phù vân trôi nổi, có rồi lại mất như một giấc mộng mà thôi. ở đây từ đó ta có thể thấy thái độ coi thường phú quý, vinh hoa, xem chúng chỉ là những điều phù phiếm thoáng hiện rồi lại vụt bay. Đó quả thực là một thái độ sống rất đáng trân trọng của Nguyễn Bỉnh Khiêm, bởi ông sống trong chế độ phong kiến khủng hoảng, nền tảng đạo đức bắt đầu rạn nứt, thời đại con người lấy tiền ra để đo mọi thứ và những giá trị nhất thời được tôn sùng thì ở đó ta vẫn bắt gặp một bậc triết nhân với tâm hồn thanh cao, chính trực, không màng danh lợi.

Bằng những vần thơ gần gũi mà không phô trương nhưng đằm sâu triết lý, bài thơ Nhàn giống như một thứ khí giới thanh cao đắc lực để giúp chúng ta - những người luôn bị vướng vào những cái “chùng chình hay vòng vèo” của cuộc sống được hiểu sâu hơn về lẽ đời, về những cám dỗ mà bản thân thường mắc phải. Vì thế nên bài thơ giống như một tấm gương để người đọc thế hệ sau răn mình, sửa mình, không bị sa xuống vũng bùn lầy của những cám dỗ ấy mà sống người hơn, hướng thiện hơn để hướng tới hai chữ CON NGƯỜI viết hoa. Có lẽ vì thế chăng mà giữa dòng thời gian chảy trôi vô thủy vô chung, Nhàn vẫn sống mãi với những giá trị nhân văn của nó.

Nghị luận bài Nhàn mẫu 2

Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 – 1585) là người có học vấn uyên thâm. Tuy nhiên khi nhắc đến ông là làm mọi người phải nghĩ đến việc, lúc ông còn làm quan ông đã từng dâng sớ vạch tội và xin chém đầu mười tám lộng thần nhưng đã không thành công nên ông đã cáo quan về qu . Do học trò của ông đều là những người nổi tiếng nên được gọi là Tuyết Giang Phu Tử. Ông là người có học vấn uyên thâm, là nhà thơ lớn của dân tộc. Thơ của ông mang đậm chất triết lí giáo huấn, ngợi ca chí khí của kẻ sĩ, thú thanh nhàn, đồng thời cũng phê phán những điều sống trong xã hội. Khi mất ông để lại tập thơ bằng tập viết thơ bằng chữ Hán là Bạch Vân am thi tập; tập thơ viết bằng chữ Nôm là Bạch Vân quốc ngữ thi và “Nhàn” làbài thơ tiêu biểu trong tập thơ Bạch Vân quốc âm thi tập, được viết bằng thể thất ngôn bát cú đường luật. Bài thơ ca ngợi niềm vui trong cảnh sống thanh nhàn. Qua đó ta có thể thấy được vẻ đẹp chân chính của ông, nét mộc mạc của làn quê.

“Một mai một cuốc, một cần câu

Thơ thẩn dầu ai vui thú nào

Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ

Người khôn người dến chốn lao xao

Thu ăn năng trúc đông ăn giá

Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao

Rượu đến cội cay ta sẽ uống

Nhìn xem phú quí tựa chiêm bao.”

Hai câu đề đã khắc họa dược như thế nào 1 cuộc sống nhàn rỗi

“Một mai, một cuốc, một cần câu

Thơ thẫn dầu ai vui thú nào.....”

Ở câu thơ đầu câu thơ đã khắc họa hình ảnh 1 ông lão nông dân sống thảnh thơi. Bên cạnh đó tác giả còn dùng biện pháp điệp số từ “một“ thêm vào là 1 số công cụ quen thuộc của nhà nông nhằm khơi gợi trước mắt người đọc 1 cuộc sống rất tao nhãn và gần gũi nhưng không phải ai mún là có. Từ “thơ thẩn” trong câu hai lại khắc họa dáng vẻ của 1 người đang ngồi ung dung chậm rãi và khoan thai. Đặt hình ảnh ấy vào cuộc đời của tác giả ta có thể thấy được lúc nhàn rỗi nhất của ông chính là lúc ông cáo ông về ở ẩn. Và từ “vui thứ nào” cũng 1 lần nữa nói lên đề tài của bài thơ là về cảnh nhàn dẫu cho ai có ban chen vòng danh lợi nhưng tác giả vẫn thư thái. Hai câu thơ đầu đã không chỉ giới thiệu được đề tài mà còn khắc họa tư thái ung dung nhàn hạ, tâm trang thoải mái nhẹ nhàng vui thú điền viên.

“..... Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ

Người khôn người dến chốn lao sao......”

Hai câu thực của bài thơ ý tác giả muốn nhắm đến cảnh nhàn và sử dụng các từ đối nhau như “ta “_ “người”; “dại” _ “khôn”; “nơi vắng vẻ”_ “chốn lao xao” từ 1 loạt những từ đối lập đó đã thể hiện được quan niệm sống của tác giả. Nhân vật trữ tình đã chủ động tìm đến nơi vắng vẻ đến với chốn thôn quê sống cuộc sống thanh nhàn mặc cho bao người tìm chốn “phồn hoa đô hội”. hai câu thơ đã đưa ra được hai lối sống độc lập hoàn toàn trái ngược nhau. Tác giả tự nhận mình là “dại” vì đã theo đuổi cuộc sống thanh đạm thoát khỏi vòng danh lợi để giữ cho tâm hồn được thanh nhàn. Vậy lối sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm có phải là lối sống xa đời và trốn tránh trách nhiệm?” Điều đó tất nhiên là không vì hãy đặt bài thơ vào hoàn cảnh sáng tác chỉ có thể làm như vậy mới có thể giữ được cốt cách thanh cao của mình. Do Nguyễn Bỉnh Khiêm có hoài bảo muốn giúp vua làm cho trăm dân ấm no hạnh phúc nhưng triều đình lúc đó đang tranh giành quyền lực, nhân dân đói khổ tất cả các ước mơ hoài bảo của ông không được xét tới. Vậy nên Nguyễn Bỉnh Khiêm rời bỏ “chốn lao xao“ là điều đáng trân trọng.

“ ..... Thu ăn măng trúc đông ăn giá

Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao.........”

Hai câu luận đã dùng biện pháp liệt kê những đồ ăn quanh năm có sẵn trong tự nhiên. Mùa nào thức ăn nấy, mùa thu thường có măng tre và măng trúc quanh nhà, mùa đông khi vạn vật khó đâm chồi thì có giá thay. Câu thơ “xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao” gợi cho ta cuộc sống sinh hoạt nơi dân dã. Qua đó ta có thể cảm nhận được tác giả đã sống rất thanh thản, hòa hợp với thiên nhiên tận hưởng mọi vẻ đẹp vốn có của đất trời mà không bon chen, tranh giành .Đăt bài thơ vào hoàn cảnh lúc bấy giờ thì lối sống của Nguyễn Bỉnh Khiêm thể hiện được vẻ đẹp của tâm hồn thanh cao đó là lối sống tích cực thể hiện rõ thái độ của Bạch Vân cư sĩ.

“....... Rượu đến cội cây ta sẽ uống

Nhìn xem phú quí tựa chiêm bao.”

Hai câu luận đã thể hiện dược cái nhìn của 1 nhà trí tuệ lớn, có tính triết lí sâu sắc, vận dụng ý tượng sáng tạo của điện tích Thuần Vu. Đối với Nguyễn Bỉnh Khiêm phú quí không phải là 1 giấc chiêm bao vì ông đã từng đỗ Trạng Nguyên, giữ nhiều chức vụ to lớn của triều đình nên cuộc sống phú quí vinh hoa ông đã từng đi qua nhưng ông đã không xem nó là mục đích sống của ông. Mà ông đã xem đó chỉ là 1 giấc chiêm bao không có thực và ông đã tìm đến với cuộc sống thanh thản để luôn giữ được cốt cách thanh cao của mình.

Như vậy qua bài thơ ta đã hiểu được quan niệm sống nhàn và nhân cách của Nguyễn Bỉnh Khiêm coi thường danh lợi, luôn giũ dược tâm hồn thanh cao hòa hợp với thiên nhiên, đề cao lối sống của những nhà nho giáo giàu lòng yêu nước nhưng do hoàn cảnh nên phải sống ẩn dật. Bên cạnh đó Nguyễn Bỉnh Khiêm còn sử dụng ngôn ngữ gần gũi mộc mạc nhưng giàu chất triết lí. Sử dụng khéo léo thể thơ thất ngôn đường luật, điện tích điện cố và cách phép đối thường gặp ở thể thơ Nôm 1 cách linh hoạt.

Bài “Nhàn” là 1 bông hoa viết bằng chữ Nôm tuyệt đẹp của văn học trung đại Việt Nam. Quan niệm sống đề cao vẻ đẹp tâm hồn, lối sống trong sạch của Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn còn giữ nguyên giá trị cho đến ngày hôm nay.

Trên đây VnDoc.com vừa giới thiệu tới bạn đọc Nghị luận bài thơ Nhàn. Chắc hẳn qua bài viết bạn đọc đã nắm được những ý chính cũng như trau dồi được nội dung kiến thức của bài học rồi đúng không ạ? Mong rằng qua bài viết này các bạn có thêm tài liệu để học tập môn Ngữ văn lớp 10 nhé. Để giúp bạn đọc có thêm nhiều tài liệu học tập hơn nữa, VnDoc.com mời các bạn cùng tham khảo thêm tài liệu học tập các môn được chúng tôi biên soạn và tổng hợp tại các mục sau Toán lớp 10, Tiếng Anh lớp 10, đề thi học kì 1 lớp 10, đề thi học kì 2 lớp 10...

Chia sẻ, đánh giá bài viết
4
Sắp xếp theo

    Gợi ý cho bạn

    Xem thêm

    Ngữ văn 10

    Xem thêm