- Giới thiệu về nội dung đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích" và tám câu thơ cuối
b. Thân bài
* Hai câu thơ đầu:
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
- Không gian, thời gian và cảnh vật trong hai câu thơ:
+ Không gian: cửa bể mênh mông, rộng lớn và vô tận.
+ Thời gian: buổi chiều - là khoảng thời gian dễ khiến con người buồn và nhớ nhà.
+ Cảnh vật: con thuyền và cánh buồm nơi xa.
- Nghệ thuật: đảo ngữ "thấp thoáng" cùng từ láy “xa xa” làm tăng thêm cảm giác xa xôi và cô độc của Kiều.
* Hai câu tiếp:
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
- Biện pháp ẩn dụ: hoa trôi ẩn dụ cho thân phận người con gái chìm nổi trên dòng đời.
→ Thể hiện sự mong manh, yếu đuối, không thể tự định đoạt của thân phận của mình.
* Hai câu tiếp:
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
- Cảnh vật và màu sắc của chúng:
+ “Rầu rầu”: là một màu sắc ảm đạm, úa tàn.
+ “Xanh xanh”: miêu tả không gian không có sự sống con người, trời đất lẫn vào nhau một màu xanh.
→ Diễn tả tâm trạng mệt mỏi chán chường của Thúy Kiều.
* Hai câu cuối:
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi
- Những làn gió không phải nhẹ nhàng mà như một cơn lốc xoáy mạnh trên mặt biển khiến cho những cơn sóng ào ào xô nhau từng đợt mạnh dạt vào bờ khiến tạo âm thanh rùng rợn .
- Kiều có thể cảm thấy được điều ấy khiến cho cảm giác lo sợ không phải sợ khung cảnh ở ngoài mà sợ những cảnh ấy đang báo hiệu xấu sẽ ập tới tương lai phía trước .
- Điệp ngữ : Buồn trông được lặp lại, thể hiện sự buồn tủi, chán chường của nhân vật.
- Từ láy: ầm ầm gợi âm thanh dữ dội của sóng cũng như sự kinh hãi của chính Kiều. Câu thơ như báo trước những sóng gió trong cuộc sống sắp tới của Kiều.
Đại thi hào Nguyễn Du không chỉ xuất sắc trong nghệ thuật sử dụng ngôn ngữ cũng như sử dụng các nét nghệ thuật để tả cảnh, tả người, đặc biệt là miêu tả nội tâm nhân vật. Một trong những đoạn trích miêu tả nội tâm nhân vật hay nhất của Nguyễn Du là đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích. Qua 8 câu thơ cuối của đoạn thơ, ta có tehẻ cảm nhận được nỗi đau, nỗi buồn tủi, cô đơn của nàng Kiều khi ở lầu Ngưng Bích và thấy được tài năng nghệ thuật kiệt xuất của đại thi hào.
Tám câu thơ cuối của đoạn Kiều ở lầu Ngưng Bích có thể coi là đỉnh cao của nghệ thuật tả cảnh ngụ tình ngụ ngôn của đại thi hào Nguyễn Du. Bốn cặp thơ lục bát không chỉ thể hiện nỗi đau đớn, cô đơn tột cùng của Thúy Kiều khi bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích mà còn mang những điềm báo về một tương lai đầy sóng gió, gập ghềnh.
Mở đầu mỗi bức tranh tâm trạng là điệp khúc “buồn trông”. “Buồn trông” được lặp lại bốn lần tạo thành một điệp khúc sầu, bộc lộ nội tâm của nhân vật với nỗi buồn đang dâng lên từng lớp, tràn ngập trong tâm hồn. Cảnh trên lầu Ngưng Bích dường như thấu hiểu và đồng cảm với nỗi đau của Thúy Kiều nên mỗi hình ảnh nàng nhìn vào đều thấm đẫm một nỗi buồn sâu thẳm.
Buồn trông cửa bể chiều hôm Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa.
Bức tranh tâm trạng của Thúy Kiều được mở đầu bằng hình ảnh bóng chiều tà. Hoàng hôn như nhuộm đỏ cả bức tranh, cả không gian và thời gian bao la. Qua đôi mắt Kiều, bóng hoàng hôn ấy thật buồn và u uất như một lớp sầu dâng lên trong tâm hồn nàng. “Chiều” là khi bóng tối dần bao trùm, đây là khoảng thời gian tĩnh lặng nên dễ khơi dậy những cảm xúc buồn trong tâm hồn con người. Không gian bao la của buổi chiều muộn càng làm cho Thúy Kiều thấm thía hơn nỗi cô đơn, nhỏ bé và hoàn cảnh trớ trêu của mình trong căn nhà lầu xanh “khóa xuân” này. Không gian cộng hưởng khiến tâm hồn người con gái xa quê thêm buồn, cô đơn và đáng thương. Giữa muôn vàn sóng cô đơn, Kiều khao khát một chút hơi ấm, một sự sống xuất hiện để nàng vơi đi nỗi cô đơn. Còn bóng “con thuyền thấp thoáng” là biểu tượng của kiếp người. Nhưng đó chỉ là một con thuyền vô danh, hão huyền “thấp thoáng” ở một nơi “xa xăm”. Nguyễn Du đã đặt ở đây các từ “xa”, “xa” cùng với nghệ thuật đảo ngữ để nhấn mạnh sự nhỏ bé, xa xôi, hư ảo của con thuyền nơi cửa hồ. Con thuyền lênh đênh trong cảnh “tan cửa nát nhà” mờ mịt, không bến không bờ, vô định như chính cuộc đời Kiều bây giờ. Nhìn chiếc thuyền – biểu tượng của kiếp người, tưởng như mang lại cho Kiều chút ấm áp nhưng ngược lại, nó gợi lên nỗi cô đơn, gợi nỗi buồn, sự lạc lõng vô bờ bến trong tâm hồn lạc lõng của nàng. Kiều.
Nhìn xa xăm về “cửa chìm” mà không tìm được chút hơi ấm sẻ chia, Kiều đành hướng mắt về nơi non nước gần bên:
Buồn trông ngọn nước mới sa Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Giữa dòng nước cuộn chảy dưới chân Kiều, cánh hoa quay cuồng bị cuốn trôi. Những cánh hoa mỏng manh ấy là hình ảnh ẩn dụ cho số phận người con gái lênh đênh giữa cuộc đời, gợi cho Kiều nhớ về số phận của một kiếp người lênh đênh. Những cánh hoa ấy lênh đênh “bảy ba chìm” như số phận của Kiều hiện tại. Câu hỏi tu từ “Hoa trôi về đâu?” như xoáy vào tâm trí người đọc những lo âu, xót xa cho kiếp người mong manh của một thân phận mỏng manh, phải lang thang ở một nơi xa xăm, lạc lõng, cô đơn đến tuyệt vọng. Hai từ “đến đâu” cuối câu thơ với hai thanh bằng tạo cảm giác vô định như hoàn cảnh của cô hiện tại. Ngồi một mình nơi vắng lặng, Kiều muốn tìm đến với thiên nhiên để vơi đi nỗi đau, nỗi buồn, sự cô đơn nhưng càng nhìn Kiều càng thấy nỗi buồn, lòng càng trĩu nặng. ngày càng bối rối hơn.
Nhìn mặt nước, nhìn cửa bể, không tìm thấy sự gần gũi, an ủi, Kiều trở lại với cỏ xanh hai bên:
Buồn trông nội cỏ rầu rầu, Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Cỏ xanh như giúp cô vơi đi đôi chút buồn nhưng tất cả lại nhuốm màu “u sầu” buồn tẻ, ảm đạm. Không còn là “cỏ xanh tận chân trời” như những ngày Kiều còn “lặng lẽ”, tự tại trong “bức màn”, giờ đây, cỏ non xanh cũng đã nhuộm một màu tâm trạng của kiếp người. . nổi. Nhìn từ xa đến gần, từ “chân mây” đến “mặt nước”, cả không gian đều nhuốm một màu “xanh” đến rợn người. Đoạn thơ đã bộc lộ tâm trạng hụt hẫng, u ám, thê lương của Kiều. Nỗi buồn của cô cũng thấm vào cảnh vật, vào không gian. Vốn dĩ là một không gian rộng lớn, với những màu xanh tươi của cỏ non và cả chân trời, nhưng qua đôi mắt của Kiều, nó trở nên thật đáng sợ và cô đơn. Không một tiếng động, không một âm thanh, chỉ có một sự im lặng thê lương bao trùm lên cảnh và người. Nguyễn Du đã khéo léo sử dụng nghệ thuật tả cảnh ngụ tình ở đây để làm nổi bật tâm trạng chán chường, tuyệt vọng của Thúy Kiều.
Trong sự im lặng đến rợn người đó, Kiều muốn nghe một tiếng vọng đáp lại của con người để lòng được an ủi, để không cảm thấy cô đơn, tuyệt vọng trong lòng, nhưng đáp lại nàng chỉ là tiếng sóng, tiếng gió, tiếng nước. của thiên nhiên:
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh, Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
Tất cả những cảnh vật xung quanh: gió, nước, sóng, gợi lên số phận chìm nổi của Kiều. “Sóng” cứ “ầm ầm” vây quanh khiến Kiều sợ hãi. Bởi tiếng sóng như một điềm báo, một điềm báo trước về số phận tương lai đầy sóng gió của Kiều. “Sóng” “ầm ầm” “quanh ghế” ấy cũng khắc sâu tâm trạng đau đớn của Kiều. Bởi xung quanh cô chỉ có thiên nhiên tĩnh lặng đến mức choáng ngợp chứ không hề có hơi ấm của cuộc sống con người.
Tám câu thơ cuối là một tuyệt tác của nghệ thuật tả cảnh ngụ tình. Bằng những bức tranh đặc sắc, Nguyễn Du đã khắc họa được những trạng thái xúc cảm, nỗi cô đơn, lo âu, sợ hãi về tương lai đầy sóng gió của nàng Kiều. Không chỉ vậy, qua bức tranh ấy, Nguyễn Du cho thể hiện niềm cảm thương sâu sắc cho số phận nàng nói riêng và số phận người phụ nữ nói chung dưới chế độ phong kiến.