Cảm nhận của em về tấm lòng của Thúy Kiều qua nỗi nhớ thương của nàng được thể hiện trong đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích"
Cảm nhận tấm lòng của Thúy Kiều trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích
- 1. Cảm nhận tấm lòng của Thúy Kiều trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích - Mẫu 1
- 2. Cảm nhận tấm lòng của Thúy Kiều trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích - Mẫu 2
- 3. Cảm nhận tấm lòng của Thúy Kiều trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích - Mẫu 3
- 4. Cảm nhận tấm lòng của Thúy Kiều trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích - Mẫu 4
- 5. Cảm nhận tấm lòng của Thúy Kiều trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích - Mẫu 5
Văn mẫu lớp 9: Cảm nhận của em về tấm lòng của Thúy Kiều qua nỗi nhớ thương của nàng được thể hiện trong đoạn trích "Kiều ở lầu Ngưng Bích" được VnDoc tổng hợp và đăng tải. Các em cùng tham khảo 4 bài văn mẫu dưới đây để cảm nhận rõ điều đó nhé
1. Cảm nhận tấm lòng của Thúy Kiều trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích - Mẫu 1
Nhận định về “Truyện Kiều”, nhà phê bình văn học Hoài Thanh viết: “ “Truyện Kiều” như một hòn ngọc quý cơ hồ không thể thay đổi thêm bớt một tí gì, như một tiếng đàn lạ gần như không một lần nào lỡ nhịp ngang cung”. Đọc đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”, ta sẽ thấy được vẻ đẹp toàn bích của “hòn ngọc quý”, “tiếng đàn lạ” này.
Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” nằm ở phần II “Gia biến và lưu lạc” của “Truyện Kiều”. Sau khi bán mình chuộc cha và bị tên lưu manh Mã Giám Sinh lừa gạt, Kiều vô cùng đau đớn nên đã tìm đến cái chết. Nàng không chịu tiếp khách làng chơi. Không muốn mất đi “món hàng” quý giá này, Tú Bà đã lựa lời khuyên giải, dụ dỗ Kiều. Mụ chăm sóc, thuốc thang cho Kiều và hứa sẽ tìm người tử tế để gả nàng đi. Tú Bà giam lỏng Kiều ở lầu Ngưng Bích. Sống giữa nơi hiu quạnh, Kiều cô đơn và đau lòng đến tột cùng. Đoạn trích thể hiện cảnh ngộ đáng thương của Kiều, nỗi nhớ nàng dành cho Kim Trọng và cha mẹ cùng tâm trạng âu lo đến khủng hoảng của Kiều được thể hiện qua cách nhìn cảnh vật.
Mở đầu đoạn trích là khung cảnh có phần nên thơ nhưng thấm đẫm màu buồn của lầu Ngưng Bích:
Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân
Vẻ non xa, tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia
Hai tiếng “khóa xuân” đã khái quát hoàn cảnh của Kiều. Xưa kia, từ này vốn dùng để chỉ những người con gái thuộc gia đình quyền quý ít khi được bước chân ra khỏi cổng nhà. Tuổi xuân của họ bị kìm kẹp trong khuôn khổ của lễ giáo xã hội. Ở đây, Nguyễn Du đã dùng từ “khóa xuân” để ẩn dụ về hoàn cảnh sống trớ trêu mà Kiều đang phải chịu đựng. Các hình ảnh thiên nhiên đối lập “non xa”, “trăng gần” kết hợp với từ láy “bát ngát” mở ra không gian rộng lớn, cao vời vợi. Đối lập với khoảng không ấy là sự chơ vơ, trơ trọi, gần như không có dấu hiệu sự sống của lầu Ngưng Bích. Biện pháp liệt kê “Cát vàng”, “cồn nọ”, “bụi hồng” khiến thiên nhiên mang vẻ tàn tạ, phôi pha. Cảnh vật ở lầu Ngưng Bích thiếu đi sức sống khiến con người trông cảnh mà nghĩ đến tình, không thể không xót xa.
Đứng trước khung cảnh ấy, lòng Kiều như mối tơ vò:
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng
“sớm” – “khuya” là khoảng thời gian tuần hòa khép kín. Cả không gian và thời gian đang bủa vây lấy Kiều khiến lòng nàng ngổn ngang tâm sự. Đọc câu thơ, ta tưởng tượng ra cảnh Kiều đứng trên lầu cao, phóng tầm mắt nhìn ra xa mà chỉ thấy bốn phương rộng lớn, không một bóng người tri âm tri kỉ. Xung quanh Kiều chỉ là những sự vật vô tri, vô giác. Từ láy “Bẽ bàng” diễn tả chính xác tâm trạng tủi hổ, cay đắng, chỉ có mình đối diện với chính mình. Là cảnh vật héo hon khiến Kiều buồn bã hay chính nỗi sầu bi trong hồn đang đã vương lên cảnh vật?
Trong cảnh ngộ đơn độc. Kiều đau đớn nhớ tới chàng Kim:
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trong mai chờ
Bên trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai
Kiều nhớ chàng Kim là nỗi nhớ rất hợp lí, hợp tình. Với cha mẹ, Kiều bán mình chuộc cha nên đã phần nào làm tròn chữ “Hiếu”. Với chàng Kim, Kiều chưa làm trọn chữ “Tình”. Nàng xót xa nghĩ đến cảnh Kim Trọng đang trông chờ nàng mà bắt vô âm tín. Kiều mang mặc cảm của một kẻ phụ tình, phản bội tình yêu. Nàng nhớ lại đêm thề nguyền đính ước “dưới nguyệt chén đồng”. Kỉ niệm tình yêu trong sáng, thủy chung giờ đây thành kí ức dày vò tâm tư người con gái. Từ đó, Kiều càng thấm thía tình cảnh “góc bể bơ vơ” của mình. Tuy nhiên, Kiều vẫn là người sống hết mình vì tình yêu. “Tấm son” chính là tấm lòng chung thủy, trước sau không đổi. Dù hiện tại không gặp chàng Kim, Kiều vẫn thề với lòng mình không bao giờ thay lòng đổi dạ.
Sau nỗi nhớ chàng Kim là nỗi nhớ cha mẹ:
Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ
Sân Lai cách mấy nắng mưa
Có khi gốc tử đã vừa người ôm
Từ “Xót” đặt ở đầu câu diễn tả chân xác cảm giác xót xa, đau đớn của Kiều khi nghĩ về cha mẹ đang ngày ngày ngóng trông. Thành ngữ “Quạt nồng ấp lạnh” cho thấy khao khát được chăm sóc, phụng dưỡng cha mẹ. Nàng lo lắng cha mẹ đã già mà không người chăm sóc, bản thân chưa trọn đạo làm con. Các điển tích, điển cố như “Sân Lai”, “gốc tử” diễn tả sự trôi chảy của thời gian kéo theo sự già yếu của cha mẹ.
Sau khi nhớ thương chàng Kim và cha mẹ, Kiều lại xót thương cho chính phận mình. “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu”, cảnh vật được cảm nhận bằng tâm hồn của Kiều nhuốm màu buồn thê thiết:
Buồn trông cửa bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa
Nhà thơ sử dụng ngôn ngữ độc thoại nội tâm để diễn tả nỗi lòng Kiều. Điệp từ “Buồn trông” được lặp lại bốn lần kết hợp với các hình ảnh thiên nhiên nhằm diễn tả sự tăng tiến của nỗi buồn. Nó vừa mang sắc thái thảng thốt, lo âu lại vừa thể hiện tâm thế trông ngóng một điều gì đó mơ hồ. Hai câu thơ đầu có thời gian “chiều hôm” gợi lên cảm giác nhớ nhà, khao khát sự đoàn viên. Hình ảnh con thuyền cùng cánh buồm thấp thoáng có ý nghĩa ẩn dụ sâu sắc. Cánh buồm nhỏ bé đơn độc giữa muôn trùng sóng nước, chìm vào ráng chiều tựa như hy vọng hạnh phúc của người con gái sắp tàn lụi. Con thuyền mỗi lúc một xa, không biết đến khi nào mới tìm được bến bờ ngơi nghỉ. Nhìn hình ảnh ấy, Kiều chợt nghĩ đến thân phận mình. Cuộc đời lưu lạc của nàng biết khi nào mới chấm dứt?
Cao dao xưa thường lấy những hình ảnh như hạt mưa sa, tấm lụa đào – những sự vật gợi sự mỏng manh, yếu đuối để nói về người phụ nữ. Ở đây, Kiều cũng ví thân phận mình với cánh hoa trôi:
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu
Câu hỏi tu từ “về đâu” được đặt ở cuối dòng thơ gợi lên nỗi băn khoăn, tâm trạng thấp thỏm của Kiều. Nàng không biết trông đợi vào đâu, tương lai chỉ là khoảng không mịt mù. Không gian cửa bể lúc triều lên cuộn xoáy đối lập với những cánh hoa tàn nhỏ bé trôi nổi trên mặt nước. Tâm trạng của Kiều đã được đẩy lên một cung bậc mới. Đó chính là sự vô phương đến hoảng hốt. Nó còn đem đến dự cảm về tương lai sóng gió.
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Nếu trong tiết thanh minh, sắc xanh của cỏ chứa đựng sức sống mãnh liệt: “Cỏ non xanh tận chân trời” thì đến đây, khung cảnh lại héo úa, tàn lụi. Từ láy “rầu rầu” diễn tả màu xanh nhàn nhạt, có phần ngả sang vàng. “nội cỏ”, “chân mây”, “mặt đất” mở ra không gian rộng lớn nghìn trùng. Ở nơi ấy, chân trời và mặt đất như nối liền với nhau, kéo dài tít tắp. Kiều trông ra thiên nhiên để tìm kiếm sự tri âm nhưng càng hi vọng thì càng thất vọng não nề. Ánh nhìn của Kiều gợi ta nhớ đến hình ảnh người chinh phụ trong “Chinh phụ ngâm”. Người chinh phụ nhớ thương chồng, nhìn mãi theo bóng chồng mà chỉ thấy thiên nhiên vời vợi:
Cùng trông lại mà cùng chẳng thấy
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu
Cùng là cái “xanh xanh” bất tận diễn tả nỗi buồn, sự cô đơn nhưng nếu người chinh phụ còn có hình bóng chồng để ngóng trông, nuôi dưỡng hi vọng về tương lai đoàn tụ thì Kiều lại chẳng có gì để trông chờ. Kiều thương chàng Kim, thương cha mẹ, khát khao đoàn tụ biết bao nhiêu nhưng xã hội đồng tiền đã đẩy nàng vào con đường lưu lạc không biết đâu là bến bờ.
Hai câu thơ cuối đẩy tâm trạng bi thương của Kiều đến cung bậc cao nhất:
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi
Khung cảnh thiện nhiên đã có sự biến đổi. Gió cuốn mặt duềnh vô cùng dữ dội, sóng gào thét ầm ầm khi thủy triều dâng. Kiều cảm thấy những cơn sóng đáng sợ kia đang bủa vây lấy nàng, bao quanh chân ghế nơi nàng ngồi để rồi kéo nàng xuống đáy vực sâu thẳm. Cơn khủng hoảng nội tâm khiến thế giới quanh Kiều chao đảo. Thiên nhiên không chỉ là những hình ảnh tả thực mà còn ẩn dụ cho những biến cố sắp sửa ập đến. Cảnh được nhìn từ xa tới gần, màu sắc chuyển đổi từ nhạt đến đậm, âm thanh từ tĩnh đến động để đồng nhất với tâm trạng cô liêu, tủi thân tủi phận đến vô phương, kinh sợ trong lòng Kiều.
Tám câu thơ với ngôn ngữ độc thoại nội tâm đã thể hiện vẻ đẹp trong tâm hồn Kiều. Nàng nhân hậu, vị tha, giàu đức hi sinh, chung thủy trong tình yêu và hiếu thảo với cha mẹ.
Thông qua thể thơ lục bát truyền thống, cách điển tích, điệp từ “Buồn trông” cùng hệ thống các hình ảnh thiên nhiên có tính chất ẩn dụ, hệ thống từ láy giàu sức gợi, đại thi hào Nguyễn Du đã diễn tả một cách tinh tế những cung bậc cảm xúc của Kiều khi bị giam tại lầu Ngưng Bích. Từ đó, nhà thơ bày tỏ niềm xót xa, thương cảm cho hoàn cảnh của nàng và lên án xã hội đồng tiền đã đày ải người phụ nữ đến bước đường cùng.
“Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một trong những trích đoạn đặc sắc nhất của “Truyện Kiều”. Nguyễn Du quả thực đã làm nên kiệt tác văn học, thể hiện vẻ đẹp của ngôn ngữ và tâm hồn con người Việt Nam:
Tiếng đàn xưa đứt ngang dây
Hai trăm năm lại càng say lòng người
Trải bao gió dập sóng dồi
Tấm lòng thơ vẫn tình đời thiết tha
2. Cảm nhận tấm lòng của Thúy Kiều trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích - Mẫu 2
Kiều ở lầu Ngưng Bích là một bức tranh tâm tình đầy xúc động từ nỗi buồn mênh mang vô tận đã lan toả, thấm đượm vào cảnh vật. Một mình Kiều sống trong cảnh cấm cung bơ vơ nơi quê người đất khách. Không gian vắng lặng, hoang sơ không một bóng người, chỉ có thiên nhiên làm bạn với Kiều:
“Vẻ non xa, tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia”.
Ngày nàng ngắm núi xa, cảnh núi non xa mờ gợi lên nỗi buồn, niềm thương nhớ da diết với cha mẹ, người yêu. Đêm nàng ngắm vầng trăng và cảm thấy nó rất gần như ở chung với mình. Tuy chỉ là những câu thơ tả cảnh nhưng chúng ta cũng thấy hình ảnh Kiều cô đơn. Không gian thơ càng mở rộng bốn bề bát ngát thì hình ảnh Kiều càng trở nên bé nhỏ, côi cút bơ vơ. Nàng không có ai để cùng chia sẻ nỗi lo âu sợ hãi của người thiếu nữ lần đầu tiên xa nhà. Giữa nền thiên nhiên mênh mông rộng lớn, bát ngát ấy, một nỗi niềm choáng ngợp tâm hồn nàng là nỗi bẽ bàng. Đó là nỗi chán ngán cô đơn, chán cho cảnh ngộ của mình, thân phận mình xinh đẹp là thế, tài hoa là thế mà giờ đây chỉ còn biết làm bạn với mây buổi sớm, ngọn đèn đêm khuya:
"Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng."
Cảnh ở đây gắn vào tình người, làm nên bức tranh tâm tình sinh động và bức tranh này được hình thành bằng tâm cảnh của Thuý Kiều, đó là bi kịch nội tâm.
Một mình cô đơn lẻ bóng trước lầu Ngưng Bích, trong lòng Kiều trào lên nỗi nhớ những người thân yêu. Nàng hướng tình cảm của mình tới Kim Trọng. Trong kí ức của nàng kỉ niệm của đêm thề nguyện đính ước dưới trăng vẫn còn đang nóng hổi, tươi rói:
"Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ."
Giờ đây Kiều đang ngóng đợi hình bóng chàng Kim với nỗi sầu tư. Nguyễn Du đã miêu tả chính xác, qua từ "tưởng" đó là tưởng nhớ, tưởng tượng lại. Không những thế, sau tình cảm bồi hồi da diết nhớ đến Kim Trọng, trái tim Kiều lại thổn thức tình cảm của đứa con xa nhà nhớ về cha mẹ. Tự nguyện bán mình để lấy tiền chuộc cha, Kiều đã làm tròn chữ hiếu. Nhưng trong lòng người con gái hiếu thảo vẫn canh cánh một nỗi xót xa khi cha mẹ đã già mà không có mình bên cạnh để nâng giấc, chăm sóc. Nàng hình dung ra bóng dáng song thân đang mỏi lòng tựa cửa ngóng tin con và xót xa tự hồi giờ đây ai là người đang thay mình quạt nồng, ấp lạnh:
"Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh, những ai đó giờ"
Nhìn đâu Kiều củng thấy buồn, đúng như Nguyễn Du đúc kết: “Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu. Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”, Kiều dù đang bơ vơ nơi góc bể chân trời nhưng nàng không hề nghĩ tới mình, luôn lo lắng cho người khác. Dù trong cảnh ngộ nào Kiều cùng ngời sáng lên đức hi sinh tấm lòng vị tha, nhân hậu.
Qua ngòi bút thiên tài của Nguyễn Du, nỗi buồn của Kiều càng được tô đậm thêm qua mỗi lần điệp từ “buồn trông” được cất lên là mở ra một bức tranh thiên nhiên và bức tranh tâm trạng. Không gian bao la bát ngát nơi cửa bể vào lúc chiều tà, bóng xế để gợi lên trong lòng người nỗi nhớ thương. Nhìn cánh buồm thấp thoáng xa xa, trong lòng Kiều trào lên nỗi khát khao cùng cánh buồm về quê hương. Rồi trông cánh hoa mỏng manh trôi dạt trên dòng nước cuốn, nàng nghĩ tới thân phận lênh đênh của mình. Hình ảnh nội cỏ rầu rầu giữa một không gian chân mây, mặt đất gợi trong lòng nàng nỗi lo lắng cho một tương lai mờ mịt:
"Buồn trông cửa bề chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh"
Âm thanh của tiếng sóng ầm ầm trong cảnh gió cuốn mặt duềnh là nỗi sợ hãi của Kiều trước bão tố cuộc đời đang chờ đón nàng phía trước. Nàng tưởng như mình đang ngồi giữa biển khơi, bốn bên sóng dữ gào thét, dội cả vào tâm hồn, vây bủa lấy nàng:
"Buồn trông gió cuốn mặt duềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi."
Bức tranh thiên nhiên ấy cũng là bức tranh tâm cảnh trong tâm hồn Kiều đầy lo âu, thấp thỏm, bất an.
Nguyễn Du quả là bậc thầy trong việc miêu tả nội tâm nhân vật và sử dụng các biện pháp tu từ rất độc đáo. Đó là một bức tranh tả cảnh ngụ tình thể hiện một đặc sắc trong bút pháp nhà thơ: cảnh và tình bao giờ cũng hoà quyện với nhau. Nhưng phải chăng đặc sắc nhất vẫn là tình của nhà thơ với nhân vật của mình, đối với con người và đối với cuộc đời, nói một cách khác, đó là giá trị nhân văn của đoạn trích, bắt nguồn từ tấm lòng nhân đạo của Nguyễn Du.
Qua đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích”, hẳn người đọc sẽ có suy nghĩ về nhân vật Kiều, một cô gái chung thuỷ với người yêu, hiếu thảo với cha mẹ. Và ta càng căm giận xã hội bất công, tàn bạo đã đày đọa những con người tài hoa như nàng phải sa vào kiếp sống tủi nhục ở chốn lầu xanh.
3. Cảm nhận tấm lòng của Thúy Kiều trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích - Mẫu 3
Truyện Kiều, tên gốc là Đoạn trường tân thanh, là truyện thơ kinh điển trong Nền Văn học Việt Nam, được viết bằng chữ Nôm theo thể lục bát của Nguyễn Du, gồm 3254 câu, dựa theo tiểu thuyết "Kim Vân Kiều truyện" của Thanh Tâm Tài Nhân, Trung Quốc. Đây là một trong những tác phẩm tạo nên tiếng tăm cho đại thi hào dân tộc Nguyễn Du. Để nói về tài năng của ông trong văn chương ví dụ như bút pháp “Tả cảnh ngụ tình” chúng ta có thể tìm đọc đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích trong tập thơ Truyện Kiều.
Tâm trạng của Thúy Kiều trong đoạn trích “kiều ở lầu ngưng bích”Bị Mã Giám Sinh lừa gạt phẫn uất, Thúy Kiều dùng dao tự vẫn,Tú Bà sợ mất vốn mất lãi nên đã thuốc thang rồi đưa Thúy Kiều, vờ hứa hẹn sẽ gả nàng cho một người tử tế, đưa nàng vào ở trong lầu Ngưng Bích để giam lỏng. Ở chiếc lầu hoang vắng, xung quanh chỉ có mây mù và những dãy núi xa xăm. Thúy Kiều làm bạn với mây trời và sự cô đơn.
“Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia”
Mở đầu Nguyễn Du đã vẽ ra không gian tĩnh mịch làm nổi bật tâm trạng cô đơn của Thúy kiều. Hai từ “Khóa xuân” có lẽ là tóm gọn nên bi kịch cho nàng Kiều. Không gian thật là mênh mông với “vẻ non xa tấm”, “bốn bề bát ngát”, "cát vàng cồn nọ". Cảnh lầu Ngưng Bích vì thế mà trở nên trống trải, hoang vắng và lạnh lẽo. Từ cảnh vật lạnh lẽo, không gian rộng lớn mênh mông vô cùng, vô tận, Thúy Kiều lại ý thức sâu sắc về cảnh ngộ bi kịch của bản thân.
“Bẽ bàng mây sớm đèn khuya
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng”
“bẽ bàng”, “mây sớm về khuya” tạo nên cái sự cô đơn đến choáng ngợp hay cảnh u buồn không lối thoát, không kết thúc. Với không gian đó nàng chợt chìm đắm vào sự nhớ nhung, tâm trạng được hiện rõ, trước hết nàng nhớ về người yêu của mình, về chàng Kim:
“Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ
Bên trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai”
Nỗi nhớ dành cho người đã từng thề nguyện hẹn ước trăm năm, nhớ những kỉ niệm đêm trăng hẹn thề. Phương xa, có lẽ chàng vẫn đang trông ngóng tin của nàng, đâu biết nàng đã phải bán thân để đến nơi đất khách quê người. Nàng đau lòng khi nghĩ thân phận mình bị vùi dập liệu gội rửa biết bao lần có xứng đáng để yêu chàng Kim trọng.
Buồn thương nàng lại nhớ đến cha mẹ
“Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ”
Kiều xót xa thương cảm vì cha mẹ hôm mai “tựa cửa” ngóng tin con nơi biệt xứ. Có thể giải thích đơn giản việc nàng dành nỗi nhớ trước cho Kim Trọng vì nàng chưa làm tròn câu thề với người yêu mà đã đi biệt tích. Còn nơi cha mẹ, dẫu gì nàng cũng đã đền đáp được một phần công lao và nơi quê nhà cha mẹ có em Vân đang chăm sóc hộ mình.
Tiếp tục là những bức tranh tâm trạng của Thúy Kiều:
“Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa,
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ dàu dàu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ám tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.”
Bốn bức tranh đều được nhà thơ khởi đầu bằng hai tiếng “buồn trông” nghĩa là nỗi buồn đã sẵn tự trong lòng trước khi nhìn vào cảnh và ngắm cảnh cùng với nỗi buồn ấy. Tả cảnh ngụ tình. Một nồi buồn lớn, không phải là nỗi buồn thoáng qua chốc lát, mà là nỗi buồn đeo đẳng suốt cả đời người. Bốn bức tranh ấy cũng gợi liên tưởng về thân phận bọt bèo, trôi nổi giữa dòng đời như “ hoa trôi” của Thúy Kiều.
Tâm trạng của Thúy Kiều được bộc lộ rõ nét và sâu sắc qua bút pháp tài hoa của tác giả Nguyễn Du. Không chỉ thể hiện nỗi buồn mà còn làm cho người đọc hiểu hơn về tấm lòng son sắc, chung thủy và hiếu thảo của Thúy Kiều.
4. Cảm nhận tấm lòng của Thúy Kiều trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích - Mẫu 4
Thúy Kiều là nhân vật lí tưởng của Nguyễn Du với sự trọn vẹn về tài và sắc nhưng cuộc đời Kiều lại long đong, lận đận. Qua nhân vật Thúy Kiều, tác giả muốn gửi gắm những khát vọng sống, khát vọng yêu mạnh liệt nhất. Trong những năm tháng đày đọa bản thân, cảnh kiều sống ở lầu Ngưng Bích khiến người đọc rưng rưng. Nguyễn Du đã gợi tả thành công hình dáng và tâm lí của Thúy Kiều khi sống ở chốn lầu xanh qua đoạn “Kiều ở lầu Ngưng Bích”.
Cuộc đời của Thúy Kiều sau khi rơi vào tay Mã Giám Sinh là những chuỗi ngày đằng đằng nhớ thương và nước mắt. Thúy Kiều bị chà đạp và vùi dập không xót thương. Những kẻ mua thịt bán người đã không từ mọi thủ đoạn để có được Kiều, và rồi để hành hạ Kiều. Thúy Kiều đã định tìm đến cái chết để giải thoát bản thân nhưng Tú Bà đã biết được và đem Kiều sống tại lầu Ngưng Bích – một nơi lạnh lẽo tình người. Thực chất hành động này của mụ chính là giam lỏng kiều, dần dần buộc Kiều tiếp khách.
Khung cảnh lầu Ngưng bích khiến người đọc phải xót xa:
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ bụi hồng dặm kia.
Cụm tù “Bát ngát xa trông” đã gợi lên sự vô tận của không gian, của thiên nhiên. Đâu là bến bờ, đâu là điểm dừng chân hình như là không có. Một khung cảnh cô liêu, hoang lạnh đến rợn người. Thúy Kiều nhìn xa chỉ thấy những dãy núi, những cồn cát bay mù trời. Nàng chỉ biết làm bạn với cảnh vật vô tri, vô giác, ảm đảm và quạnh quẽ đến thê lương. Chỉ một vài chi tiết nhưng Nguyên Du đã khắc họa thành công khung cảnh lầu Ngưng Bích đơn côi.
Trong khung cảnh này, Thúy Kiều vẫn luôn nhung nhớ về chốn cũ, về người xưa. Nỗi nhớ ấy da diết và day dứt:
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng
Tin sương luống những rày trông mai chờ
Bên trời góc bể bơ vơ
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai
Dù trong hoàn cảnh éo le như thế này nhưng tấm lòng son của Thúy Kiều vẫn nhung nhớ tới một người khi tưởng lại những kỉ niệm êm đẹp từng có. Kiều xót xa kkhi nghĩ tới cảnh Kim Trọng còn mong chờ tin tức của nàng. Rồi nhìn lại mình, thấy nhơ nhuốc và hoen ố. Thúy Kiều đã không thể giữ trọn lời hứa với chàng Kim. Nàng nằng “tấm son gột rửa bao giờ cho phai”, những gì nang chịu đựng, những gì kẻ xấu làm với này biết bao giờ chàng Kim thấu, biết bao giờ có thể gột rửa đây? Một tiếng lòng đầy đau đớn và thê lương.
Cảm nhận về Thúy Kiều
Nghĩ về người yêu đã xót, Thúy Kiều còn xót xa hơn khi nghĩ về cha mẹ:
Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấm lạnh những ai đó chờ
Sân Lai cách mấy nắng mưa
Có khi ngồi gốc tứ đã vừa người ôm
Thúy Kiều chua xót khi nghĩ cảnh cha mẹ đã già yếu, héo hon từng ngày. Nàng lo lắng không biết có ai chăm sóc cho cha mẹ hay không. Nàng ân hận và chua xót khi không được phụng dưỡng mẹ già. Một người con gái hiếu thảo, nhưng đành lặng lẽ nhớ và lặng lẽ chờ mong ngày đoàn tụ.
Thúy Kiều – một người con gái dù sống trong cảnh nhơ nhuộc nhưng chữ hiếu và chữ tình vẫn còn da diết trong trái tim của Kiều.
Con người đã buồn thê lương, nhìn ra cảnh bật dường như càng thê lương hơn:
Buồn trông của bể chiều hôm
Thuyền ai thấp thoáng cảnh buồn xa xa
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu
Những câu thơ chua xót, cứa vào lòng người người đọc nhiều đớn đau mà Kiều phải trải qua. “Chiều hôm” là thời gian mà nỗi buồn cứ thế ùa về, hiển hiện bao nhiêu thương nhớ nhưng đành câm lặng. Điệp từ “Buồn trông” như khắc khoải, như chờ mong và như nén lại trong lòng. Thúy Kiều ví mình như “hoa trôi” vô định, không có điểm dừng, không biết về đâu.
Màu xanh xuất hiện ở cuối đoạn trích dường như càng khiến cho cảnh thêm tái tê hơn:
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh
Buồn trông gió cuốn mặt ghềnh
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi
Một bức tranh chỉ có màu “buồn”, buồn đến thê thảm và buồn đến não nề. Dường như người buồn cảnh có vui đâu bao giờ. Màu cỏ, màu mây, màu nước, đều là màu “xanh xanh”, nhưng không phải màu xanh tươi mới mà là màu xanh đến rợn người, mờ mịt và đầy tối tăm.
Mỗi câu thơ, mỗi hình ảnh để khắc họa được tâm trạng đầy ngổn ngang giữa một khung cảnh ảm đạm, tái tê khiến người đọc không cầm được cảm xúc. Nguyễn Du với những nét vẽ tài tình đã vẽ lên một bức tranh tuyệt đẹp, một vẻ đẹp đến thê lương cuộc sống của Thúy Kiều ở lầu Ngưng Bích.
5. Cảm nhận tấm lòng của Thúy Kiều trong đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích - Mẫu 5
Nguyễn Du là bậc thầy về tả cảnh. Nhiều câu thơ tả cảnh của ông có thể coi là chuẩn mực cho vẻ đẹp của thơ ca cổ điển. Nhưng Nguyễn Du không chỉ giỏi về tả cảnh mà còn giỏi về tả tình cảm, tả tâm trạng. Trong quan niệm của ông, hai yếu tố tình và cảnh không tách rời nhau mà luôn đi liền nhau, bổ sung cho nhau.
Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích là một bức tranh tâm tình đầy xúc động. Bằng bút pháp tả cảnh ngụ tình, Nguyễn Du đã miêu tả tâm trạng nhân vật một cách xuất sắc. Đoạn thơ cho thấy nhiều cung bậc tâm trạng của Kiều. Đó là nỗi cô đơn, buồn tủi, là tấm lòng thủy chung, nhân hậu dành cho Kim Trọng và cha mẹ.
Kết cấu của đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích rất hợp lí: Phần đầu tác giả giới thiệu cảnh Kiều bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích; phần thứ hai: trong nỗi cô đơn buồn tủi, nàng nhớ về Kim Trọng và cha mẹ; phần thứ ba: tâm trạng đau buồn của Kiều và những dự cảm về những bão tô cuộc đời sẽ giáng xuống đời Kiều.
Thiên nhiên trong sáu câu thơ đầu được miêu tả hoang vắng, bao la đến rợn ngợp. Ngồi trên lầu cao, nhìn phía trước là núi non trùng điệp, ngẩng lên phía trên là vầng trăng như sắp chạm đầu, nhìn xuống phía dưới là những đoạn cát vàng trải dài vô tận, lác đác như bụi hồng nhỏ bé như càng tô đậm thêm cuộc sống cô đơn, lẻ loi của nàng lúc này:
Trước lầu Ngưng Bích khoá xuân
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia
Có thể hình dung rất rõ một không gian mênh mông đang trải rộng ra trước mắt Kiều. Không gian ấy càng khiến Kiều xót xa, đau đớn:
Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.
Một chữ bẽ bàng mà lột tả thật sâu sắc tâm trạng của Kiều lúc bấy giờ: vừa chán ngán, buồn tủi cho thân phận mình, vừa xấu hổ, sượng sùng trước mây sớm, đèn khuya. Và cảnh vật như cũng chia sẻ, đồng cảm với nàng: nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng. Bức tranh thiên nhiên không khách quan, mà có hồn, đó chính là bức tranh tâm cảnh của Kiều những ngày cô đơn ở lầu Ngưng Bích.
Trong tâm trạng cô đơn, buồn tủi nơi đất khách quê người, Kiều tìm về với những người thân của mình. Nỗi nhớ người yêu, nhớ cha mẹ được Nguyễn Du miêu tả rất xúc động trong những lời độc thoại nội tâm của nhân vật. Nỗi nhớ thương được chia đều: bốn câu đầu dành cho người yêu, bốn câu sau dành cho cha mẹ. Nhưng nỗi nhớ với chàng Kim được nói đến trước vì đây là nồi nhớ nồng nàn và sâu thẳm nhất. Nồi nhớ đó được xoáy sâu và đêm thề nguyền dưới ánh trăng và nỗi đau cũng trào lên từ đó:
Tưởng người dưới nguyệt chén đồng.
Tin sương luống những rày trông mai chờ.
Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm thân gột rửa bao giờ cho phai.
Lời thơ như chứa đựng nhịp thổn thức của một trái tim yêu đương đang chảy máu! Nỗi nhớ của Kiều thật tha thiết, mãnh liệt! Kiều tưởng tượng ra cảnh chàng Kim đang ngày đêm chờ mong tin mình một cách đau khổ và tuyệt vọng. Mới ngày nào nàng cùng với chàng Kim nặng lời ước hẹn trăm năm mà bỗng dưng, nay trở thành kẻ phụ bạc, lỗi hẹn với chàng. Chén rượu thề nguyền vẫn còn chưa ráo, vầng trăng vằng vặc giữa trời chứng giám lời thề nguyền vẫn còn kia, vậy mà bây giờ mỗi người mỗi ngả. Rồi bất chợt Kiều liên tưởng đên thân phận Bên trời góc bể bơ vơ của mình và tự dằn vặt: Tấm son gột rửa bao giờ cho phai. Kiều nuối tiếc mối tình đầu trong trắng của mình, nàng thấm thía tình cảnh cô đơn của mình, và cũng hơn ai hết, nàng hiểu rằng sẽ không bao giờ có thể gột rửa được tấm lòng son sắt, thủy chung của mình với chàng Kim. Và thực sự, bóng chàng Kim cũng sẽ không bao giờ phai nhạt trong tâm trí Kiều trong suốt mười lăm năm lưu lạc.
Nhớ người yêu, Kiều càng xót xa nghĩ đến cha mẹ. Mặc dầu nàng đã liều đem tấc có, quyết đền ba xuân, cứu được cha và em thoát khỏi vòng tù tội, nhưng nghĩ về cha mẹ, bao trùm trong nàng là một nỗi xót xa lo lắng. Kiều đau lòng khi nghĩ đến cảnh cha mẹ già tựa cửa trông con. Nàng lo lắng không biết khi thời tiết thay đổi ai là người chăm sóc cha mẹ. Nguyễn Du đã rất thành công khi sử dụng thành ngữ, điển cố (tựa cửa hôm mai, quạt nồng ấp lạnh, gốc tử) để thể hiện tình cảm nhớ nhung sâu nặng cũng như những băn khoăn, trăn trở của Kiều khi nghĩ đến cha mẹ, nghĩ đến bổn phận làm con của mình. Trong hoàn cảnh của Kiều, những suy nghĩ, tâm trạng đó càng chứng tỏ Kiều là một người con rất mực hiếu thảo.
Nhớ người yêu, nhớ cha mẹ, nhưng rồi cuối cùng nàng Kiều lại quay về với cảnh ngộ của mình, sống với tâm trạng và thân phận hiện tại của chính mình. Mỗi cảnh vật qua con mắt, cái nhìn của Kiều lại gợi lên trong tâm trí nàng một nét buồn. Và nàng Kiều mỗi lúc lại càng chìm sâu vào nỗi buồn của mình. Nỗi buồn sâu sắc của Kiều được ngòi bút bậc thầy Nguyễn Du mỗi lúc càng tô đậm thêm bằng cách dùng điệp ngữ liên hoàn rất độc đáo trong tám câu thơ tả cảnh ngụ tình:
Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.
Nguyễn Du quan niệm: Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu... Mỗi cảnh vật hiện ra qua con mắt của Kiều ở lầu Ngưng Bích đều nhuốm nỗi buồn sâu sắc. Mỗi cặp câu gợi ra một nỗi buồn. Buồn trông là buồn mà nhìn ra xa, nhưng cũng là buồn mà trông ngóng một cái gì đó mơ hồ sẽ đến làm đổi thay tình trạng hiện tại. Hình như Kiều mong cánh buồm, nhưng cánh buồm chỉ thấp thoáng,xa xa không rõ, như một ước vọng mơ hồ, mỗi lúc mỗi xa. Kiều lại trông ngọn nước mới từ cửa sông chảy ra biển, ngọn sóng xô đẩy cánh hoa phiêu bạt, không biết về đâu như thân phận của mình. Rồi màu xanh xanh bất tận của nội cỏ rầu rầu càng khiến cho nỗi buồn thêm mênh mang trong không gian; để rồi cuối cùng, nỗi buồn đó bỗng dội lên thành một nỗi kinh hoàng khi ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi. Đây là một hình ảnh vừa thực, vừa ảo, cảm thấy như sóng vỗ dưới chân, đầy hiểm họa, như muốn nhấn chìm Kiều xuống vực.
Tám câu thơ tuyệt bút với nghệ thuật tả cảnh ngụ tình kết hợp với nghệ thuật điệp ngữ liên hoàn đầu mỗi câu lục và nghệ thuật ước lệ tượng trưng cùng với việc sử dụng nhiều từ láy tượng hình, tượng thanh (thấp thoáng, xa xa, man mác, rầu rầu, ầm ầm) đã khắc họa rõ cảm giác u uất, nặng nề, bế tắc, buồn lo về thân phận của Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng Bích.
Đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích là một bức tranh thiên nhiên đồng thời cũng là một bức tranh tâm trạng có bố cục chặt chẽ và khéo léo. Thiên nhiên ở đây liên tục thay đổi theo diễn biến tâm trạng của con người. Mỗi nét tưởng tượng của Nguyễn Du đều phản ánh một mức độ khác nhau trong sự đau đớn của Kiều. Qua đó, cho thấy Nguyễn Du đã thực sự hiểu nỗi lòng nhân vật trong cảnh đời bất hạnh để ca ngợi tấm lòng cao đẹp của nhân vật, để giúp ta hiểu thêm tâm hồn của những người phụ nữ tài sắc mà bạc mệnh.
Ngoài ra, VnDoc.com đã thành lập group chia sẻ tài liệu học tập THCS miễn phí trên Facebook: Tài liệu học tập lớp 9. Mời các bạn học sinh tham gia nhóm, để có thể nhận được những tài liệu mới nhất.
Cảm nhận của em về tấm lòng của Thúy Kiều qua nỗi nhớ thương của nàng được thể hiện trong đoạn trích "Kiều ở lầu ngưng bích" được VnDoc chia sẻ trên đây. Hy vọng thông qua 4 bài văn này sẽ giúp ích cho các em có thêm tài liệu tham khảo, tích lũy thêm nhiều vốn từ, từ đó hoàn thiện bài văn hay hơn, sinh động hơn, dưới đây là một số bài văn lớp 9 các em tham khảo nhé
- Đóng vai người cháu kể lại câu chuyện Bếp lửa
- Lập dàn bài thuyết minh về chiếc áo bà ba truyền thống
- Nêu cảm nhận của em về những nét đẹp trong phong cách Hồ Chí Minh
- Thuyết minh về chó xoáy Phú Quốc
- Kiều ở lầu Ngưng Bích – Bồi dưỡng HSG Ngữ Văn 9
.......................................................................
Ngoài Cảm nhận của em về tấm lòng của Thúy Kiều qua nỗi nhớ thương của nàng được thể hiện trong đoạn trích "Kiều ở lầu ngưng bích". Mời các bạn học sinh còn có thể tham khảo thêm Soạn văn 9, soạn bài 9 hoặc đề thi học học kì 1 lớp 9, đề thi học học kì 2 lớp 9 các môn Toán, Văn, Anh, Hóa, Lý, Địa, Sinh mà chúng tôi đã sưu tầm và chọn lọc. Với đề thi học kì 2 lớp 9 này giúp các bạn rèn luyện thêm kỹ năng giải đề và làm bài tốt hơn. Chúc các bạn học tốt