Bình giảng bài thơ Từ ấy của nhà thơ Tố Hữu
Bình giảng bài thơ Từ ấy
Văn mẫu lớp 11: Bình giảng bài thơ Từ ấy của nhà thơ Tố Hữu gồm các bài văn mẫu hay cho các em học sinh tham khảo, củng cố kỹ năng cần thiết cho bài kiểm tra viết sắp tới đây của mình. Mời các em học sinh cùng tham khảo.
1. Dàn ý bình giảng bài thơ Từ ấy
Mở bài:
Mở đầu bài thơ “Một nhành xuân” (tặng Đảng thân yêu tròn 50 tuổi), thơ Tố Hữu đã viết:
“Năm 20 của thế kỷ 20
Tôi sinh ra. Nhưng chưa được làm người
Nước đã mất. Cha đã làm nô lệ.
… Từ vô vọng, mênh mông đêm tối
Người đã đến. Chói chang nắng dội
Trong lòng tôi. Ôi Đảng thân yêu
Sống lại rồi. Hạnh phúc biết bao nhiêu!”
Niềm vui sướng, niềm hạnh phúc được tái sinh và niềm say mê mãnh liệt của Tố Hữu trong buổi đầu gặp gỡ lý tưởng Đảng đó, ngay từ tuổi mười tám, đôi mươi, đã được ông viết nên một bài thơ rất xúc động với những hình ảnh táo bạo, chói sáng gợi cảm và một nhạc điệu hăm hở lôi cuốn tràn đầy cảm hứng lãng mạn bay bổng: “ Từ ấy”.
Thân bài
I. Vài nét về tác giả và bài thơ
1. Tố Hữu (1920 – 2002) tên khai sinh là Nguyễn Kim Thành, quê ở làng Phù Lai, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Thuở nhỏ, ông học trường Quốc học Huế. Năm 1938, Tố Hữu được kết nạp vào Đảng Cộng sản. Từ đó, sự nghiệp thơ ca của ông gắn liền với sự nghiệp cách mạng, thơ ông luôn gắn bó và phản ánh chân thật những chặng đường cách mạng đầy gian khổ, hi sinh, nhưng cũng nhiều thắng lợi vẻ vang của dân tộc Việt Nam. Năm 1996 ông được Nhà nước tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật
2. Ngày được đứng vào hàng ngũ những người phấn đấu vì một lý tưởng cao đẹp là bước ngoặt trong cuộc đời Tố Hữu. Ghi nhận kỷ niệm đáng nhớ, với những cảm xúc, suy tư sâu sắc, Tố Hữu đã viết bài thơ này. Bài thơ nằm trong phần “ Máu lửa” của tập “Từ ấy” (Tập thơ gồm ba phần: “Máu lửa”, “Xiềng xích” và “Giải phóng”)
II. Phân tích – bình giảng bài thơ
1. “Từ ấy” là một tứ thơ đặc sắc rất giàu ý nghĩa
“Tứ thơ là một ý lớn bao quát toàn bài thơ, làm điểm tựa cho sự vận động của nội dung bài thơ”. Ở bài thơ này, tứ thơ là “Từ ấy” – cái thời điểm có ý nghĩa bước ngoặt trọng đại thiêng liêng trong cuộc đời cách mạng, đời thơ của tác giả. Đó là thời điểm Tố Hữu bắt gặp lý tưởng cộng sản.
2. Khổ I: Diễn tả niềm vui sướng, niềm hạnh phúc tột đỉnh và niềm say mê khi gặp lý tưởng Đảng.
- Tác giả khẳng định lý tưởng cộng sản như một nguồn sáng mới làm bừng tỉnh, bừng sáng tâm hồn và trí tuệ nhà thơ (chú ý phân tích hình ảnh “bừng nắng hạ”: ánh sáng của ngày hè, rất nồng nàn rạng rỡ. Từ “bừng” chỉ ánh sáng phát ra đột ngột).
- Hình ảnh “mặt trời chân lý chói qua tim” là một hình ảnh độc đáo, bất ngờ, táo bạo giàu ý nghĩa thẩm mĩ mà rất chính xác, gợi cảm. Mặt trời là nguồn sáng rực rỡ, chói chang và duy nhất đưa lại sự sống cho muôn loài. Hình ảnh “mặt trời chân lý ” đi liền với nhóm từ “chói qua tim” đã diễn tả được niềm vui rất đỗi thiêng liêng, có cái gì đó gần như “choáng váng” (chữ dùng của Hoài Thanh) và sức xuyên thấu kỳ diệu, mạnh mẽ của lý tưởng Đảng đối với tình cảm, nhận thức của thi sĩ.
- Hai câu sau: với bút pháp trữ tình, lãng mạn cùng với hình ảnh so sánh có tính chất khẳng định (Tố Hữu dùng từ “là” chứ không dùng từ “như” ), tác giả đã bày tỏ được niềm hạnh phúc vô biên, sức sống kỳ diệu của tâm hồn mình trong buổi đầu đến với lý tưởng Đảng. Hẳn là trước đó, tâm hồn thi sĩ là một khu vườn mùa đông cành khô, lá úa thì giờ đây được gặp lý tưởng cách mạng, bỗng chốc tâm hồn đó trở thành một khu vườn mùa hạ xanh tươi, ngập tràn ánh nắng mặt trời nồng nàn, rộn rã tiếng chim ca và ngạt ngào hương sắc. Vẻ đẹp của khu vườn tâm hồn ấy, đối với Tố Hữu, nhà thơ cộng sản, còn là vẻ đẹp và sức sống mới của một hồn thơ mới…
3. Khổ II: Biểu hiện những nhận thức, lẽ sống mới
- Giác ngộ lý tưởng, giác ngộ nhận thức, lẽ sống đối với người cộng sản, trước hết là giác ngộ về chỗ đứng. Nhà thơ chủ động, tự giác hoà “cái tôi” với “cái ta” chung của mọi người, tự nguyện đứng trong hàng ngũ những người lao khổ. Từ “buộc” thể hiện ý thức tự nguyện sâu sắc và quyết tâm cao độ của Tố Hữu nguyện gắn bó mật thiết, sống chan hoà với “mọi người” với “trăm nơi” với quần chúng đông đảo khắp mọi niềm đất nước. Nhóm từ “để tình trang trải” thể hiện tâm hồn nhà thơ như muốn trải rộng với cuộc đời rộng lớn, tạo ra khả năng đồng cảm sâu xa với mọi cảnh ngộ của những cuộc đời cần lao.
- Hai câu sau: “Để hồn tôi với bao hồn khổ …. mạnh khối đời” khẳng định tình cảm hữu ái giai cấp của Tố Hữu. Tâm hồn của thi sĩ từ đây sẽ nghiêng về phía “bao hồn khổ” để cảm thông, chia sẻ, để cá nhân hoà vào tập thể, tạo nên một sức mạnh quần chúng đông đảo, vĩ đại. Sau này, khi đã trải qua gần 40 năm đời thơ, đời cách mạng, Tố Hữu cũng đã viết: “Tất cả cùng tôi. Tôi với muôn người. Chỉ là một. Nên cũng là vô số!”
4. Khổ III:
- Tố Hữu khẳng định sự chuyển biến tình cảm của mình. Tác giả tự nhận mình là một thành viên thân thiết ruột thịt trong đại gia đình quần chúng bị áp bức, đau khổ trong xã hội cũ. Các điệp từ “là” cùng với các từ “con”, “em”, “ anh” đã khẳng định điều đó.
- Số từ ước lệ “vạn” chỉ số lượng hết sức đông đảo. Chính những “người anh” phải sống “kiếp phôi pha”, những người “ em”… “cù bất cù bơ” ấy mà người thanh niên cộng sản Tố Hữu say mê hoạt động cách mạng, và họ cũng chính là đối tượng sáng tác chủ yếu của nhà thơ Tố Hữu. Không phải ngẫu nhiên mà từ đây, Tố Hữu đã bày tỏ niềm cảm thông sâu sắc với những “em bé mồ côi”, “em bé bán dạo”, “chị vú em”, “cô gái giang hồ”, “lão đầy tớ”… những con người mà tác giả cho đó là “những người tù nhân khốn nạn của bần cùng”
Kết luận:
- Từ ấy là một bài thơ sâu sắc về nội dung, độc đáo về nghệ thuật
- Ngòi bút tinh tế, dùng hình tượng thơ táo bạo, chói sáng, giàu khát vọng lãng mạn bay bổng, say người.
- Câu thơ mạnh, cảm xúc thơ tràn đầy. Nhạc thơ biến đổi sinh động, hăm hở dồn dập say sưa, lôi cuốn.
- “Từ ấy” còn là một tuyên ngôn nghệ thuật và mang đậm phong cách thơ Tố Hữu. Nó xứng đáng là một tiếng hát lạc quan, yêu đời, đắm say lý tưởng, ngày nay vẫn làm xúc động hàng triệu trái tim độc giả.
2. Bình giảng bài thơ Từ ấy của nhà thơ Tố Hữu mẫu 1
Tố Hữu tên thật là Nguyễn Kim Thành sinh năm 1920 tại Thừa Thiên - Huế. Ông là nhà thơ lớn của nền thi ca cách mạng Việt Nam. Cuộc đời thơ của Tố Hữu gắn liền với cuộc cách mạng của ông, Mỗi tác phẩm của thi sĩ là một chặng đường lịch sử, là một chiến công của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng và Hồ Chủ tịch: Từ ấy (1937 - 1946), Việt Bắc (1954), Gió lộng (1961), Ra trận (1972), Máu và Hoa (1977)...
Bài thơ Từ ấy được. Tố Hữu sáng tác vào tháng 7-1938; nhan đề bài thơ trở thành tên tập thơ đầu của Tố Hữu. Bài thơ nói lên niềm vui sướng hạnh phúc của một thanh niên yêu nước bắt gặp lí tưởng cách mạng của Đảng, thấy gắn bó với nhân dân cần lao.
Từ ấy là lúc, là khi nhà thơ được giác ngộ chủ nghĩa Mác - Lênin, một kỉ niệm sâu sắc của người thanh niên yêu nước bắt gặp lí tưởng cách mạng mà sau này ông nói rõ trong một bài thơ "Con lớn lên con đi tìm Cách mạng — Anh Lưu, Anh Diểu dạy con đi - Mẹ không còn nữa, con còn Đảng. Dìu dắt khi con chửa biết gì" (Quê mẹ).
"Mặt trời chân lí" là hình ảnh ẩn dụ ca ngợi lí tưởng cách mạng, ca ngợi chủ nghĩa Cộng sản đã soi sáng tâm hồn, đã "chói qua tim" đem lại ánh sáng cuộc đời như "bừng" lên trong nắng hạ - một cách nói rất mới, rất thơ về lí tưởng.
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim
Lí tưởng cách mạng đã làm thay đổi hẳn một con người, một cuộc đời. So sánh để khẳng định một sự kiện biến đổi kì diệu mà lí tưởng cách mạng đem lại.
Hồn ta là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim
"Hồn" đã trở thành "vườn hoa lá" một vườn xuân đẹp ngọt ngào hương sắc, rộn ràng tiếng chim hót. Đây là khổ thơ hay nhất, đậm đà màu sắc lãng mạn nhất trong thơ Tố Hữu. Ngoài việc sáng tạo hình ảnh ẩn dụ (mặt trời chân lí), tác giả lựa chọn sử dụng từ ngữ rất chính xác, hình tượng và gợi cảm" bừng", "chói", "đậm", "rộn" để diễn ta thay hay niềm say mê lí tưởng "Đảng đã cho tôi sáng mắt sáng lòng" (Agagông - Pháp)
Hai khổ thơ thứ 2 và thứ 3 nói lên tình yêu thương giai cấp của người chiến sĩ cách mạng. Dưới ánh sáng của lí tưởng Cộng sản chủ nghĩa nhà thơ thấy tâm hồn mình gắn bó với nhân dân cùng khổ:
Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải với trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời.
Các động từ - vị ngữ như: "buộc", "trang trải", "gần gũi" diễn tả tình cảm gắn bó thiết tha của người chiến sĩ cách mạng, với quần chúng lao khổ. Các từ ngữ "mọi người - trăm nơi" "bao hồn khổ" chỉ số đông nhân dân cần lao mà nhà thơ hướng tới để xây dựng "khối đời", khối công - nông liên minh ngày thêm mạnh, thêm gần gũi chặt chẽ. Ba chữ "tôi" xuất hiện trong khổ thơ thể hiện một tình cảm chân thành, tiếng nói trái tim của người cách mạng.
Khổ cuối với cách diễn tả trùng điệp, các từ "con", "em", "anh" xuất hiện liên tiếp, giọng thơ càng trở nên sôi nổi thiết tha: "là con ...là em..là anh". Các số từ "vạn" (vạn nhà), "vạn" (vạn kiếp phôi pha) "vạn" (vạn đầu em nhỏ..)- cho thấy người chiến sĩ cách mạng sống trong lòng nhân dân, được nhân dân yêu thương, đùm bọc, chở che để khơi dậy sức mạnh nhân dân đứng lên chiến đấu cho tự do và hạnh phúc. Tố Hữu đã có một cách nói sôi nổi, mới mẻ tình cảm cách mạng, tình yêu giai cấp.
Tôi là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm, cù bất cù bơ…
Từ ấy mang hồn thơ trẻ trung, sôi nổi, nồng nàn, say mê và tràn đầy yêu thương. Say mê lí tưởng, yêu thương giai cấp đã tạo nên tình cảm lớn trong bài thơ Từ ấy. Hình tượng đẹp và mới mẻ, chất chữ tình chính trị đã làm nên hương sắc bài thơ. Sáu mươi năm đã qua mà câu thơ "Mặt trời chân lí chói qua tim" vẫn còn mới mẻ. Tố Hữu là nhà thơ viết được những vần thơ hay nhất, đẹp nhất ca ngợi lí tưởng cách mạng và ca ngợi Đảng.
3. Bình giảng bài thơ Từ ấy của nhà thơ Tố Hữu mẫu 2
Tố Hữu là nhà thơ lớn, gần gũi với bao thế hệ người Việt Nam. Thơ Tố Hữu có sức sống lâu bền trong lòng bạn đọc bởi chất men say lí tưởng cao cả, của tình yêu thương chân thành cho con người, của niềm tin bất diệt vào tương lai. Bài thơ Từ ấy đã ghi lại giây phút mê say của nhà thơ khi bắt gặp ánh sáng của Đảng soi đường. Đó không chỉ là cảm xúc vui sướng, phấn khởi mà còn là phẩm chất cao đẹp của người cộng sản muôn hòa nhập và cống hiến hết mình cho đời.
Mỗi người đều có những giây phút trọng đại, thiêng liêng trong cuộc đời. Với người mẹ đó là đứa con yêu ra đời và bập bẹ biết nói, biết đi. Với người yêu nhau là khi họ bắt gặp nhau lần đầu tiên tưởng chừng như quen biết tự bao giờ. Nhà thơ Xuân Diệu từng có giây phút đó:
Từ lúc yêu nhau hoa nở mãi
Trong vườn thơm ngát của hồn tôi.
Còn riêng Tố Hữu, hạnh phúc lớn nhất là lúc nhận ra con đường đi đúng đắn của mình, bắt gặp ánh sáng lí tưởng của Đảng. Đó là cái mới đánh dấu bước ngoặt lớn trong đời người thanh niên yêu nước đầy nhiệt tình, hăm hở. Tố Hữu vào Đảng khi còn rất trẻ — mười bảy tuổi, vậy mà mối duyên với cách mạng sớm đưa lại những đổi thay kì diệu về tình cảm và tâm hồn, nhận thức:
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim.
Từ ấy đặt ngay đầu bài thơ như bức tường vạch chia ranh giới rõ ràng giữa hai khoảng thời gian. Thời gian cuộc đời của nhà thơ tự phân làm hai nửa trước và nửa sau từ ấy cho chúng ta sự khác biệt trong một con người. Trước Từ ấy là cuộc sống bế tắc không lối thoát, cô đơn tuyệt vọng chán chường.
Đâu những ngày xưa tôi nhớ tôi
Bâng khuâng đi kiếm lẽ yêu đời
Vẫn vơ theo mãi dòng quanh quẩn
Muốn thoát than ôi, bước chẳng rời.
(Nhớ đồng)
Đó không phải là tâm trạng của riêng mình nhà thơ mà là chung cho cả thế hệ trẻ lúc bấy giờ vừa rời ghế nhà trường liền va đập ngay với những cảnh đời trớ trêu. Họ bi quan, không xác định cho mình một hướng đi, hay một lí tưởng dứt khoát Bâng khuâng đứng giữa hai dòng nước, chọn một dòng hay để nước trôi.
Từ ấy khép lại chuỗi ngày dằn vặt, đau khổ, bóng tối, mở ra một cuộc sống mới đầy hứa hẹn. Nó toát lên từ sức sống mạnh mẽ bên trong, từ sự thức tỉnh kì diệu. Tố Hữu ghi lại giây phút đổi thay ấy bằng những hình ảnh giàu tính hình tượng bừng nắng hạ, thứ ánh nắng sáng tươi, rực rỡ chiếu soi tỏ khắp nơi đặc biệt soi sáng cả những ngõ ngách sâu kín nhất của tâm hồn, trí tuệ, nhận thức. Mặt trời chân lí là hình ảnh ẩn dụ chì lí tưởng Đảng, nó có sức mạnh vừa cảm hóa, lay động vừa thức tỉnh không chỉ nhận thức, lí trí mà cả tình cảm, con tim của nhà thơ. Dường như có một cuộc đổi thay nhanh chóng giống như người đang sống trong đêm tối mò, tâm hồn khô kiệt bỗng chốc đèn pha bật sáng như ngày mai lên, mọi vật hiện ra, rõ ràng đến từng chi tiết và cảm xúc nảy sinh. Niềm vui sướng thật sự dâng trào khi nhà thơ có cuộc sống mới tươi vui, rộn rã:
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim
Hình ảnh so sánh hồn thơ - vườn hoa lá diễn tả quá đầy đủ về cuộc sống, sức sống dào dạt, sinh sôi. Những xao xuyến, hứng khởi trong tâm hồn sâu kín của nhà thơ được phơi trải ra thật sống động. Đó là cuộc sống đầy màu sắc, âm thanh và mùi vị, có màu xanh yên bình của lá, của hoa, có hương thơm của hoa và tiếng chim rộn ràng. Tất cả những âm vang của cuộc sống được nhà thơ chắt lọc để nuôi dưỡng sức sống của hồn người. Nó được đẩy đến ngưỡng cao nhất. Bằng việc sử dụng các tính từ chỉ mức độ như bừng, chói, rất, đậm, rộn Tố Hữu cho ta thấy sự say mê, ngây ngất của người chiến sĩ cộng sản khi bước theo ánh sáng lí tưởng đời mình. Ghi lại bước chuyển quan trọng trong đời nhưng nhà thơ không lên gân, vẫn giọng thơ nhẹ nhàng dứt khoát mà thấm đẫm cảm xúc vui tươi, tha thiết như mạch sống lan tỏa khắp nơi và ngay cả nơi sâu kín nhất.
Từ ấy là sự đánh dấu một cuộc đổi đời, cao hơn là sự hồi sinh của một con người. Từ đây, sức sống đó sẽ được nhân lên mạnh mẽ, tâm hồn sẽ như một vươn hoa lá: trong sáng, hồn nhiên:
Rồi một hôm nào tôi thấy tôi
Nhẹ nhàng như con chim cà lơi
Say đồng hương vắng vui ca hát
Trên chín tầng cao bát ngát trời.
Sau những phút giây sung sướng nhận ra lí tưởng cao cả cần đi, người chiến sĩ cộng sản phải xác định một tâm thế, một hành động cho xứng đáng. Đó trước hết là ý thức trách nhiệm trước cuộc đời. Nhà thơ thay lời cái tôi chiến sĩ nói lên tâm nguyện, khát vọng ấy:
Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải với trăm nơi
Để hồn tôi với báo hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời.
Con người cá nhân đến đây tan biến dần nhường chỗ cho cái tôi rộng lớn - cái tôi hướng đến cuộc đời và mọi người. Những ích kỉ, hẹp hòi ngăn cách cái tôi đến với mọi người không còn nữa, con đường hòa nhập rộng mở thênh tháng. Làm được điều đó không phải dễ dàng, cần phải đấu tranh, cân nhắc, lựa chọn bằng ý thức trách nhiệm xuất phát từ sự chân thành, tự nguyện. Tôi - nhà thơ tự buộc lòng mình với mọi người. Đó là thái độ dứt khoát, mạnh mẽ xác định bới lí trí sáng suốt. Mối dây ràng buộc với mọi người đã xóa bỏ sự đối lập chất chứa, đầy căm phẫn ngự trị trong tâm hồn tội trước đây đồng thời thiết lập tình yêu thương, gắn kết giữa người và người. Đó là sự cảm thông, chia sẻ trước nỗi đau, vui buồn của bao kiếp người. Tinh thần tự nguyện buộc để tạo nên khối đời, gần gũi, mạnh mẽ là mục đích cuối cùng nâng cao phẩm chất của người cách mạng. Tình nhân ái làm cho mỗi người hòa vào cuộc đời trở thành con người theo đúng nghĩa của nó.
Khổ thơ cuối tiếp tục nhấn mạnh ý thức trách nhiệm của con người cụ thể trước cuộc đời rộng lớn:
Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm cù bất cù bơ
Ba từ là xuất hiện liên tiếp trong đoạn thơ như lời khẳng định chắc nịch, rắn rỏi, dứt khoát cho sự hòa nhập tuyệt đối. Người chiến sĩ đã ở giữa đời và mọi người rất khiêm tốn mà không làm mất đi vẻ tự nhiên vốn có, là con của gia đình, là em của kiếp đời phôi pha, là anh của các em thơ nghèo khổ, đói cơm rách áo. Khối đời to lớn ở đây tạo bởi từng số phận với những cảnh ngộ riêng là em bé Phước trong bài Đi đi em sớm chịu cảnh nô lệ, cả người vú em để con mình đói khát phải đi chăm con người và biết bao người khác nữa. Nhà thơ bắt gặp cuộc đời mình trong những mảnh đời cơ cực ấy. Số từ được sử dụng tăng dần từ một, mọi, trăm, khối, vạn như mở rộng khối đời đồng thời kết nối tình cảm yêu thương gắn bó giữa họ. Ở đó không còn là sự cảm thông mà cao hơn nhà thơ tự thấy mình là thành viên của gia đình rộng lớn phải truyền cho họ tình yêu và trách nhiệm trước số phận của mình. Phải chiến đấu để đem lại cuộc sống tốt hơn cho gia đình, cho mọi người và dìu dắt, bảo ban những em thơ.
Đến đây phẩm chất của người cách mạng được soi sáng. Tâm hồn nhận thức, quan hệ đều được soi chiếu nhờ ánh sáng lí tưởng Đảng, không có sự trải nghiệm, người cộng sản - nhà thơ không thể có những thay đổi lớn lao như vậy.
Từ ấy là bản đàn dạo khúc vui đầu tiên của người cộng sản khi gặp lí tưởng Đảng. Đó là lúc tâm hồn được hồi sinh, trí tuệ bùng sáng, nhận thức trách nhiệm lớn lao với cuộc đời. Thơ Tố Hữu hay khi kết hợp sâu sắc lí tưởng cộng sản, tình thương yêu con người và niềm vui hướng về tương lai. Từ ấy đã kết tinh cái hay ấy và tạo nên sức hút lớn đối với những con người chân chính đã và đang đi theo lí tưởng của mình. Nhà thơ khơi lên lòng nhiệt huyết, quyết tâm của biết bao thế hệ để họ hôm nay và mai sau thực hiện ước nguyện xây dựng cuộc sống tốt đẹp hơn.
4. Bình giảng bài thơ Từ ấy của nhà thơ Tố Hữu mẫu 3
Tố Hữu tên thật là Nguyễn Kim Thành, sinh năm 1920 ở làng Phù Lai, xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên - Huế. Ông hoạt động cách mạng rất sớm, năm 16 tuổi gia nhập Đoàn Thanh niên Cộng sản, năm 18 tuổi trở thành đảng viên Đảng Cộng sản. Đây là thời điểm có ý nghĩa quyết định cả cuộc đời cách mạng và sự nghiệp thơ ca của Tố Hữu. Từ ấy là một trong những bài thơ hay nhất được sáng tác vào giai đoạn đầu tác giả tham gia cách mạng. Bài thơ là tiếng reo vui của người chiến sĩ say mê lí tưởng, yêu nước, yêu cuộc đời, nguyện hiến dâng tuổi thanh xuân cho Tổ quốc, cho nhân dân. Có thể coi bài thơ là tuyên ngôn cho tập Từ ấy nói riêng và cho toàn bộ sự nghiệp thơ ca của Tố Hữu nói chung. Đây là quan điểm, là nhận thức sâu sắc của nhà thơ về mối quan hệ mật thiết giữa cá nhân với quần chúng lao khổ, với nhân loại cần lao dưới ánh sáng chói lọi của Đảng Cộng sản.
Khổ thơ đầu thể hiện niềm vui to lớn và niềm xúc động thiêng liêng của người thanh niên yêu nước khi giác ngộ lí tưởng cách mạng:
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
Mặt trời chân lí chói qua tim
Mục đích của lí tưởng đó là đánh đuổi thực dân Pháp, tiêu diệt bọn vua quan bán nước, giành độc lập tự do cho dân tộc. Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ có lẽ là lúc nhà thơ đã giác ngộ cách mạng và tình nguyện đứng trong hàng ngũ của giai cấp cần lao để đấu tranh tự giải phóng. Đây cũng là thời gian khởi đầu cuộc đời làm cách mạng của nhà thơ và là giây phút bừng sáng ánh nắng chói chang trong trái tim người thanh niên trẻ trước ngưỡng cửa cuộc đời.
Lí tưởng đó như mặt trời chân lí đã xua tan hết u ám, lạnh lẽo, buồn đau trong tâm tư người dân mất nước. Cũng như bao người dân Việt Nam thời ấy, Tố Hữu thấm thía nỗi nhục nô lệ của người dân mất nước. Vì vậy, tâm trạng của nhà thơ khi bắt gặp lí tưởng cách mạng cũng là tâm trạng chung của phần lớn thanh niên lúc bấy giờ.
Tố Hữu ví lí tưởng cộng sản là mặt trời chân lí, có nghĩa là nhà thơ khẳng định đây là nguồn sáng vĩ đại làm bừng thức cả trí tuệ và trái tim mình. Lí tưởng ấy không chỉ tác động tới lí trí mà còn tới tình cảm của nhà thơ (chói qua tim). Điều đó chứng tỏ rằng nội dung của lí tưởng cách mạng đã hàm chứa chủ nghĩa nhân đạo sâu sắc.
Nhà thơ đón nhận lí tưởng không những bằng suy nghĩ chín chắn, nhận thức đúng đắn mà còn bằng cả bầu nhiệt huyết sôi nổi trẻ trung. Ánh sáng lí tưởng đem lại cho nhà thơ niềm vui và gợi bao ước mơ đẹp đẽ về một thế giới đầy hương sắc, âm thanh:
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim...
Câu thơ bay bổng, đậm chất lãng mạn. Nhà thơ diễn tả niềm vui sướng tột độ của một thanh niên yêu nước khi bắt gặp lí tưởng, tìm thấy lẽ sống chân chính của cuộc đời bằng những hình ảnh so sánh đầy nghệ thuật. Đó là ánh sáng chói chang mùa hạ, là màu xanh căng đầy nhựa sống của một vườn hoa lá tốt tươi tỏa hương thơm ngát, rộn tiếng chim ca. Lí tưởng cộng sản - mặt trời chân lí - không những sưởi ấm, soi sáng tâm hồn mà còn truyền nhựa sống vào trái tim người trai trẻ.
Tố Hữu sung sướng đón nhận tí tưởng như cỏ cây hoa lá đón ánh sáng mặt trời. Chinh lí tưởng cộng sản đã làm cho tâm hồn người thanh niên ấy tràn đầy sức sống và niềm yêu đời, khiến cuộc sống trở nên có ý nghĩa hơn. Tố Hữu còn là một nhà thơ nên vẻ đẹp và sức sống mới của tâm hồn cũng là vẻ đẹp và sức sống mới của hồn thơ. Cách mạng không đối lập với nghệ thuật; trái lại, cách mạng đã khơi dậy một sức sống mới, đem lại một cảm hứng sáng tạo mới cho hồn thơ Tố Hữu.
Những từ ngữ tác giả sử dụng trong đoạn thơ có khả năng diễn tả cảm xúc mạnh mẽ: bừng (nắng hạ), chói (qua tim), đậm (hương), rộn (tiếng chim). Những hình ảnh: nắng hạ, mặt trời chân lí chói qua tim, vườn hoa lá, đậm hương, rộn tiếng chim... vừa có vẻ đẹp rực rỡ, vừa hàm chứa ý nghĩa nhân sinh sâu sắc.
Khổ thơ thứ ba là hệ quả của sự giác ngộ chân lí, là lời tâm niệm được nói lên như một lẽ sống, một quyết tâm, một lời hứa thiêng iiêng. Đó là thái độ tự nguyện hiến dâng cho cách mạng, tự nguyện gắn bó với quần chúng lao khổ:
Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải khắp trăm nơi
Đê hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời.
Nếu ở khổ thơ trước với biện pháp tu từ ẩn dụ (nắng hạ, mặt trời chân lí, vườn hoa lá) với lời thơ bay bổng, lãng mạn thì ở khổ thơ này tác giả sử dụng ngôn ngữ giản dị mộc mạc, âm điệu nhẹ nhàng, sâu lắng. Đó là lời bộc bạch trực tiếp ước vọng chân thành của nhà thơ; là tâm niệm của "cái tôi trữ tình cách mạng". Tôi buộc lòng tôi với mọi người là hành động hoàn toàn tự nguyện của nhà thơ đối với giai cấp cần lao. Nhà thơ muốn tình cảm của mình được trang trải với trăm nơi, trở thành sợi dây liên kết chặt chẽ với những trái tim của lớp người cùng khổ để tạo nên một khối đời vững chắc, trở thành sức mạnh to lớn phá tan chế độ thực dân phong kiến, xây dựng một chế độ mới tốt đẹp hơn.
Trong quan niệm về lẽ sống của giai cấp tư sản và tiểu tư sản có phần đề cao "cái tôi cá nhân". Khi được giác ngộ lí tưởng, Tố Hữu khẳng định quan niệm mới về lẽ sống là sự gắn bó hài hòa giữa "cái tôi cá nhân" và "cái ta tập thể". Động từ buộc thể hiện ý thức tự nguyện sâu sắc và quyết tâm cao độ của Tố Hữu muốn vượt qua giới hạn của "cái tôi cá nhân" để sống chan hòa với mọi người. Từ trang trải thể hiện tâm hồn nhà thơ trải rộng ra với cuộc đời, đồng cảm sâu xa với hoàn cảnh của mỗi con người.
Hai câu thơ sau cho thấy tình yêu thương con người của Tố Hữu không phải là thứ tình thương chung chung mà là tình cảm hữu ái giai cấp. Trong mối liên hệ với mọi người, nhà thơ đặc biệt quan tâm đến quần chúng lao khổ. Khối đời là ẩn dụ chỉ một khối người đông đảo cùng chung cảnh ngộ trong cuộc đời, đoàn kết chặt chẽ với nhau, cùng phấn đấu vì một mục tiêu chung. Có thể hiểu: khi "cái tôi" chan hòa trong "cái ta", khi cá nhân hòa mình vào tập thể có cùng lí tưởng thì sức mạnh sẽ nhân lên gấp bội. Tố Hữu đã đặt mình vào giữa dòng đời, vào môi trường rộng lớn của quần chúng lao khổ. Ở đấy, nhà thơ đã tìm thấy niềm vui và sức mạnh mới không chỉ bằng nhận thức mà còn bằng tình cảm mến yêu, bằng sự giao cảm của những trái tim. Qua đoạn thơ, Tố Hữu cũng khẳng định mối liên hệ sâu sắc giữa văn học và cuộc sống, mà chủ yếu là cuộc sống của đông đảo quần chúng nhân dân.
Khổ thơ thứ ba cho thấy sự chuyển biến sâu sắc trong tình cảm của Tố Hữu. Nhà thơ mong muốn tình cảm nồng nhiệt của mình sẽ trở thành sợi dây liên kết chặt chẽ những trái tim của những người cùng khổ, tạo nên sức mạnh to lớn phá tan chế độ bạo tàn đầy áp bức bất công:
Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
Không áo cơm cù bất cù bơ.
Trước khi giác ngộ lí tưởng, Tố Hữu là một thanh niên tiểu tư sản. Lí tưởng cộng sản giúp nhà thơ không chỉ có được lẽ sống mới mà còn vượt qua tình cảm ích kỉ, hẹp hòi của giai cấp tiểu tư sản để có được tình hữu ái giai cấp với quần chúng nghèo khổ. Hơn thế, nhà thơ đã tìm thấy tình cảm gia đình ruột thịt trong quần chúng cách mạng. Người chiến sĩ ấy tự nguyện coi mình là con của vạn nhà, Là em của vạn kiếp phôi pha, Là anh của vạn đầu em nhỏ.
Một sự tự nguyện hoàn toàn, tuyệt đối, không băn khoăn, không ngần ngại. Điệp ngữ: Tôi đã là... lặp đi lặp lại ba lần, giống như một lời tuyên thệ của một chiến sĩ khi đã đứng trong hàng ngũ cách mạng. Điệp từ là cùng với các từ con, em, anh và số từ ước lệ vạn (chỉ số lượng hết sức đông đảo) nhấn mạnh và khẳng định một tình cảm gia đinh thật đầm ấm, thân thiết. Khi nối tới những kiếp phôi pha (những người đau khổ, bất hạnh, những người lao động vất vả, thường xuyên phải dãi dầu mưa nắng để kiếm sống), những em nhỏ không áo cơm cù bất cù bơ (những em bé không nơi nương tựa, phải lang thang vất vưởng nay đây mai đó), tấm lòng đồng cảm, xót thương của nhà thơ biểu hiện thật chân thành, xúc động. Qua đó, chúng ta có thể thấy được thái độ căm giận của nhà thơ trước những bất công, ngang trái của cuộc đời cũ. Chính vì những kiếp phôi pha, những em nhỏ cù bất cù bơ ấy mà người thanh niên Tố Hữu đã hăng say hoạt động cách mạng và họ cũng chính là đối tượng sáng tác chủ yếu của nhà thơ Tố Hữu. (Cô gái giang hồ trong Tiếng hát sông Hương, cô bé đi ở trong Đi đi em, ông lão khốn khổ trong Lão đầy tớ, em bé bán bánh rong trong Một tiếng rao đêm...)
Bài thơ Từ ấy tiêu biểu cho bút pháp lãng mạn cách mạng trong giai đoạn sáng tác đầu tiên của Tố Hữu. "Cái tôi trữ tình" lắng đọng trong từng ý thơ, từng hình ảnh, lúc bay bổng, lúc lắng đọng, lúc là lời bộc bạch trực tiếp, chân thành những ước vọng, tâm tư khi tìm thấy lí tưởng. Từ ấy là tiếng hát yêu thương, tin tưởng, là tiếng lòng tha thiết của một thanh niên bắt đầu giác ngộ lí tưởng, tự nguyện dấn thân vào con đường cách mạng đầy chông gai, gian khổ, hi sinh của toàn dân tộc. Vượt thời gian, sau hơn nửa thế kỉ ra đời, Từ ấy vẫn tươi xanh chất trữ tình cách mạng. Bài thơ đã tạo được sự đồng cảm, mến mộ của nhiều thế hệ yêu thích thơ Tố Hữu.
5. Bình giảng bài thơ Từ ấy của nhà thơ Tố Hữu mẫu 4
Những năm 30 của thế kỉ XX, khi những nhà thơ lãng mạn đang quẩn quanh với cảm giác cô đơn, sự tù túng, sự nhỏ bé cạn hẹp của cái tôi cá nhân mà chưa có cách vượt thoát thì Tố Hữu, một học trò trường Quốc học như đã tiếp nhận được không khí thời đại, sớm“băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời”.
May mắn cho người con xứ Huế khao khát tìm kiếm lẽ sống ấy, “anh Lưu, anh Diểu dạy con đi,” chỉ cho con đường tương lai, cũng là khai sinh một con đường thơ cho người chiến sĩ Cộng sản trẻ tuổi. Sáng tác trong một hoàn cảnh đặc biệt, đánh dấu một mốc son chói lọi trong đời cách mạng, đời thơ Tố Hữu, Từ ấy là bài thơ thể hiện rõ nét hình tượng tác giả người chiến sĩ cộng sản khi bắt gặp lý tưởng cộng sản và những chuyển biến, thay đổi trong nhận thức và tình cảm của người thanh niên cách mạng ấy…
Tố Hữu (1920-2002) ở làng Phù Lai, Quảng Thọ, Quảng Điền, Thừa Thiên-Huế trong một gia đình nhà nho nghèo. Song thân của Tố Hữu rất say mê với việc sưu tầm ca dao, tục ngữ. Tố Hữu sinh ra ở mảnh đất rất giàu về truyền thống văn hoá (những làn điệu dân ca, điệu mái nhì, mái đẩy – Nhạc cung đình). Tất cả có ảnh hưởng không nhỏ tới tâm hồn thơ của Tố Hữu.
Năm 17 tuổi, Tố Hữu đã giác ngộ cách mạng. Năm 1938, khi Tố Hữu 18 tuổi đã được kết nạp vào Đảng Cộng sản.Từ đó sự nghiệp thơ ca của ông gắn liền với sự nghiệp cách mạng. Đó cũng là chặng đường phát triển không ngừng về tư tưởng của Tố Hữu.
Con đường thơ của Tố Hữu bắt đầu gần như cùng lúc với con đường hoạt động cách mạng. Nội dung thơ Tố Hữu bám sát chặng đường cách mạng để phản ánh. Vì vậy thơ Tố Hữu thể hiện lẽ sống lớn, tình cảm lớn của người công dân, chiến sĩ, cán bộ cách mạng đối với Đảng, Tổ quốc, nhân dân, với Bác Hồ. Nghệ thuật thơ Tố Hữu thể hiện ở phong cách trữ tình chính trị, đậm đà tính dân tộc. Cảm hứng của thơ Tố Hữu là cảm hứng lãng mạn kết hợp với khuynh hướng sử thi. Tố Hữu là hiện tượng đặc biệt của thơ ca cách mạng: Ông vừa hoạt động Cách mạng, giữ nhiều chức vụ quan trọng trong trung ương Đảng và Chính phủ, vừa làm thơ.
Bài thơ “Từ ấy” được Tố Hữu viết vào tháng 7/1938 nằm trong phần Máu lửa” của tập thơ Từ ấy. Tập thơ Từ ấy là tập thơ đầu của Tố Hữu. Bài thơ bộc lộ niềm say mê náo nức khi đón nhận lý tưởng Đảng của Tố Hữu. Đồng thời thể hiện lời tâm nguyện của nhà thơ khi đã được giác ngộ Cách mạng.
Tố Hữu là nhà thơ của tình cảm lớn: Thi sĩ không viết về những tình cảm riêng tư nhỏ bé của con người trong mối quan hệ đời thường mà say mê ca ngợi những tình cảm công dân, tình Cảm Cách mạng như tình đồng bào đồng chí, tình yêu quê hương, đất nước, kính yêu lãnh tụ, tinh thần quốc tế và sản. Cái tôi trữ tình trong thơ Tố Hữu ngay từ đầu là cái tôi chiến sĩ, càng về sau càng xác định rõ là cái tội nhân danh Đảng, nhân danh cộng đồng dân tộc.
Lẽ sống lớn trong thơ Tố Hữu là gắn bó với cuộc đấu tranh chung của đất nước nhân dân “vì thiêng liêng giá trị con người/ Vì muôn đời hoa lá xanh tươi”. Niềm vui trong thơ Tố Hữu cũng không nhỏ bé, tầm thường mà là niềm vui lớn; sôi nổi, hân hoan nhất và cũng rực rỡ tươi sáng nhất là những vần thơ về chiến thắng (Huế tháng tám, Hoan hô chiến sĩ Điện Biên, Toàn thắng về ta).
Với tư cách là một loại hình nghệ thuật ngôn từ, văn học lấy con người làm đối tượng nhận thức trung tâm và biểu đạt bằng phương pháp đặc thù, đó là hình tượng nghệ thuật.
Hình tượng nghệ thuật, trước hết, là khách thể đời sống được nghệ sĩ tái hiện bằng tượng tưởng, sáng tạo trong tác phẩm. Nhưng văn bản văn học bao giờ cũng là lời của người kể chuyện hay của nhân vật trữ tình nên hình tượng trong tác phẩm còn là hình tượng của tác giả. Ở “Từ ấy” là cảm giác bừng ngộ đầy hạnh phúc của người thanh niên, trong lớp lẽ sống, bắt gặp lý tưởng Cộng sản.
Bắt gặp lý tưởng Cộng sản, người thanh niên trí thức ấy như tiếp nhận được nguồn sáng xua đi đám mây u ám của cái tôi cá nhân tiểu tư sản:
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
mặt trời chân lí chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim
“Từ ấy”, một phiếm định về thời gian, chỉ thời khắc thiêng liêng bắt gặp lý tưởng cộng sản đã trở thành mốc son, trở thành bước ngoặt trong cuộc đời nhà thơ. Cách nói mang tính chiêm nghiệm, hồi tưởng nhưng không gợi cảm giác bâng khuâng, tiếc nuối thường có mà mạnh mẽ, khẳng định. “Từ ấy” là lúc ánh sáng của lý tưởng cộng sản soi rọi, như chiếc đũa thần kì ban phép lạ, làm bừng tỉnh, giúp con người đốn ngộ chân lí của cuộc sống. Trước “Từ ấy”, Tố Hữu đã từng bế tắc và tăm tối:
Băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời
Vẩn vơ mãi theo vòng quanh quẩn
Muốn thoát, than ôi, bước chẳng rời
Bâng khuâng đứng giữa đôi dòng nước
Chọn một dòng hay để nước trôi
Từ bóng đêm của cuộc đời cũ, Tố Hữu đã đón nhận ánh sáng lý tưởng Đảng. Lý tưởng Đảng đã chiếu rọi và làm bừng sáng về mặt trí tuệ, bồi dưỡng tình cảm cho con người. Vì thế hai tiếng “Từ ấy” không chỉ là tiếng lòng riêng của Tố Hữu mà nó ngân nga với mọi cuộc đời chung. Phải thấu hiểu được nỗi băn khoăn trong quá trình tìm đường và nhận đường của người thanh niên Nguyễn Kim Thành trước đó mới có thể cảm nhận được phần nào niềm vui lớn lao mãnh liệt khi được giác ngộ.
Nhà thơ đã gọi lý tưởng cộng sản bằng những hình ảnh ẩn dụ rực rỡ và ấm nóng. Nắng hạ – thứ ánh nắng chói chang, rực rỡ, nồng nàn, có tác động mạnh mẽ đến tâm hồn thi sĩ. Với Tố Hữu, lý tưởng cộng sản còn là “mặt trời chân lí” – một nguồn sáng vô biên, bất diệt mang lại sức sống, nguồn ấm nóng dạt dào. Chân lí là những gì đúng đắn nhất đã được mọi người thừa nhận. “Mặt trời chân lí” là hình ảnh ẩn dụ ca ngợi lý tưởng cách mạng, ca ngợi chủ nghĩa cộng sản đã soi sáng tâm hồn, là mặt trời toả ánh sáng đúng đắn nhất, mạnh mẽ nhất. Từ “bừng” chỉ ánh sáng phát ra bất ngờ, đột ngột. “Chói” chỉ nguồn ánh sáng có sức xuyên thấu mạnh mẽ. Tố Hữu đã từng ca ngợi lý tưởng Đảng, ca ngợi Bác Hồ:
Người rực rỡ như mặt trời cách mạng
Đêm tàn bay chập choạng dưới chân Người.
“Mặt trời chân lí” cũng là “Mặt trời cách mạng” Tố Hữu đã đón nhận lý tưởng Đảng, lý tưởng cách mạng bằng trí tuệ. Người thanh niên ấy đã nhận ra đâu là tốt đẹp, là nghĩa của đời phải vươn tới. Nói cách khác, nhà thờ hiểu được bản chất cuộc đời, đâu là đúng, đâu là sai. Trong khi biết bao nhiêu con người cùng trang lứa chưa dễ gì nhận ra lý tưởng Đảng, Tố Hữu đã chủ động đón nhận. Điều đó chứng tỏ, Tố Hữu phải là con người tỉnh táo, sáng suốt. Lý tưởng Đảng đã xua tan nhận thức mờ tối, mở ra trong tâm hồn nhà thơ một chân trời mới.
Tố Hữu không chỉ đón nhận lý tưởng Đảng bằng trí tuệ mà bằng cả tình cảm rạo rực, say mê, sôi nổi nhất. Hồn người đã trở thành vườn hoa, một vườn xuân đẹp ngào ngạt hương sắc, rộn ràng tiếng chim hót. Một mảnh vườn hoa lá chắc hẳn phải là mảnh vườn xanh tươi, tràn trề nhựa sống, có lá có hoa lại ngọt ngào hương sắc, Có chim hót rộn ràng.
Rất đậm hương và rộn tiếng chim
Mảnh vườn ấy được so sánh như tâm hồn nhà thơ. Phải chăng tâm hồn ấy tràn ngập niềm vui, niềm say mê, náo nức trẻ trung sôi nổi với cảm hứng lãng mạn tràn đầy trong buổi đầu tiếp nhận lý tưởng Cộng sản. Tố Hữu sung sướng đón nhận lý tưởng cộng sản cũng như cỏ cây đón nhận ánh sáng mặt trời. Lý tưởng cộng sản đã mang lại sức sống và niềm tin yêu cuộc đời cho con người. Đó cũng là giọng điệu chung của thơ Tố Hữu. Sau này khi viết về lý tưởng cộng sản, Tố Hữu cũng say sưa như thế:
Rồi một hôm nào, tôi thấy tôi
Nhẹ nhàng như con chim cà lơi
Say đồng hương nắng vui ca hát
Trên chín tầng mây bát ngát trời
(Nhớ đồng)
Vì thứ ánh sáng kì diệu ấy của lý tưởng cộng sản mà Tố Hữu luôn mang trong mình một chân lí bất diệt:
Trái tim anh chia ba phần tươi đỏ
Anh dành riêng cho Đảng phần nhiều
Có thể nói đây là khổ thơ hay nhất, đậm đà màu sắc lãng mạn nhất trong thơ Tố Hữu. Ngoài việc sáng tạo hình ảnh ẩn dụ “Mặt trời chân lý”, hình ảnh so sánh “Vườn hoa lá”, cũng được tác giả lựa chọn, sử dụng từ ngữ rất chính xác, hình tượng và gợi cảm: Bừng; Chói; Đậm; Rộn… Để diễn tả thật hay niềm say mê lý tưởng mà Đảng đã cho tôi sáng mắt sáng lòng (Aragông-Pháp).
Như một sự tự nhiên, yêu nước, bắt gặp chủ nghĩa Mác – Lê nin, người thanh niên trí thức sau phút giây bừng ngộ về lẽ sống, hạnh phúc vì như được hồi sinh trong tâm hồn, là thức nhận về hành động của mình:
Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải tới trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời
Cả khổ thơ là một ý thức tự nguyện mới mẻ của người thanh niên xuất thân từ gia đình thuộc tầng lớp trung lưu. Đó không hẳn chỉ là lí trí bởi người đọc nhận thấy sự chân thành trong cách nói. Giọng thơ sôi nổi trong các điệp từ đầu câu, trong sự tiếp nối của dòng ý thức, trong cách bộc lộ trực tiếp, tạo nên sự hồn nhiên thành thực của người thanh niên say mê lý tưởng. Dưới ánh sáng lý tưởng cộng sản chủ nghĩa nhà thơ thấy tâm hồn mình gắn bó với nhân dân lao khổ. Các động từ-vị ngữ như buộc; Trang trải”; “Gần gũi”… Diễn tả tình bạn gắn bó thiết tha của người chiến sĩ cách mạng với quần chúng cần lao. Các từ ngữ Mọi người; Trăm nơi; Bao hồn khổ… Chỉ số đông nhân dân cần lao mà nhà thơ hướng tới để xây dựng”Khối đời” khối liên minh Công-nông ngày thêm mạnh, thêm gần gũi, chặt chẽ.
Ba chữ “tôi” xuất hiện trong khổ thơ 3 thể hiện một tình cảm chân thành, tiếng nói trái tim của người cách mạng. Chủ nghĩa cá nhân luôn luôn đối lập với chủ nghĩa Cộng sản, cái tôi nhỏ bé hoàn toàn đối lập với mọi người. Đó là những biểu hiện cụ thể của lối sống giai cấp tư sản và tiểu tư sản trước cách mạng. Khi thực sự được giác ngộ lý tưởng cách mạng của giai cấp vô sản.
Tố Hữu biểu hiện và khẳng định quan niệm mới về lẽ sống. Đó là sự gắn bó giữa cái tôi riêng và cái ta chung: “Tôi buộc lòng tôi với mọi người”, Sự gắn bó đó hoàn toàn có tính tự nguyện vượt qua giới hạn của cái tôi để chan hoà với mọi người. Đó là biểu hiện tình thương với những người nghèo khổ. Hai tiếng “hồn khổ” giúp người đọc liên tưởng tới quần chúng lao khổ.
Giác ngộ lý tưởng cộng sản ở Tố Hữu nghĩa là giác ngộ lập trường giai cấp, từ bỏ cái tôi cá nhân của giai cấp tiểu tư sản để hoà nhập với khối đời chung của nhân dân lao khổ. Dù sao quan niệm mới mẻ của Tố Hữu đã chứng tỏ nhà thơ đã thoát khỏi cái tôi cô đơn bế tắc, gắn bó với giai cấp cần lao, tìm thấy niềm vui và sức mạnh ngay trong cuộc đời. Đặc biệt, Tố Hữu khẳng định mối liên hệ sâu sắc giữa thơ nói riêng và văn học nói chung với cuộc sống. Nhất là cuộc sống của nhân dân lao khổ.
Sống cùng thời đại nhà thơ có nhiều thanh niên chán nản đã quay lưng lại với cuộc đời để thu mình trong cái tôi cô đơn. Như Chế Lan Viên:
Với tôi tất cả như vô nghĩa
Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau.
Lẽ sống của người chiến sĩ cộng sản, của một thi sĩ lớn luôn hướng về phía đất nước nhân dân và thấm thía sức mạnh của nhân dân với đất nước như mối liên hệ bền chặt giữa nghệ sĩ với cuộc đời, nghệ thuật với cuộc sống. Đó cũng là lẽ sống của biết bao chiến sĩ cùng thời, Xuân Diệu đã từng tâm sự:
Tôi cùng xương thịt với nhân dân
Cùng đổ mồ hôi cùng sôi nước mắt
Tôi sống với cuộc đời chiến đấu
Của triệu người yêu dấu cần lao
Trước bước ngoặt quan trọng của cuộc đời, người chiến sĩ Cộng sản trẻ tuổi như nhìn lại một chặng đường đã đi qua, thấu suốt đời sống tình cảm, chiêm nghiệm về vốn sống và thấy:
Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
không áo cơm cù bất cù bơ
Khổ thơ cuối với cách diễn tả trùng điệp, các từ “con”, ”em” xuất hiện liên tục,giọng thơ càng trở nên sôi nổi thiết tha. Đây là thể hiện sự chuyển biến sâu sắc trong tình cảm của Tố Hữu. Nhà thơ khẳng định mình là con người gần gũi thân thiết, là thành viên của đại gia đình lao khổ. Các từ “đã là”. “là con”, “là em”, “là anh” diễn tả tình cảm đầm ấm, thiết gắn bó và gần gũi biết bao cùng với vạn nhà, vạn kiếp phôi pha, vạn đầu em nhỏ: Cho thấy người chiến sĩ cách mạng sống trong lòng nhân dân, được nhân dân yêu thương, đùm bọc, chở che để khơi dậy sức mạnh nhân dân đứng lên đấu tranh cho hạnh phúc, cho độc lập, tự do của dân tộc.
Cái tôi trữ tình ở đoạn thơ hiện lên với trạng thái đa nhân cách, đem lại cho người đọc cùng lúc nhiều ấn tượng. Trên hết là sự ngưỡng mộ con người trẻ tuổi khi bắt gặp và nhận ra lý tưởng, con đường đi của đời mình và đặt ra những bước chân vững chắc trên con đường với những con người cùng khổ. Nhà thơ đồng cảm, yêu thương, san sẻ cùng với những con người ấy bằng cả trái tim bằng cả những tình cảm ruột thịt của bản thân. Và càng yêu thương, càng căm giận những điều bất công, tác giả càng hăng hái hoạt động cách mạng, hoạt động nghệ thuật và cũng vì lẽ đó mà Tố Hữu đã trở thành “nhà thơ của vạn nhà, buộc lòng mình cùng nhân loại” (Chỉ Lan Viên). Bài thơ có kết thúc ngỏ như mở ra ở người đọc những cảm xúc về tình thần nhân loại, dành chỗ cho hành động.
Bài thơ là niềm vui giác ngộ lý tưởng thể hiện nhận thức mới mẻ về lẽ sống và những chuyển biến về tình cảm sau khi nhà thơ bắt gặp lý tưởng cách mạng. Từ ấy còn là lời tuyên bố về lẽ sống và lý tưởng nghệ thuật của tác giả.
Sau này nhớ lại thuở Từ ấy, Tố Hữu viết: “Từ ấy là tâm hồn trong trái của tuổi người tin đồn mươi, đi theo lý tưởng cao đẹp, dám sống, dám đấu tranh Từ độ không chỉ là tình cảm của riêng Tố Hữu với Đảng mà là tâm trạng của một thế hệ thanh niên các mạng được Đảng giác ngộ và dìu dắt để gánh vác sự nghiệp giải phóng dân tộc những năm đất nước còn dưới ách thực dân phong kiến.
Nhà thơ đã xây dựng những hình ảnh thơ tươi sáng, giàu sức sống như hình ảnh mặt trời chân lí, nắng hạ, vườn hoa lá. Bên cạnh đó, thi sĩ đã sử dụng nhuần nhuyễn những biện pháp tu từ truyền thống như ẩn dụ, so sánh, điện từ ngữ, ngôn ngữ thơ giản dị giàu tính nhạc .Giáo sư Đặng Thai Mai gọi tập thơ Từ ấy là “bó hoa lửa lộng lẫy nồng nàn nở ra từ cuộc cách mạng vĩ đại của dân tộc”.
Dẫu còn những nét hồn nhiên của cái nhìn về lý tưởng cách mạng, về lẽ sống, về cách mạng, dẫu còn những nhận thức đơn giản về những người lao khổ song trong thời điểm những năm 30 của thế kỉ trước, khi biết bao người bế tắc trong cảm giác lạc loài, thiếu quê hương hay quẩn quanh trong cái tôi cô đơn, nhỏ bé. Thì Tố Hữu vẫn chứng mình cho mọi người thấy những nét đẹp, những chân lí sáng lời của lí tưởng cách mạng đã giúp chàng thanh niên may mắn thấy được cuộc sống mới, cuộc đời mới trong niềm hạnh phúc của tuổi trẻ.
6. Bình giảng bài thơ Từ ấy của nhà thơ Tố Hữu mẫu 5
Những năm 30 của thế kỉ XX, khi những nhà thơ lãng mạn đang quẩn quanh với cảm giác cô đơn, sự tù túng, sự nhỏ bé cạn hẹp của cái tôi cá nhân mà chưa có cách vượt thoát thì Tố Hữu, một học trò trường Quốc học như đã tiếp nhận được không khí thời đại, sớm“băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời”.
May mắn cho người con xứ Huế khao khát tìm kiếm lẽ sống ấy, “anh Lưu, anh Diểu dạy con đi,” chỉ cho con đường tương lai, cũng là khai sinh một con đường thơ cho người chiến sĩ Cộng sản trẻ tuổi. Sáng tác trong một hoàn cảnh đặc biệt, đánh dấu một mốc son chói lọi trong đời cách mạng, đời thơ Tố Hữu, Từ ấy là bài thơ thể hiện rõ nét hình tượng tác giả người chiến sĩ cộng sản khi bắt gặp lý tưởng cộng sản và những chuyển biến, thay đổi trong nhận thức và tình cảm của người thanh niên cách mạng ấy…
Tố Hữu (1920-2002) ở làng Phù Lai, Quảng Thọ, Quảng Điền, Thừa Thiên-Huế trong một gia đình nhà nho nghèo. Song thân của Tố Hữu rất say mê với việc sưu tầm ca dao, tục ngữ. Tố Hữu sinh ra ở mảnh đất rất giàu về truyền thống văn hoá (những làn điệu dân ca, điệu mái nhì, mái đẩy – Nhạc cung đình). Tất cả có ảnh hưởng không nhỏ tới tâm hồn thơ của Tố Hữu.
Năm 17 tuổi, Tố Hữu đã giác ngộ cách mạng. Năm 1938, khi Tố Hữu 18 tuổi đã được kết nạp vào Đảng Cộng sản.Từ đó sự nghiệp thơ ca của ông gắn liền với sự nghiệp cách mạng. Đó cũng là chặng đường phát triển không ngừng về tư tưởng của Tố Hữu.
Con đường thơ của Tố Hữu bắt đầu gần như cùng lúc với con đường hoạt động cách mạng. Nội dung thơ Tố Hữu bám sát chặng đường cách mạng để phản ánh. Vì vậy thơ Tố Hữu thể hiện lẽ sống lớn, tình cảm lớn của người công dân, chiến sĩ, cán bộ cách mạng đối với Đảng, Tổ quốc, nhân dân, với Bác Hồ. Nghệ thuật thơ Tố Hữu thể hiện ở phong cách trữ tình chính trị, đậm đà tính dân tộc. Cảm hứng của thơ Tố Hữu là cảm hứng lãng mạn kết hợp với khuynh hướng sử thi. Tố Hữu là hiện tượng đặc biệt của thơ ca cách mạng: Ông vừa hoạt động Cách mạng, giữ nhiều chức vụ quan trọng trong trung ương Đảng và Chính phủ, vừa làm thơ.
Bài thơ “Từ ấy” được Tố Hữu viết vào tháng 7/1938 nằm trong phần Máu lửa” của tập thơ Từ ấy. Tập thơ Từ ấy là tập thơ đầu của Tố Hữu. Bài thơ bộc lộ niềm say mê náo nức khi đón nhận lý tưởng Đảng của Tố Hữu. Đồng thời thể hiện lời tâm nguyện của nhà thơ khi đã được giác ngộ Cách mạng.
Tố Hữu là nhà thơ của tình cảm lớn: Thi sĩ không viết về những tình cảm riêng tư nhỏ bé của con người trong mối quan hệ đời thường mà say mê ca ngợi những tình cảm công dân, tình Cảm Cách mạng như tình đồng bào đồng chí, tình yêu quê hương, đất nước, kính yêu lãnh tụ, tinh thần quốc tế và sản. Cái tôi trữ tình trong thơ Tố Hữu ngay từ đầu là cái tôi chiến sĩ, càng về sau càng xác định rõ là cái tội nhân danh Đảng, nhân danh cộng đồng dân tộc.
Lẽ sống lớn trong thơ Tố Hữu là gắn bó với cuộc đấu tranh chung của đất nước nhân dân “vì thiêng liêng giá trị con người/ Vì muôn đời hoa lá xanh tươi”. Niềm vui trong thơ Tố Hữu cũng không nhỏ bé, tầm thường mà là niềm vui lớn; sôi nổi, hân hoan nhất và cũng rực rỡ tươi sáng nhất là những vần thơ về chiến thắng (Huế tháng tám, Hoan hô chiến sĩ Điện Biên, Toàn thắng về ta).
Với tư cách là một loại hình nghệ thuật ngôn từ, văn học lấy con người làm đối tượng nhận thức trung tâm và biểu đạt bằng phương pháp đặc thù, đó là hình tượng nghệ thuật.
Hình tượng nghệ thuật, trước hết, là khách thể đời sống được nghệ sĩ tái hiện bằng tượng tưởng, sáng tạo trong tác phẩm. Nhưng văn bản văn học bao giờ cũng là lời của người kể chuyện hay của nhân vật trữ tình nên hình tượng trong tác phẩm còn là hình tượng của tác giả. Ở “Từ ấy” là cảm giác bừng ngộ đầy hạnh phúc của người thanh niên, trong lớp lẽ sống, bắt gặp lý tưởng Cộng sản.
Bắt gặp lý tưởng Cộng sản, người thanh niên trí thức ấy như tiếp nhận được nguồn sáng xua đi đám mây u ám của cái tôi cá nhân tiểu tư sản:
Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ
mặt trời chân lí chói qua tim
Hồn tôi là một vườn hoa lá
Rất đậm hương và rộn tiếng chim
“Từ ấy”, một phiếm định về thời gian, chỉ thời khắc thiêng liêng bắt gặp lý tưởng cộng sản đã trở thành mốc son, trở thành bước ngoặt trong cuộc đời nhà thơ. Cách nói mang tính chiêm nghiệm, hồi tưởng nhưng không gợi cảm giác bâng khuâng, tiếc nuối thường có mà mạnh mẽ, khẳng định. “Từ ấy” là lúc ánh sáng của lý tưởng cộng sản soi rọi, như chiếc đũa thần kì ban phép lạ, làm bừng tỉnh, giúp con người đốn ngộ chân lí của cuộc sống. Trước “Từ ấy”, Tố Hữu đã từng bế tắc và tăm tối:
Băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời
Vẩn vơ mãi theo vòng quanh quẩn
Muốn thoát, than ôi, bước chẳng rời
Bâng khuâng đứng giữa đôi dòng nước
Chọn một dòng hay để nước trôi
Từ bóng đêm của cuộc đời cũ, Tố Hữu đã đón nhận ánh sáng lý tưởng Đảng. Lý tưởng Đảng đã chiếu rọi và làm bừng sáng về mặt trí tuệ, bồi dưỡng tình cảm cho con người. Vì thế hai tiếng “Từ ấy” không chỉ là tiếng lòng riêng của Tố Hữu mà nó ngân nga với mọi cuộc đời chung. Phải thấu hiểu được nỗi băn khoăn trong quá trình tìm đường và nhận đường của người thanh niên Nguyễn Kim Thành trước đó mới có thể cảm nhận được phần nào niềm vui lớn lao mãnh liệt khi được giác ngộ.
Nhà thơ đã gọi lý tưởng cộng sản bằng những hình ảnh ẩn dụ rực rỡ và ấm nóng. Nắng hạ – thứ ánh nắng chói chang, rực rỡ, nồng nàn, có tác động mạnh mẽ đến tâm hồn thi sĩ. Với Tố Hữu, lý tưởng cộng sản còn là “mặt trời chân lí” – một nguồn sáng vô biên, bất diệt mang lại sức sống, nguồn ấm nóng dạt dào. Chân lí là những gì đúng đắn nhất đã được mọi người thừa nhận. “Mặt trời chân lí” là hình ảnh ẩn dụ ca ngợi lý tưởng cách mạng, ca ngợi chủ nghĩa cộng sản đã soi sáng tâm hồn, là mặt trời toả ánh sáng đúng đắn nhất, mạnh mẽ nhất. Từ “bừng” chỉ ánh sáng phát ra bất ngờ, đột ngột. “Chói” chỉ nguồn ánh sáng có sức xuyên thấu mạnh mẽ. Tố Hữu đã từng ca ngợi lý tưởng Đảng, ca ngợi Bác Hồ:
Người rực rỡ như mặt trời cách mạng
Đêm tàn bay chập choạng dưới chân Người.
“Mặt trời chân lí” cũng là “Mặt trời cách mạng” Tố Hữu đã đón nhận lý tưởng Đảng, lý tưởng cách mạng bằng trí tuệ. Người thanh niên ấy đã nhận ra đâu là tốt đẹp, là nghĩa của đời phải vươn tới. Nói cách khác, nhà thờ hiểu được bản chất cuộc đời, đâu là đúng, đâu là sai. Trong khi biết bao nhiêu con người cùng trang lứa chưa dễ gì nhận ra lý tưởng Đảng, Tố Hữu đã chủ động đón nhận. Điều đó chứng tỏ, Tố Hữu phải là con người tỉnh táo, sáng suốt. Lý tưởng Đảng đã xua tan nhận thức mờ tối, mở ra trong tâm hồn nhà thơ một chân trời mới.
Tố Hữu không chỉ đón nhận lý tưởng Đảng bằng trí tuệ mà bằng cả tình cảm rạo rực, say mê, sôi nổi nhất. Hồn người đã trở thành vườn hoa, một vườn xuân đẹp ngào ngạt hương sắc, rộn ràng tiếng chim hót. Một mảnh vườn hoa lá chắc hẳn phải là mảnh vườn xanh tươi, tràn trề nhựa sống, có lá có hoa lại ngọt ngào hương sắc, Có chim hót rộn ràng.
Rất đậm hương và rộn tiếng chim
Mảnh vườn ấy được so sánh như tâm hồn nhà thơ. Phải chăng tâm hồn ấy tràn ngập niềm vui, niềm say mê, náo nức trẻ trung sôi nổi với cảm hứng lãng mạn tràn đầy trong buổi đầu tiếp nhận lý tưởng Cộng sản. Tố Hữu sung sướng đón nhận lý tưởng cộng sản cũng như cỏ cây đón nhận ánh sáng mặt trời. Lý tưởng cộng sản đã mang lại sức sống và niềm tin yêu cuộc đời cho con người. Đó cũng là giọng điệu chung của thơ Tố Hữu. Sau này khi viết về lý tưởng cộng sản, Tố Hữu cũng say sưa như thế:
Rồi một hôm nào, tôi thấy tôi
Nhẹ nhàng như con chim cà lơi
Say đồng hương nắng vui ca hát
Trên chín tầng mây bát ngát trời
(Nhớ đồng)
Vì thứ ánh sáng kì diệu ấy của lý tưởng cộng sản mà Tố Hữu luôn mang trong mình một chân lí bất diệt:
Trái tim anh chia ba phần tươi đỏ
Anh dành riêng cho Đảng phần nhiều
Có thể nói đây là khổ thơ hay nhất, đậm đà màu sắc lãng mạn nhất trong thơ Tố Hữu. Ngoài việc sáng tạo hình ảnh ẩn dụ “Mặt trời chân lý”, hình ảnh so sánh “Vườn hoa lá”, cũng được tác giả lựa chọn, sử dụng từ ngữ rất chính xác, hình tượng và gợi cảm: Bừng; Chói; Đậm; Rộn… Để diễn tả thật hay niềm say mê lý tưởng mà Đảng đã cho tôi sáng mắt sáng lòng (Aragông-Pháp).
Như một sự tự nhiên, yêu nước, bắt gặp chủ nghĩa Mác – Lê nin, người thanh niên trí thức sau phút giây bừng ngộ về lẽ sống, hạnh phúc vì như được hồi sinh trong tâm hồn, là thức nhận về hành động của mình:
Tôi buộc lòng tôi với mọi người
Để tình trang trải tới trăm nơi
Để hồn tôi với bao hồn khổ
Gần gũi nhau thêm mạnh khối đời
Cả khổ thơ là một ý thức tự nguyện mới mẻ của người thanh niên xuất thân từ gia đình thuộc tầng lớp trung lưu. Đó không hẳn chỉ là lí trí bởi người đọc nhận thấy sự chân thành trong cách nói. Giọng thơ sôi nổi trong các điệp từ đầu câu, trong sự tiếp nối của dòng ý thức, trong cách bộc lộ trực tiếp, tạo nên sự hồn nhiên thành thực của người thanh niên say mê lý tưởng. Dưới ánh sáng lý tưởng cộng sản chủ nghĩa nhà thơ thấy tâm hồn mình gắn bó với nhân dân lao khổ. Các động từ-vị ngữ như buộc; Trang trải”; “Gần gũi”… Diễn tả tình bạn gắn bó thiết tha của người chiến sĩ cách mạng với quần chúng cần lao. Các từ ngữ Mọi người; Trăm nơi; Bao hồn khổ… Chỉ số đông nhân dân cần lao mà nhà thơ hướng tới để xây dựng”Khối đời” khối liên minh Công-nông ngày thêm mạnh, thêm gần gũi, chặt chẽ.
Ba chữ “tôi” xuất hiện trong khổ thơ 3 thể hiện một tình cảm chân thành, tiếng nói trái tim của người cách mạng. Chủ nghĩa cá nhân luôn luôn đối lập với chủ nghĩa Cộng sản, cái tôi nhỏ bé hoàn toàn đối lập với mọi người. Đó là những biểu hiện cụ thể của lối sống giai cấp tư sản và tiểu tư sản trước cách mạng. Khi thực sự được giác ngộ lý tưởng cách mạng của giai cấp vô sản.
Tố Hữu biểu hiện và khẳng định quan niệm mới về lẽ sống. Đó là sự gắn bó giữa cái tôi riêng và cái ta chung: “Tôi buộc lòng tôi với mọi người”, Sự gắn bó đó hoàn toàn có tính tự nguyện vượt qua giới hạn của cái tôi để chan hoà với mọi người. Đó là biểu hiện tình thương với những người nghèo khổ. Hai tiếng “hồn khổ” giúp người đọc liên tưởng tới quần chúng lao khổ.
Giác ngộ lý tưởng cộng sản ở Tố Hữu nghĩa là giác ngộ lập trường giai cấp, từ bỏ cái tôi cá nhân của giai cấp tiểu tư sản để hoà nhập với khối đời chung của nhân dân lao khổ. Dù sao quan niệm mới mẻ của Tố Hữu đã chứng tỏ nhà thơ đã thoát khỏi cái tôi cô đơn bế tắc, gắn bó với giai cấp cần lao, tìm thấy niềm vui và sức mạnh ngay trong cuộc đời. Đặc biệt, Tố Hữu khẳng định mối liên hệ sâu sắc giữa thơ nói riêng và văn học nói chung với cuộc sống. Nhất là cuộc sống của nhân dân lao khổ.
Sống cùng thời đại nhà thơ có nhiều thanh niên chán nản đã quay lưng lại với cuộc đời để thu mình trong cái tôi cô đơn. Như Chế Lan Viên:
Với tôi tất cả như vô nghĩa
Tất cả không ngoài nghĩa khổ đau.
Lẽ sống của người chiến sĩ cộng sản, của một thi sĩ lớn luôn hướng về phía đất nước nhân dân và thấm thía sức mạnh của nhân dân với đất nước như mối liên hệ bền chặt giữa nghệ sĩ với cuộc đời, nghệ thuật với cuộc sống. Đó cũng là lẽ sống của biết bao chiến sĩ cùng thời, Xuân Diệu đã từng tâm sự:
Tôi cùng xương thịt với nhân dân
Cùng đổ mồ hôi cùng sôi nước mắt
Tôi sống với cuộc đời chiến đấu
Của triệu người yêu dấu cần lao
Trước bước ngoặt quan trọng của cuộc đời, người chiến sĩ Cộng sản trẻ tuổi như nhìn lại một chặng đường đã đi qua, thấu suốt đời sống tình cảm, chiêm nghiệm về vốn sống và thấy:
Tôi đã là con của vạn nhà
Là em của vạn kiếp phôi pha
Là anh của vạn đầu em nhỏ
không áo cơm cù bất cù bơ
Khổ thơ cuối với cách diễn tả trùng điệp, các từ “con”, ”em” xuất hiện liên tục,giọng thơ càng trở nên sôi nổi thiết tha. Đây là thể hiện sự chuyển biến sâu sắc trong tình cảm của Tố Hữu. Nhà thơ khẳng định mình là con người gần gũi thân thiết, là thành viên của đại gia đình lao khổ. Các từ “đã là”. “là con”, “là em”, “là anh” diễn tả tình cảm đầm ấm, thiết gắn bó và gần gũi biết bao cùng với vạn nhà, vạn kiếp phôi pha, vạn đầu em nhỏ: Cho thấy người chiến sĩ cách mạng sống trong lòng nhân dân, được nhân dân yêu thương, đùm bọc, chở che để khơi dậy sức mạnh nhân dân đứng lên đấu tranh cho hạnh phúc, cho độc lập, tự do của dân tộc.
Cái tôi trữ tình ở đoạn thơ hiện lên với trạng thái đa nhân cách, đem lại cho người đọc cùng lúc nhiều ấn tượng. Trên hết là sự ngưỡng mộ con người trẻ tuổi khi bắt gặp và nhận ra lý tưởng, con đường đi của đời mình và đặt ra những bước chân vững chắc trên con đường với những con người cùng khổ. Nhà thơ đồng cảm, yêu thương, san sẻ cùng với những con người ấy bằng cả trái tim bằng cả những tình cảm ruột thịt của bản thân. Và càng yêu thương, càng căm giận những điều bất công, tác giả càng hăng hái hoạt động cách mạng, hoạt động nghệ thuật.
Và cũng vì lẽ đó mà Tố Hữu đã trở thành “nhà thơ của vạn nhà, buộc lòng mình cùng nhân loại” (Chỉ Lan Viên). Bài thơ có kết thúc ngỏ như mở ra ở người đọc những cảm xúc về tình thần nhân loại, dành chỗ cho hành động.
Bài thơ là niềm vui giác ngộ lý tưởng thể hiện nhận thức mới mẻ về lẽ sống và những chuyển biến về tình cảm sau khi nhà thơ bắt gặp lý tưởng cách mạng. Từ ấy còn là lời tuyên bố về lẽ sống và lý tưởng nghệ thuật của tác giả.
Sau này nhớ lại thuở Từ ấy, Tố Hữu viết: “Từ ấy là tâm hồn trong trái của tuổi người tin đồn mươi, đi theo lý tưởng cao đẹp, dám sống, dám đấu tranh Từ độ không chỉ là tình cảm của riêng Tố Hữu với Đảng mà là tâm trạng của một thế hệ thanh niên các mạng được Đảng giác ngộ và dìu dắt để gánh vác sự nghiệp giải phóng dân tộc những năm đất nước còn dưới ách thực dân phong kiến.
Nhà thơ đã xây dựng những hình ảnh thơ tươi sáng, giàu sức sống như hình ảnh mặt trời chân lí, nắng hạ, vườn hoa lá. Bên cạnh đó, thi sĩ đã sử dụng nhuần nhuyễn những biện pháp tu từ truyền thống như ẩn dụ, so sánh, điện từ ngữ, ngôn ngữ thơ giản dị giàu tính nhạc .Giáo sư Đặng Thai Mai gọi tập thơ Từ ấy là “bó hoa lửa lộng lẫy nồng nàn nở ra từ cuộc cách mạng vĩ đại của dân tộc”.
Dẫu còn những nét hồn nhiên của cái nhìn về lý tưởng cách mạng, về lẽ sống, về cách mạng, dẫu còn những nhận thức đơn giản về những người lao khổ song trong thời điểm những năm 30 của thế kỉ trước, khi biết bao người bế tắc trong cảm giác lạc loài, thiếu quê hương hay quẩn quanh trong cái tôi cô đơn, nhỏ bé. Thì Tố Hữu vẫn chứng mình cho mọi người thấy những nét đẹp, những chân lí sáng lời của lí tưởng cách mạng đã giúp chàng thanh niên may mắn thấy được cuộc sống mới, cuộc đời mới trong niềm hạnh phúc của tuổi trẻ
Trên đây VnDoc hướng dẫn các bạn học tốt bài Văn mẫu lớp 11: Bình giảng bài thơ Từ ấy của nhà thơ Tố Hữu. Ngoài ra các bạn có thể soạn bài Ngữ văn 11 được VnDoc sưu tầm, chọn lọc.
Mời bạn đọc cùng tham gia nhóm Tài liệu học tập lớp 11, Ôn thi khối C để có thêm tài liệu học tập nhé
Bài tiếp theo: Bình luận bài Về luân lí xã hội ở nước ta