Phân tích những chuyển biến về tâm tư tình cảm lí tưởng giác ngộ cách mạng qua bài thơ Từ ấy của Tố Hữu

Văn mẫu lớp 11: Phân tích những chuyển biến về tâm tư tình cảm lí tưởng giác ngộ cách mạng qua bài thơ Từ ấy của Tố Hữu gồm các bài văn mẫu hay cho các em học sinh tham khảo, củng cố kỹ năng cần thiết cho bài kiểm tra viết sắp tới đây của mình. Mời các em học sinh cùng tham khảo.

Phân tích những chuyển biến về tâm tư tình cảm lí tưởng giác ngộ cách mạng qua bài thơ Từ ấy của Tố Hữu mẫu 1

Trong nền văn học Việt Nam, Tố Hữu được coi là lá cờ đầu của nền thơ ca cách mạng. Từ một thanh niên trí thức tiểu tư sản, được giác ngộ lí tưởng, Tố Hữu đã trở thành một chiến sĩ cộng sản. Thơ Tố Hữu gắn với cuộc sông cách mạng và chính trị, thời sự đất nước. Từ ấy (1937 - 1946) là chặng đường đầu của thơ Tố Hữu. Từ ấy là bài thơ có ý nghĩa mở đầu và cũng có ý nghĩa như một tuyên ngôn về lẽ sống của một chiến sĩ cách mạng cũng là tuyên ngôn nghệ thuật của nhà thơ. Bài thơ cũng là tâm nguyện của người thanh niên yêu nước: niềm vui sướng, say mê mãnh liệt, những nhận thức mới về lẽ sống, sự chuyển biến sâu sắc trong tình cảm.

Tâm trạng nhà thơ có sự vận động qua ba khổ thơ: Niềm vui sướng, say mê khi gặp lí tưởng (khổ 1); những nhận thức mới về lẽ sông (khổ 2); sự chuyển biến sâu sắc trong tình cảm.

Sự vận động của tâm trạng nhà thơ được thể hiện sinh động bằng những hình ảnh tươi sáng, các biện pháp tu từ gợi cảm và ngôn ngữ giàu nhạc điệu.

Bài thơ từ ấy

Hai câu thơ mở đầu được viết theo bút pháp tự sự, nhà thơ kể lại một kỉ niệm không quên của đời mình:

Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ

Mặt trời chân lí chói qua tim

Từ ấy là cái mốc thời gian có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong đời cách mạng và đời thơ của Tố Hữu. Khi đó nhà thơ mới 18 tuổi, đang hoạt động tích cực trong Đoàn Thanh niên Cộng sản Huế, được giác ngộ lí tưởng cộng sản, được kết nạp vào Đảng. Bằng những hình ảnh ẩn dụ: nắng hạ, mặt trời chân lí, chói qua tim, Tô Hữu khẳng định lí tưởng cách mạng như một nguồn sáng mới làm bừng sáng tâm hồn nhà thơ. Nguồn sáng ấy không phải là ánh thu vàng nhẹ hay ánh xuân dịu dàng mà là ánh sáng rực rỡ của một ngày nắng hạ. Hơn thế, nguồn sáng ấy còn là mặt trời, và là mặt trời khác thường, mặt trời chân lí. Một sự liên kết sáng tạo giữ hình ảnh và ngữ nghĩa. Mặt trời của thiên nhiên đem lại cho nhân gian ánh sáng, hơi ấm, sự sống thì Đảng cũng là nguồn sáng kì diệu tỏa ra những tư tương đúng đắn, hợp lẽ phải, báo hiệu những điều tốt lành cho cuộc sống. Cách gọi lí tưởng như vậy thể hiện thái độ thành kính, ân tình. Thêm nữa, những động từ bừng (chỉ ánh sáng phát ra đột ngột.), chói (ánh sáng có sức xuyên mạnh) càng nhấn mạnh ánh sáng của lí tưởng đã hoàn toàn xua tan màn sương mù của ý thức tiểu tư sản và mờ ra trong tâm hồn nhà thơ một chân trời mới của nhận thức, tư tưởng, tình cảm.

Ở hai câu sau, bút pháp trữ tình lãng mạn, cùng với hình ảnh so sánh đã diễn tả cụ thế niềm vui sướng vô hạn của nhà thơ trong buổi đấu đến với lí tưởng cộng sản. Đó là một thế giới tràn đầy sức sông với hương sắc của các loài hoa, vẻ tươi xanh của cáy lá, âm thanh rộn rã của tiếng chim ca hót. Đối với khu vườn hoa lá ấy, còn gì đáng quý hơn ánh sáng mặt trời? Đôi với tâm hồn người thanh niên đang băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời, còn gì quý giá hơn khi có một lí tưởng như có cây hoa lá đón ánh sáng mặt trời, chính lí tưởng cộng sản đã làm tâm hồn con người tràn đầy sức sống và niềm yêu dời làm cho cuộc sông của con người có ý nghĩa hơn. Tố Hữu là một nhà thơ nên vẻ đẹp và sức sống mới ấy tâm hồn cũng là vẻ đẹp và sức sống mới của hồn thơ. Cách mạng không đối lập với nghệ thuật mà đã khơi dậy sức sông, đem lại một cảm hứng sáng tạo mới cho hồn thơ.

Trong quan niệm về lẽ sống, giai cấp tư sản và tiểu tư sản có phần đề cao cái tôi cá nhân chủ nghĩa. Khi được giác ngộ lí tưởng, Tố Hữu khẳng định quan niệm mới về lẽ sống và sự gắn bó hài hòa cái tôi cá nhân và cái ta chung của mọi người. Với động từ buộc , câu một là một cách nói quá thế hiện ý thức tự nguyện sâu sắc và quyết tâm cao độ của Tố Hữu muốn vượt qua giới hạn của cái tôi cá nhân để sống chan hòa với mọi người (trăm nơi là một hoán dụ chỉ mọi người sống ở khắp nơi). Với từ trang trải ở câu 2, có thể liên tưởng tâm hồn nhà thơ trải rộng với cuộc đời, tạo ra khả năng đồng cảm sâu xa với hoàn cảnh của từng con người cụ thể.

Hai câu thơ sau cho thấy tình yêu thương con người của Tố Hữu không phải là thứ tình thương chung chung mà là tình cảm hữu ái giai cấp. Câu 3 khẳng định trong mối liên hệ với mọi người nói chung, nhà thơ đặc biệt quan tâm đến quần chúng lao khổ. Ớ câu 4, khối đời là một ẩn dụ chỉ một khối người đông đảo cùng chung cảnh ngộ trong cuộc đời, đoàn kết chặt chẽ với nhau cùng phấn đấu vì một mục tiêu chung. Có thể hiểu: khi cái tôi chan hòa trong cái ta, khi cá nhân hòa mình vào tập thể cùng lí tưởng thì sức mạnh của mỗi người sẽ được nhân lên gấp bội.

Tóm lại, Tố Hữu đặt mình giữa dòng đời và trong môi trường rộng lớn của quần chúng lao khổ, ở đấy Tố Hữu đã tìm thấy niềm vui và sức mạnh mới không chì bằng nhận thức mà còn bằng tình cảm mến yêu, bằng sự giao cảm của những trái tim. Qua đó, Tố Hữu cũng khẳng định mối liên hệ sâu sắc giữa văn học và cuộc sống, mà chủ yếu là cuộc sống của quần chúng nhân dân.

Trước khi được giác ngộ lí tưởng, Tố Hữu là một thanh niên tiểu tư sản. Lí tưởng cộng sản không chỉ giúp nhà thơ có được lẽ sống mới mà còn giúp nhà thơ vượt qua tình cảm ích kỉ, hẹp hòi của giai cấp tiểu tư sản đế có được tình hữu ái giai cấp với quần chúng lao khổ. Hơn thế, đó còn là tình thân yêu ruột thịt. Những điệp từ là cùng với từ con, em, anh và số từ ước lệ vạn (chỉ số lượng hết sức đông đảo) nhấn mạnh, khẳng định một tình cảm gia đình thật đầm ấm, thản thiết, cho thấy nhà thơ đã cảm nhận sâu sắc bản thân minh là một thành viên của đại gia đình quần chúng lao khổ. Tấm lòng đồng cảm, xót thương của nhà thơ còn biếu hiện thật xúc động, chân thành khi nói tới những kiếp phôi pha (những người đau khổ bất hạnh, những người lao động vất vả, thường xuyên dãi dầu mưa nắng để kiếm sống) những em nhỏ không áo cơm cù bất, cù bơ (những em bé không nơi nương tựa phải lang thang vất vưởng, nay đây mai đó). Qua những lời thơ ấy, người đọc thấy được lòng căm hận của nhà thơ trước bao bất công, ngang trái của cuộc đời cũ. Chính vì những kiếp phôi pha, những em nhò cù bất cù bơ ấy mà người thanh niên Tố Hữu hăng say hoạt động cách mạng, và họ cũng trở thành đối tượng sáng tác chủ yếu của nhà thơ (cô gái giang hồ trong Tiếng hát sông Hương; chú bé đi ở trong Đi đi em; ông lão khốn khổ trong Lão đầy tớ; em bé bán bánh trong Một tiếng rao đêm,...).

Đến đây có thế thấy, về quan điểm nhận thức và sáng tác, bài thơ là tuyên ngôn cho tập Từ ấy nói riêng và cho toàn bộ tác phẩm của Tố Hữu nói chung. Cần nói rõ: đó là quan điểm của giai cấp vô sản với nội dung quan trọng là nhận thức sâu sắc về mối quan hệ giữa cá nhân với quần chúng lao khổ, với nhân loại cần lao.

Từ ấy là lời tâm nguyện của thanh niên yêu nước giác ngộ và say mê lí tưởng cách mạng. Sự vận động của tâm trạng nhà thơ được hiện sinh động bằng những hình ảnh tươi sáng, bằng các biện pháp tu từ và ngôn ngữ giàu nhạc diệu. Từ ấy đánh dấu một thời điểm quan trọng trong cuộc đời Tố Hữu và trong sự nghiệp thơ ca của óng. Bài thơ không ngừng hấp dẫn độc giả các thế hệ.

Phân tích những chuyển biến về tâm tư tình cảm lí tưởng giác ngộ cách mạng qua bài thơ Từ ấy của Tố Hữu mẫu 2

Có thể nói rằng trong nền văn học Việt Nam, nhà thơ Tố Hữu đã được coi là “Lá cờ đầu của nền thơ ca cách mạng Việt Nam”. Và ngay từ khi là một thanh niên trí thức tiểu tư sản ông đã được giác ngộ lí tưởng, Tố Hữu cũng đã trở thành một chiến sĩ cộng sản kiên trung với nước. Dễ dàng nhận thấy rằng nhà Thơ Tố Hữu gắn với cuộc sông cách mạng và chính trị, thời sự đất nước. Và thi phẩm “Từ ấy” được biết đến là bài thơ có ý nghĩa mở đầu và cũng có ý nghĩa như một tuyên ngôn khẳng định về lẽ sống của một chiến sĩ cách mạng và đồng thời cũng là tuyên ngôn nghệ thuật của nhà thơ.

Đọc “Từ ấy” ta như thấy được tâm trạng nhà thơ có sự vận động qua ba khổ thơ đặc sắc của bài thơ “Từ ấy”. Khổ một nói về niềm vui sướng, khổ hai nói là những nhận thức về lẽ sống cho đến khổ 3- khổ cuối cùng đó là những chuyển biến sâu sắc về tình cảm.

Dường như có thể thấy chính sự vận động của tâm trạng nhà thơ được thể hiện sinh động bằng những hình ảnh tươi sáng, và đó còn là các biện pháp tu từ gợi cảm và ngôn ngữ giàu nhạc điệu.

Và dường như với hai câu thơ mở đầu được viết theo bút pháp tự sự, nhà thơ thật tinh tế khi đã kể lại một kỉ niệm không quên của đời mình:

Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ

Mặt trời chân lí chói qua tim

Từ ấy tên của bài thơ đồng thời cũng là cái mốc thời gian có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong đời cách mạng và đời thơ của Tố Hữu. Và khi đó nhà thơ mới đang 18 tuổi, nhà thơ lúc này cũng như đang hoạt động tích cực trong Đoàn Thanh niên Cộng sản Huế, và ông thật đã vinh dự khi đã được giác ngộ lí tưởng cộng sản, được kết nạp vào Đảng. Chính với việc sử dụng những hình ảnh ẩn dụ: nắng hạ, mặt trời chân lí, chói qua tim thì với Tố Hữu thì ông như đã khẳng định lí tưởng cách mạng như một nguồn sáng mới làm bừng sáng tâm hồn nhà thơ. Có thể nói chính nguồn sáng ấy không phải là ánh thu vàng nhè nhẹ hay ánh xuân dịu dàng mà là ánh sáng hết sức rực rỡ của một ngày nắng hạ. Hơn thế nữa có thể thấy rằng chính nguồn sáng ấy còn là mặt trời, và là mặt trời khác thường, mặt trời chân lí. Và đây cũng được xem là một sự liên kết sáng tạo giữ hình ảnh và ngữ nghĩa. Mặt trời của thiên nhiên là mặt trời đã đem lại cho nhân gian ánh sáng cũng như hơi ấm. Và có thể nói chính sự sống thì Đảng cũng là nguồn sáng kì diệu tỏa ra những tư tương đúng đắn, hợp lẽ phải dường như cũng đã báo hiệu những điều tốt lành cho cuộc sống. Có lẽ rằng chính cách gọi lí tưởng như vậy thể hiện thái độ thành kính, ân tình. Thêm nữa, tác giả sử dụng rất đắt những động từ bừng (chỉ ánh sáng phát ra đột ngột.), chói (có nghĩa là ánh sáng có sức xuyên mạnh) như đã càng nhấn mạnh ánh sáng của lí tưởng đã hoàn toàn xua tan màn sương mù của ý thức tiểu tư sản và cũng như đã mở ra trong tâm hồn nhà thơ một chân trời mới của nhận thức, tư tưởng, tình cảm.

Đến tiếp với hai câu sau, bút pháp trữ tình lãng mạn, cùng với hình ảnh so sánh đã diễn tả cụ thế mà dường như những chính niềm vui sướng vô hạn của nhà thơ Tố Hữu trong buổi đấu đến với lí tưởng cộng sản. Có thể nói đó chính là một thế giới tràn đầy sức sông với hương sắc của các loài hoa, dường như chính cái vẻ tươi xanh của cáy lá, âm thanh rộn rã của tiếng chim ca hót. Và dường như đối với khu vườn hoa lá ấy, còn gì đáng quý hơn ánh sáng mặt trời? Và đặc biệt hơn cả đó là đôi với tâm hồn người thanh niên đang băn khoăn đi kiếm lẽ yêu đời. Ta như thấy rằng còn gì quý giá hơn biết bao nhiêu khi có một lí tưởng như có cây hoa lá đón ánh sáng mặt trời. Và cũng chính lí tưởng cộng sản dường như đã làm tâm hồn con người tràn đầy sức sống và niềm yêu dời làm cho cuộc sông của con người lúc này đây đã trở lên có ý nghĩa hơn. Tố Hữu được xem là một nhà thơ nên vẻ đẹp và sức sống mới ấy, và cả những tâm hồn cũng là vẻ đẹp và sức sống mới của hồn thơ. Có lẽ cách mạng không đối lập với nghệ thuật mà đã khơi dậy sức sống mãnh liệt, đem lại một cảm hứng sáng tạo mới cho hồn thơ.

Nếu xét trong quan niệm về lẽ sống, quan niệm về giai cấp tư sản và tiểu tư sản có phần đề cao cái tôi cá nhân chủ nghĩa. Khi mà đã được giác ngộ lí tưởng, thì nhà thơ Tố Hữu khẳng định quan niệm mới thật đặc sắc về lẽ sống và sự gắn bó hài hòa cái tôi cá nhân và cái ta chung của mọi người. Và cùng với động từ buộc, câu một là một cách nói quá lên để có thể thể hiện ý thức tự nguyện sâu sắc và quyết tâm cao độ của Tố Hữu dường như cũng đã muốn vượt qua giới hạn của cái tôi cá nhân để sống chan hòa với mọi người biết bao nhiêu (trăm nơi là một hoán dụ chỉ mọi người sống ở khắp nơi). Việc dùng từ “trang trải” ở câu 2 như đầy dụ ý, có thể liên tưởng tâm hồn nhà thơ trải rộng với cuộc đời, và chính điều đó cũng đã tạo ra khả năng đồng cảm sâu xa với hoàn cảnh của từng con người cụ thể.

Dường như trong hai câu thơ sau cho thấy tình yêu thương con người của Tố Hữu cũng không phải là thứ tình thương chung chung mà là tình cảm hữu ái giai cấp. Câu 3 dường như cũng đã khẳng định trong mối liên hệ với mọi người nói chung, nhà thơ đặc biệt quan tâm đến quần chúng lao khổ. Đặc biệt hơn đối với câu 4, khối đời chính là một ẩn dụ chỉ một khối người đông đảo đã như cùng chung cảnh ngộ trong cuộc đời, đoàn kết chặt chẽ với nhau cùng phấn đấu vì một mục tiêu chung. Có thể hiểu rằng khi mà cái tôi dường như cũng đã được chan hòa trong cái ta, khi cá nhân hòa mình vào tập thể cùng lí tưởng thì có thể thấy sức mạnh của mỗi người sẽ được nhân lên gấp bội.

Ta như thấy được trước khi được giác ngộ lí tưởng, Tố Hữu là một thanh niên tiểu tư sản. Và chính lí tưởng cộng sản không chỉ giúp nhà thơ có được lẽ sống mới mà còn giúp nhà thơ cũng như đã vượt qua tình cảm ích kỉ, hẹp hòi của giai cấp tiểu tư sản đế có được tình hữu ái giai cấp với quần chúng lao khổ ngoài kia. Hơn thế nữa đó còn chính là tình thân yêu ruột thịt. Dường như những điệp từ là cùng với từ con, em, anh và số từ ước lệ vạn (chỉ số lượng hết sức đông đảo) như cũng đã nhấn mạnh, để có thể khẳng định một tình cảm gia đình thật đầm ấm, thản thiết, cho thấy nhà thơ đã cảm nhận sâu sắc bản thân mình. Và trong lúc này ông cũng chính là một thành viên của đại gia đình quần chúng lao khổ. Trước tấm lòng thật sự đồng cảm, xót thương của nhà thơ như đã còn biếu hiện thật xúc động, chân thành khi nói tới những kiếp phôi pha, họ là những con người bất hạnh. Và đó còn là những người lao động vất vả, thường xuyên dãi dầu mưa nắng để kiếm sống) những em nhỏ không áo cơm cù bất, cù bơ. Và như chỉ qua những lời thơ ấy, người đọc thấy được lòng căm hận của nhà thơ trước bao bất công, ngang trái của cuộc đời cũ. Có thể nói chính vì những kiếp phôi pha, những em nhò cù bất cù bơ ấy mà người thanh niên Tố Hữu lúc này đây dường như cũng đã hăng say hoạt động cách mạng, và họ cũng trở thành đối tượng sáng tác chủ yếu của nhà thơ (cô gái giang hồ trong Tiếng hát sông Hương; và cả chú bé đi ở trong Đi đi em; ông lão khốn khổ trong Lão đầy tớ; em bé bán bánh trong Một tiếng rao đêm,…).

Đến đây có thế thấy, về quan điểm nhận thức và sáng tác, bài thơ là tuyên ngôn cho tập Từ ấy nói riêng và cho toàn bộ tác phẩm của Tố Hữu nói chung. Cần nói rõ ràng. Và có thể coi đó là quan điểm của giai cấp vô sản với nội dung quan trọng là nhận thức sâu sắc về mối quan hệ giữa cá nhân với quần chúng lao khổ, với nhân loại cần lao.

“Từ ấy” dường như chính là lời tâm nguyện của thanh niên yêu nước giác ngộ và say mê lí tưởng cách mạng. Có thể thấy rằng chính sự vận động của tâm trạng nhà thơ được hiện sinh động bằng những hình ảnh tươi sáng, bằng các biện pháp tu từ và ngôn ngữ giàu nhạc diệu. “Từ ấy’ như cũng đã đánh dấu một thời điểm quan trọng trong cuộc đời Tố Hữu và cả trong sự nghiệp thơ ca của óng. Bài thơ có lẽ rằng không ngừng hấp dẫn độc giả các thế hệ.

-----------------------------------

Trên đây VnDoc hướng dẫn các bạn học tốt bài Văn mẫu lớp 11: Phân tích những chuyển biến về tâm tư tình cảm lí tưởng giác ngộ cách mạng qua bài thơ Từ ấy của Tố Hữu. Hi vọng qua bài viết này bạn đọc có thêm tài liệu để học tập tốt hơn môn Ngữ văn nhé. Ngoài ra các bạn có thể soạn bài Ngữ văn 11 được VnDoc sưu tầm, chọn lọc để học tốt môn Ngữ văn 11.

Bài tiếp theo: Phân tích thái độ ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ trong tác phẩm Bài ca ngất ngưởng

Phân tích hình tượng Bê-li-cốp trong Người không bao

Phân tích nét mới mẻ trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc

Đánh giá bài viết
5 5.045
Sắp xếp theo

    Học tốt Ngữ Văn lớp 11

    Xem thêm