Bình giảng bài Chạy giặc của Nguyễn Đình Chiểu
Bình giảng bài Chạy giặc
- 1. Dàn ý bình giảng bài Chạy giặc của Nguyễn Đình Chiểu
- 2. Bình giảng bài Chạy giặc của Nguyễn Đình Chiểu mẫu 1
- 3. Bình giảng bài Chạy giặc của Nguyễn Đình Chiểu mẫu 2
- 4. Bình giảng bài Chạy giặc của Nguyễn Đình Chiểu mẫu 3
- 5. Bình giảng bài Chạy giặc của Nguyễn Đình Chiểu mẫu 4
- 6. Bình giảng bài Chạy giặc của Nguyễn Đình Chiểu mẫu 5
- 7. Bình giảng bài Chạy giặc của Nguyễn Đình Chiểu mẫu 6
Văn mẫu lớp 11: Bình giảng bài Chạy giặc của Nguyễn Đình Chiểu gồm có dàn ý và các bài văn mẫu hay cho các em học sinh tham khảo, củng cố kỹ năng cần thiết cho bài kiểm tra viết sắp tới đây của mình. Mời các em học sinh cùng tham khảo chi tiết và tải về tại đây nhé.
- Những cảm nhận của anh (chị) về vẻ đẹp tình yêu trong sáng trong bài thơ Tôi yêu em
- Bình giảng bài thơ "Hương sơn phong cảnh ca" của Chu Mạnh Chinh
1. Dàn ý bình giảng bài Chạy giặc của Nguyễn Đình Chiểu
1. Mở bài
Giới thiệu bài thơ "Chạy giặc".
2. Thân bài
- Hai câu đề:
+ Khung cảnh tan tác khi thực dân Pháp nổ súng xâm chiếm Nam Bộ.
+ Tình cảnh đó diễn ra bất ngờ, nhân dân ta không kịp trở tay.
- Hai câu thực: Cảnh chạy giặc hoảng loạn, tang thương.
- Hai câu luận: Thực dân Pháp tàn bạo, phá hủy không thương tiếc những mảnh đất trù phú của dân tộc ta.
- Hai câu kết:
+ Nỗi niềm trăn trở của nhà thơ đối với vận mệnh dân tộc.
+ Bày tỏ lòng yêu nước thương dân sâu sắc của tác giả.
3. Kết bài
Cảm nhận về bài thơ "Chạy giặc".
2. Bình giảng bài Chạy giặc của Nguyễn Đình Chiểu mẫu 1
“Chạy giặc” là bài thơ tiêu biểu của Nguyễn Đình Chiểu viết về sự kiện lịch sử đau thương khi thực dân Pháp nổ súng tấn công thành Gia Định, bài thơ cũng thể hiện được thái độ căm ghét của Nguyễn Đình Chiểu với thực dân Pháp và sự đồng cảm sâu sắc đối với nhân dân.
Trong hai câu đề, Nguyễn Đình Chiểu đã tái hiện chân thực hoàn khung cảnh hoảng loạn, tan tác khi nghe tiếng súng xâm lược:
“Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây
Một bàn cờ thế phút sa tay”
Tiếng súng nổ ra đột ngột bất ngờ khiến cho khung cảnh huyên náo, nhộn nhịp của phiên chợ trở nên hoảng loạn đến tột độ, người dân sợ hãi bỏ chạy tạo nên khung cảnh loạn lạc, rối ren vô cùng căng thẳng. Không gian yên bình của cuộc sống bị phá vỡ “Một bàn cờ thế phút sa tay”, hình ảnh bàn cờ vừa gợi liên tưởng đến hình ảnh tả thực về bàn cờ đang chơi dở dang thì bị bỏ dở để gợi tính chất bất ngờ, dữ dội của tình cảnh. Hơn hết, hình ảnh bàn cờ còn ẩn dụ cho cuộc đối kháng giữa quan quân triều đình với quân xâm lược. Tiếng súng rền trời cũng là báo hiệu cho sự thất thế của quân lính triều đình trong việc bảo vệ đất nước.
Hai câu thơ thực, Nguyễn Đình Chiểu tiếp tục miêu tả khung cảnh chạy giặc trong hoảng hốt, kinh hoàng của người dân:
“Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy
Mất ổ đàn chim dáo dát bay”
Đảo động từ “bỏ nhà”, “mất ổ” lên đầu câu Nguyễn Đình Chiểu đã tạo được hiệu ứng nghệ thuật đặc biệt cho câu thơ khi không chỉ gợi ra tình thế nguy cấp, trạng thái hoảng sợ đến đáng thương của con người mà còn lên án mạnh mẽ đối với tội ác của quân giặc. Những đứa trẻ vô tội nghe tiếng súng Tây thì sợ hãi chạy toán loạn, đàn chim mất tổ dáo dát bay, tất cả tạo nên một cục diện rối rắm, tang thương của cuộc sống và thế sự.
“Bến Nghé của tiền tan bọt nước
Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây”
Hai câu luận nhà thơ lại hướng đến hai địa danh cụ thể: Bến Nghé, Đồng Nai. Đây vốn là những vùng đất trù phú, những trung tâm mua bán sầm uất, phát triển b ậc nhất nhưng bom đạn của kẻ thù đã phá hủy toàn bộ. Chúng cướp bóc, trấn lột tiền của, tài sản một cách vô lí “của tiền tan bọt nước”, chúng châm lửa đốt làng đốt xóm làm không khí tang thương, u ám bao phủ cả bầu trời “nhuốm màu mây”, đó không chỉ là khói đen của những ngôi nhà bị đốt mà còn là sự u ám của thế sự, của lòng người trước biến động dữ dội của đất nước.
Hai câu kết, nhà thơ bộc lộ sự trăn trở với vận mệnh đất nước, về số phận tương lai của những người dân vô tội:
Hỏi trang dẹp loạn rày đâu vắng
Nỡ để dân đen mắc nạn này
Trang dẹp loạn là những người anh hùng có thể dẹp bỏ tai họa, bảo vệ cho cuộc sống của người dân. Mỗi khi đất nước loạn lạc thì những trang anh hùng sẽ xuất hiện. Thế nhưng trước thế sự rối ren, đa đoan như hiện tại thì trang anh hùng ở đâu? Triều đình phong kiến, những người tự xưng mẫu nghi thiên hạ lại là những kẻ hèn nhát, chấp nhận bán nước để đổi lấy sự yên bình cho bản thân.
Câu thơ là lời lên án đối với sự nhu nhược, hèn nhát của triều đình đồng thời thể hiện khát vọng về một tương lai tương sáng của đất nước.
Chạy giặc là bài ca yêu nước điển hình cho tình yêu và tấm lòng của Nguyễn Đình Chiểu cho dân cho nước, bài thơ đã mang đến cho chúng ta một cái nhìn hiện thực rõ nét về tình cảnh đất nước trong những năm 1958 – 1959 đồng thời bộc lộ được tinh thần yêu nước, thương dân của cụ đồ Chiểu.
3. Bình giảng bài Chạy giặc của Nguyễn Đình Chiểu mẫu 2
Nguyễn Đình Chiểu xuất thân trong một gia đình nhà nho. Khi thực dân Pháp tiến hành đánh chiếm quê hương, trong thời điểm đó ông đã bị mù nhưng nỗi đau đớn của một người dân yêu nước chứng kiến cảnh nước mất nhà tan nên ông đã hình dung tưởng tượng ra thảm cảnh thê lương ấy. Ông đã vẽ lên bức tranh đầy máu và nước mắt ở một thời điểm đen tối của dân tộc. Bài thơ "Chạy giặc" là bức tranh hiện thực của những ngày đất nước rơi vào nạn xâm lăng và đây cũng là một tấm lòng của Nguyễn Đình Chiểu đối với đất nước.
Nhân vật trữ tình đã thể hiện nỗi đau của người dân trong cảnh nước mất nhà tan với những cung bậc khác nhau.Hai câu thơ đầu là lời kể lời tả của nhà thơ về bức tranh hiện thực của cảnh chạy tây.
"Tan chợ vừa nghe tiếng súng tây
Một bàn cờ thế phút sa tay".
Hai câu thơ đã diễn tả hoàn cảnh bi thảm của nhân dân Nam bộ lúc bấy giờ. Hai câu thơ cho thấy thời gian diễn ra tình ảnh éo le ấy thật nhanh chóng chỉ chốc lát khi mà bọn tay sai lùng sục khi đi qua khu chợ. Đó là thời điểm mới tan chợ, đây là một thời điểm khá vắng vẻ hiu quạnh. Không gian lúc này như đang chìm vào trong vẻ tĩnh mịch lặng lẽ mọi người còn đang chìm vào trong giấc ngủ trưa thế nhưng tiếng súng đột ngột khiến cho khung cảnh thanh bình đó bỗng chốc tan biến vào quá khứ và một cảnh tượng chạy giặc kinh hoàng và cực kì đau xót. Đó là nỗi đau cũng là nỗi kinh hoàng của nhân dân thành Gia Định Và cũng là của chính tác giả khi mà cảnh tượng đau thương ấy diễn ra.Cảnh chiến trận đã bắt đầu "một bàn thế cờ" là hình ảnh ẩn dụ nói về cuộc chiến và thế giằng co giữa quân triều đình và quân giặc. Ba tiếng "phút sa tay" thể hiện sự thất thủ của quân triều đình tại thành Gia Định diễn ra quá nhanh chóng. Đằng sau hia câu thơ là nỗi lo lắng và kinh hoàng của nhà thơ trước thảm họa về quê hương đất nước mình bị giặc Pháp chiếm đóng và giày xéo.
Hai câu tiếp theo là cảnh chạy giặc chạy loạn trong nỗi kinh hoàng của nhân dân trước thảm cảnh:
Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy
Mất tổ bầy chim dáo dác bay
Nếu viết "Lũ trẻ bỏ nhà lơ xơ chạy" và "Đàn chim mất ổ dáo dác bay" thì ý vị câu thơ và giá trị biểu cảm sẽ không còn gì nữa! Cặp từ láy "lơ xơ" và "dáo dác" gợi tả sự hoảng loạn và kinh hoàng đến cực độ. Cảnh trẻ con lạc đàn, chim vỡ tổ là hai thi liệu chọn lọc điển hình theo cách nói của dân gian tả cảnh chạy giặc vô cùng thảm thương.
Hai câu thực của bài thơ là một bức tranh cụ thể sinh động thể hiện lại tình cảnh tan tác bi thương của nhân dân khi ấy. Sự xuất hiện của giặc thù quá đột ngột, sự chống chọi của quân ta lại thất bại quá nhanh chóng khiến cảnh dắt dìu gồng gánh nhay chạy loạn càng thật đau lòng. Đang sống hạnh phúc êm ấm bên những người thân, bất chợt giặc thù từ đâu ập đến bắt giết, mọi gia đình đều chưa chuẩn bị gì, chỉ biết hốt hoảng dắt nhau trốn chạy. Nhà thơ đặc tả cảnh tượng ấy bằng hai chữ hình ảnh lũ trẻ lơ xơ chạy và bầy chim dáo dác bay. Lối đảo ngữ lơ xơ, dáo dác lên trước trong trường hợp này làm nổi bật lên trước mắt người đọc dáng vẻ xơ xác, tan tác của lũ trẻ và bầy chim nhưng cũng khắc họa được tâm trạng hoang mang và ngơ ngác của chúng. Hai câu tiếp theo là cảnh tan thương của một vùng đất bị giặc chiếm đóng.
"Bến Nghé của tiền tan nước bọt
Đồng Nai tranh ngói nhuộm mầu mây".
Một vùng đất vốn được coi là trù phú và khá là sầm uất mà bỗng chốc roi vào cảnh nhà tan cửa nát, một cảnh tượng tan thương. Bến Nghé và Đồng Nai vốn là một vựa lúa sầm uất trên bến dưới thuyền mà chỉ trong phút chốc đã bị thực dân Pháp phá tan tiền của, tài sản của nhân dân ta bị giặc cướp phá sạch "tan bọt nước". Nhà cửa xóm làng quê hương nhà thơ bị đốt cháy, lửa khói nghi ngút "nhuốm màu mây". Hai hình ảnh so sánh "tan bọt nước" và "nhuốm màu mây" là cách nói cụ thể của dân gian đặc tả cảnh điêu tàn do giặc Pháp gây ra. Hai câu cuối bài thơ thể hiện niềm đau đớn lo toan cho số phận của đất nước dân tộc ta trước cảnh mất nước.
"Hỏi trang dẹp loạn này đâu vắng
Lỡ để dân đen mắc loạn này"
"Trang dẹp loạn" cũng là trang anh hùng hào kiệt. "Rày đâu vắng": hôm nay, bữa nay đi đâu mà không thấy xuất hiện? Nhà thơ vừa trách móc quan quân Triều đình hèn yếu, thất trận để giặc chiếm đóng quê hương, vừa mong đợi người anh hùng tài giỏi ra tay đánh giặc để cứu nước, cứu dân thoát khỏi cảnh lầm than. Câu kết chứa đựng biết bao tình yêu thương của Nguyễn Đình Chiểu đối với nhân dân đang quằn quai với bom đạn giặc.
Bài thơ "Chạy giặc" được viết bằng một thứ ngôn ngữ bình dị, dân dã đậm đặc màu sắc Nam bộ. Phép đối, phép đảo ngữ, ẩn dụ so sánh là những biện pháp nghệ thuật được tác giả vận dụng sáng tạo để viết nên những vần thơ hàm súc, biểu cảm. "Chạy giặc" là bài thơ mang giá trị lịch sử to lớn. Nó ghi lại sự kiện đau thương của đất nước ta cuối thế kỷ 19. Nó là bài ca yêu nước căm thù giặc và cũng là khát vọng độc lập, tự do.
4. Bình giảng bài Chạy giặc của Nguyễn Đình Chiểu mẫu 3
"Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta" (Hồ Chí Minh). Điều ấy không chỉ thể hiện trực tiếp qua hành động ra chiến trường chiến đấu với quân xâm lược mà nó còn thể hiện qua những vần thơ căm thù giặc sâu sắc. Bài thơ "Chạy giặc" của Nguyễn Đình Chiểu là tác phẩm tiêu biểu cho lòng yêu nước của một người con Nam Bộ.
Bài thơ mở đầu bằng khung cảnh tan tác, bi thương khi thực dân Pháp nổ tiếng súng đầu tiên báo hiệu cuộc xâm chiếm Nam Bộ:
"Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây
Một bàn cờ thế phút sa tay".
Nếu chỉ hiểu đơn giản rằng tiếng súng Tây nổ ra lúc vừa tan chợ thì sẽ không thấy được những bước chân chạy giặc vừa hoảng loạn, sợ hãi của người dân. Nguyễn Đình Chiểu đã miêu tả lại khung cảnh chợ vẫn đang họp thì tiếng súng bắt đầu nổ lên khiến ai nấy đều hoảng sợ. Chợ là nơi mọi người buôn bán, trao đổi hàng hóa, là nơi thu hút nhiều người dân. Những đứa trẻ thơ luôn háo hức chờ đến lúc chợ tan để nhận được thức quà giản dị như tấm mía, gói kẹo hay bộ quần áo từ người bà, người mẹ, người chị mua từ phiên chợ. Vậy mà thực dân Pháp chọn đúng thời điểm ấy để nổ súng xâm lược. Buổi chợ đang sôi nổi, đông đúc bỗng tan tác chỉ trong chốc lát. Bao nhiêu niềm háo hức, chờ mong trên gương mặt của những đứa trẻ thơ cũng không còn nữa. "Bàn cờ thế phút sa tay" là ẩn dụ cho tình hình thời cuộc nước ta lúc bấy giờ. Cuộc xâm chiếm xảy ra quá bất ngờ khiến nhân dân ta không kịp trở tay, đối phó. Khi chơi cờ, người chơi phải suy tính thật kĩ càng, đi những nước cờ một cách cẩn thận nhưng bàn cờ lúc sa tay là bàn cờ đã rơi vào tình thế bí bách, nếu đi sai một bước thì sẽ nhận sự thua cuộc về mình. Niềm mong chờ sự chỉ đạo sáng suốt của người cầm quân đã hoàn toàn lụi tắt khi tiếng súng vang lên. Sự hi vọng của nhà thơ cũng vì thế mà tan vỡ.
Tiếng súng đột ngột ấy đã phá tan đi khung cảnh yên bình, ấm êm vốn có của mảnh đất Gia Định:
"Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy
Mất ổ bầy chim dáo dác bay".
Hai câu thơ này đã thể hiện biết bao sự xót xa, đau đớn của Nguyễn Đình Chiểu. "Lơ xơ" và "dáo dác" là hai từ láy giàu giá trị biểu cảm đã diễn tả chân thực cảnh chạy giặc kinh hãi, hoảng loạn. Khi những người đi chợ chưa kịp về tới nhà để sum họp, khi những đứa trẻ chưa nhận được những thức quà quê thì chúng đã phải dắt díu nhau bỏ chạy. Chúng thất thần, ngơ ngác, chạy đi không phương hướng. Chúng sợ hãi, bơ vơ khi không có ai dẫn dắt để tránh sự nguy hiểm từ súng đạn kẻ thù. Chúng biết đi đâu, về đâu trong thời buổi loạn lạc? Sự tàn bạo của kẻ thù không chỉ khiến con người kinh hãi mà ngay cả đến loài động vật cũng khiếp sợ. Bầy chim bay "dáo dác", mất phương hướng và cất lên tiếng kêu thảm thiết. Đó là hình ảnh tả thực về thiên nhiên đồng thời cũng là hình ảnh so sánh với "lũ trẻ lơ xơ chạy" giúp người đọc có thể hình dung ra cảnh tượng xơ xác, tan đàn xẻ nghé đầy đau thương. Trẻ em là những mầm non cần được chăm sóc, bảo vệ vì trẻ em là tương lai của đất nước nhưng chính chiến tranh đã cướp đi tương lai của các em. Tác giả dùng phép đảo ngữ đưa từ "bỏ nhà", "mất ổ" lên vị trí đầu câu thơ nhằm mục đích nhấn mạnh tới sự bi thảm của chiến tranh. Bạn đọc có thể hình dung ra những đứa trẻ đang chạy hết sức mình để tìm được chỗ trú ẩn. Chúng hớt hải, ngơ ngác giữa súng đạn kẻ thù. Con người, đàn chim sẽ trú ngụ ở đâu khi "bỏ nhà", "mất ổ"? Liệu nơi chốn nào sẽ là nơi trú ngụ dành cho họ khi quân địch ngày càng mở rộng phạm vi xâm chiếm? Cuộc sống của họ sẽ ra sao khi không có nơi chốn để đi về, không có nghề nghiệp để sinh sống?
Đi sâu vào sự tàn phá của quân địch, Nguyễn Đình Chiểu đã nhắc đến từng địa danh cụ thể bị quân xâm lược giày xéo:
"Bến Nghé cửa tiền tan bọt nước
Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây".
Bến Nghé, Đồng Nai là hai miền quê trù phú của Nam Bộ cũng chịu sự càn quét, đốt phá của thực dân Pháp. Bỗng chốc những của cải vật chất của nhân dân ta bị quân địch cướp bóc hết. Tất cả đã tan thành bọt nước. Nhân dân ta đau xót nhường nào khi mồ hôi, công sức của mình bị kẻ thù xâm chiếm. Chúng làm náo loạn hết cả không gian và cuộc sống con người, chúng không từ một thủ đoạn nào để đàn áp nhân dân. Màu của những mái nhà bị đốt đã nhuốm cả màu mây trời. Không gian ngập chìm trong lửa khói. Có ai chứng kiến cảnh tượng tang tóc, điêu tàn ấy mà không khỏi đau lòng? Ẩn sau hai câu thơ là sự căm thù giặc vô cùng sâu sắc của tác giả. Tuy không thể trực tiếp ra chiến trường giết giặc nhưng ông đã dùng ngòi bút của mình để tấn công chúng trên phương diện tinh thần. Chúng là những kẻ dã man, không có lương tâm khi tàn phá quê hương ta không thương tiếc. Những tội ác của chúng đáng bị tố cáo, lên án.
Đất nước rơi vào thảm cảnh bi thương mà không thấy những hành động cứu dân, cứu nước của các trang dẹp loạn:
"Hỏi trang dẹp loạn rày đâu vắng
Nỡ để dân đen mắc nạn này".
Sự vắng bóng của triều đình và các trang dẹp loạn đã cho thấy sự hèn nhát, bất lực của bộ máy chính trị nước ta. Nguyễn Đình Chiểu trăn trở, lo lắng cho vận mệnh của dân tộc. Ông thương mỉa mai, châm biếm sự hèn nhát của triều đình và thương xót cho số phận của những người dân đen. Họ là những người dân vô tội, là những người lương thiện lao động cực nhọc để chăm lo cho cuộc sống. Vậy mà lại bị mắc trong nạn xâm lược, nạn diệt vong của kẻ thù tàn ác. Dường như cụ Đồ Chiểu đang nghẹn ngào tiếng khóc trước cảnh tượng tan tác, thê lương ấy. Triều đình đã bỏ mặc dân đen vô tội, không quan tâm đến sự sống còn của nhân dân. Câu thơ mang tính chất trách móc nhưng đồng thời cũng thúc giục tinh thần chiến đấu của những anh hùng xả thân cứu nước. Đó là lời kêu gọi mọi người hãy dũng cảm đứng lên chiến đấu để chiến thắng kẻ thù, mang lại cuộc sống ấm no như thuở trước.
Thể thơ thất ngôn bát cú với kết cấu chặt chẽ cùng ngôn từ giản dị nhưng vô cùng hàm súc đã thể hiện tấm lòng yêu nước thương dân của nhà thơ mù Nguyễn Đình Chiểu. Ông đã làm rất tốt nhiệm vụ chiến đấu của mình khi dùng những vần thơ để chĩa thẳng mũi súng tinh thần vào thực dân Pháp xâm lược. Ông xứng đáng được coi là "ngôi sao sáng trong nền văn nghệ dân tộc" (Phạm Văn Đồng).
5. Bình giảng bài Chạy giặc của Nguyễn Đình Chiểu mẫu 4
"Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây,
Một bàn cờ thế phút sa tay.
Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy,
Mất ổ đàn chim dáo dát bay.
Bến Nghé của tiền tan bọt nước,
Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây.
Hỏi trang dẹp loạn rày đâu vắng,
Nỡ để dân đen mắc nạn này?"
Đừng nói đến cảnh dân chạy giặc vội, mà trước hết hãy chú ý đến '"tiếng súng Tây" rộ lên vào thời điểm tan chợ. Nghĩa là trước lúc súng nổ, chợ búa vẫn họp bình thường. Cuộc sống hoàn toàn thanh bình yên ổn. Lúc tan chợ là lúc bắt đầu sự sum họp của gia đình. Những đứa em ngóng anh chị, con cái đợi cha mẹ, cháu chắt đợi ông bà. Cảnh hạnh phúc đầm ấm đơn sơ sẽ diễn ra ở mọi nhà với những món quà giản dị của chợ vùng quê: củ khoai, tấm bánh đúc ngô, dăm ba gióng mía, mấy nắm bỏng rang trộn mật... Cả nhà sẽ xúm quanh mâm cơm thanh đạm có bát canh chua, khúc cá kho, hay giản dị hơn chỉ có “rau tôm nấu với ruột bầu"...
“Tiếng súng Tây nổ đúng vào lúc đó,
Bất ngờ, đột ngột, dữ dội vô cùng."
Súng Tây thời ấy nổ ghê gớm lắm: “súng giặc đất rền". Nghe tiếng súng thì bọn giặc đã ở ngay bên cạnh. “Vừa nghe" thế mà cả bàn cờ thế đã hỏng "phút sa tay". Thất bại ập đến nhanh quá. Thời gian ngắn ngủi càng tăng thêm tính chất đột ngột, bất ngờ, căng thẳng của tình thế. Và vì thế, thay cho cảnh sum họp đầm ấm là cảnh tượng lộn xộn sẻ nghé tan đàn:
“Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy,
Mất ổ đàn chim dáo dát bay."
Súng vừa nổ, giặc đã ập đến. Người lớn còn chưa kịp đi chợ về hoặc còn đang ở ngoài đồng. Cho nên hốt hoảng lũ trẻ dắt díu nhau chạy lơ xơ. Đặt chữ "lơ xơ" lên trước chữ “chạy” là rất gợi tả. Dường như ta chỉ nhìn thấy sự rã rời, hốt hoảng sắp kiệt sức của những em bé, rồi sau mới biết là các em chạy. Hình ảnh so sánh đàn chim mất ổ dáo dát với lũ trẻ bỏ nhà chạy lơ xơ thật là đặc sắc. Nhưng cũng phải thấy thêm rằng khi giặc đến, chẳng những con người khốn khổ mà chim muông cũng không được yên ổn. Giặc đến làm đau cả sông núi, đau cả chim muông, đau cỏ cây.
Tả chạy giặc, một cuộc chạy vội vã, đột ngột không hề được chuẩn bị, chỉ đặc tả lũ trẻ và bầy chim là rất thành công. Xa hơn cảnh tượng sống động, bối rối, hốt hoảng, lộn xộn của lũ trẻ và bầy chim là sự mất mát, thiệt hại của cả một vùng quê rộng lớn:
“Bến Nghé của tiền tan bọt nước,
Đồng Nai tranh ngói nhuốm màn mây."
Của cải bị mất mát, nhà cửa bị thiêu cháy, con cái lạc cha mẹ, và chắc là sẽ không tránh khỏi sự chết chóc đau thương: "Đau đớn bấy mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều. Não nùng thay vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ”. Giặc đến gieo bao tội ác lên đầu nhân dân. Trước hết là những người dân lành, "Dân đen” côi cút làm ăn toan lo nghèo khó trong ấp trong làng.
Nguyền Đình Chiểu cũng phải chạy giặc và ông thấu hiểu sâu sắc những cảnh đó. Ông cất lên tiếng hỏi và cũng là lời trách móc phê phán những người có chức, có quyền, có trách nhiệm của triều đình:
"Hỏi trang dẹp loạn rày đâu vắng,
Nỡ để dân đen mắc nạn này "
Không phải chỉ là một câu hỏi gay gắt và lời phê phán nghiêm khắc những trang dẹp loạn của triều đình. Hình như câu thơ còn là một tiếng khóc nghẹn tràn đầy nước mắt của con người mù lòa hết lòng yêu nước thương dân mà không thể làm gì cho dân trong cơn loạn lạc.
6. Bình giảng bài Chạy giặc của Nguyễn Đình Chiểu mẫu 5
Nguyễn Đình Chiểu được coi là ngôi sao sáng của nền văn học Việt Nam, ông gắn bó cả cuộc đời mình với sự nghiệp văn chương và ông đã để lại rất nhiều sáng tác có giá trị to lớn. Bài thơ “Chạy giặc” tiêu biểu cho những sáng tác của ông nói về cuộc chiến đấu của dân tộc ta. Nó có ảnh hưởng to lớn cho người đọc hôm nay và cả mai sau.
Bài thơ này nói về cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, một cuộc kháng chiến đầy gian khổ khiến cho cuộc sống của nhân dân rơi vào cảnh lầm than. Nguyễn Đình Chiểu đã tạo nên một hình tượng thơ và đó là những hình ảnh chân thực nhất, bộc lộ rõ nét nhất tội ác của quân giặc.
Mở đầu bài thơ là hình ảnh cuộc sống yên bình của nhân dân ta bị phá vỡ do quân xâm lược. Những hình ảnh vô cùng đau thương mà người dân phải trải qua:
“Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây
Một bàn cờ thế phút sa tay
Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy
Mất ổ đàn chim dáo dát bay”
Trước lúc tiếng súng Tây vang lên thì phiên chợ ở đây vẫn họp vui vẻ, người người đi chợ mua bán vẫn rất đông và nhộn nhịp. Đáng lẽ ra lúc tan chợ mọi ngừi đều phải đi về nhà với những thức ăn, đồ ăn ngon mang về nhà để cả nhà có được bữa ăn sum vầy bên nhau sau những giờ làm việc mệt mỏi. Nhưng đến lúc tiếng súng vang lên thì mọi thứ đã trở nên xáo trộn, không còn là cuộc sống bình yên, giản dị như trước nữa. Quân giặc ập đến quá nhanh khiến chi “bàn cờ thế phút sa tay”, thời gian rất ngắn ngủi càng tăng thêm sự đột ngột, căng thẳng. Thay vì cảnh sum họp thì đó là sự xôn xáo, nháo nhác, tan đàn sẻ nghé. Lũ trẻ thì “lơ xơ” bỏ nhà chạy vì người lớn vừa tan chợ chưa về đến nhà. Chữ “lơ xơ” được tác giả đặt lên trước chữ “chạy” càng làm tăng thêm tính căng thẳng, dường như ta cảm nhận được sự sợ hãi, hốt hoảng, mệt mỏi của những đứa trẻ đang bỏ chạy để tìm cho mình nơi ẩn nấp. Đàn chim mất ổ “dáo dát” bay được ví như lũ trẻ, chúng cũng lạc đàn, mất ổ và mất phương hướng. Lũ giặc đến làm đau cả núi sông, đau cả chim muông và đặc biệt là đau con người.
Cảnh chạy giặc được miêu tả thật vội vã, đột ngột và không hề có sự chuẩn bị từ trước. Xa xa là cảnh lũ trẻ xơ xác chạy tìm nơi ẩn náu và hình ảnh đàn chim mất ổ dáo dát bay là cảnh cả một vùng quê đau thương dưới tiếng súng của quân xâm lược:
“Bến Nghé của tiền tan bọt nước
Đồng Nai tranh ngói nhuốm màn mây”
Cả một vùng quê rộng lớn bị thiệt hại về tất cả mọi mặt, đó là sự mất mát vô cùng to lớn của những người nông dân chân chất. Không chỉ của cải bị mất mà còn thiệt hại cả về tính mạng con người. Lũ trẻ lạc cha mẹ tìm chỗ trốn ắt không thể tránh khỏi được sự mất mát đau thương. Ta đã tường thấy hình ảnh này được tái hiện qua những hình ảnh đau thương: “Đau đớn bấy mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều. Não nùng thay vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xế dật dờ trước ngõ”.
Giặc đến gieo bao tội ác của chúng lên đầu nhân dân khiến cho đời sống của nhân dân lầm than, đau khổ. Người dân cả một đời côi cút nhằm mong được hạnh phúc bên gia đình mình những quân xâm lược đã đến và cướp đi sự bình yên ấy chỉ trong giây lát.
“Hỏi trang dẹp loạn rày đâu vắng
Nỡ để dân đen mắc nạn này”
Chính bản thân Nguyễn Đình Chiểu-người viết nên những vần thơ này cũng chính là một trong vô vàn những người xáo xác chạy giặc. Vì đã từng trải qua nên ông thấu hiểu được sự cực khổ của dân làng trong hoàn cảnh đau thương như thế này. Ông đã phải cất lên tiếng “hỏi”, đó không chỉ dừng lại ở tiếng hỏi mà còn là sự phê phán, trách móc bộ máy nhà nước cấp cao, phê phán triều đình để cho nhân dân phải lâm vào cảnh khổ cực, đau thương, mất mát về cả vật chất và tinh thần.
Câu thơ như một tiếng khóc nấc nghẹn ngào của những con người yêu nước hết lòng mà trước tình cảnh như thế này không biết làm gì hơn để giúp đất nước giành được độc lập, tự do. Tác giả đặt ra câu hỏi như muốn hỏi rằng liệu còn bao nhiêu con người phải chịu những cảnh đau thương như thế này nữa, và liệu có được bao nhiêu người dám đứng lên đấu tranh để dẹp loạn.
Với bài thơ này thì Nguyễn Đình Chiểu đã phần nào thể hiện được tài năng của mình trong việc miêu tả và thể hiện được tình cảm của mình đối với đất nước trong những ngày khó khăn. Lời thơ của ông như một thứ vũ khí, như một lời động viên để các thế hệ cũng chung tay lấy lại bình yên cho dân tộc ta.
7. Bình giảng bài Chạy giặc của Nguyễn Đình Chiểu mẫu 6
Có những tác phẩm văn chương bất tử, khi nó trở thành chứng nhân lịch sử, gắn liền với nỗi vui, buồn của một dân tộc. “Chạy giặc" là một bài thơ như thế.
Năm 1859, thực dân Pháp tấn cồng thành Gia Định. Trước họa xâm lăng, Nguyễn Đình Chiểu đã viết bài thơ “Chạy giặc". Bài thơ viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật, phản ánh nỗi đau thương của dân tộc, căm thù lên án tội ác quân Pháp xâm lược và thể hiện lòng thương xót nhân dân:
“Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây,
Nỡ để dân đen mắc nạn này?".
Hai câu đề nói lên một cục diện bi thảm của đất nước ta hồi bấy giờ. Giặc Pháp nổ súng đánh chiếm thành Gia Định. Trận đánh diễn ra như “một bàn cờ thế" phút chốc thay đổi bất ngờ: ‘Phút sa tay". Thành Gia Định thất thủ, Đồng Nai, Bến Nghé rơi vào tay giặc. Vần thơ cất lên như một lời than:
“Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tày,
Một bàn cờ thế phút sa tay."
Các từ ngữ: “vừa nghe tiếng súng Tây", “phút sa tay" làm nổi bật thời gian, sự việc diễn ra bất ngờ, nhanh chóng và nói lên nỗi kinh hoàng của nhà thơ, của nhân dân khi thành Gia Định bị giặc Tây nổ súng đánh chiếm. “Một bàn cờ thê" là một ẩn dụ, cách nói ước lệ, hàm súc về một cục diện chiến trường, một tình thế chiến tranh hồi ấy (1859).
Hai câu thực tả cảnh chạy loạn, chạy giặc trong nỗi kinh hoàng của nhân dân. Các từ ngữ: "bỏ nhà", “lơ xơ chạy", "mất ổ “dáo dát bay" đặc tả sự tan nát, hoảng sợ, hãi hùng. Nhà thơ lấy thế giới con người là ‘lũ trẻ", lấy thế giới thiên nhiên là "đàn chim", hai hình ảnh ấy điển hình cho nỗi đau thương của nhân dân trước thảm họa đất nước quê hương bị xâm lược:
“Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy,
Mất ổ đàn chim dáo dát hay".
Phép đảo ngữ đặt vị ngữ trước chủ ngữ để nhấn ý các chữ “bỏ nhà" và “mất ổ' tạo nên nỗi ám ảnh bi thương về cảnh chạy giặc của dân lành.
Hai câu luận đối nhau làm hiện lên hai cảnh tang thương điêu tàn nơi Bên Nghé và Đồng Nai. Gần 200 năm về trước, Bến Nghé đã là cành đô hội, sầm uất, trên bến dưới thuyền buôn bán tấp nập. Đóng Nai là vựa lúa miền Nam. Thế mà chỉ trong chốc lát đã bị giặc Pháp bắn giết, đốt phá, cướp bóc rất dã man. Tài sản của nhân dân , ta bị chúng cướp phá sạch sành sanh “tan bọt nước". Nhà cửa, phố phường, làng xóm của đồng bào ta bị quân xâm lược đốt phá tan hoang.
Lửa khói ngút trời, bao phủ một vùng rộng lớn “nhuốm màu mây". Nhà thơ tả ít mà gợi nhiều. Chỉ bằng hai hình ảnh rất chọn lọc, đối nhau: "của tiền tan bọt nước", “tranh ngói nhuốm màu mây" đã đủ mô tả cảnh giặc giã tan hoang, khiến lòng người hết sức căm giận, lên án tội ác tày trời của quân xâm lược. Nỗi đau đớn và căm thù chứa đầy vần thơ:
"Bến Nghé của tiền tan bọt nước,
Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây".
Tội ác quân giặc không thể nào kể xiết! Nhà thơ tưởng như cất lời than uất hận trước tội ác tày liếp của giặc Pháp:
"Binh tướng nó hãy đóng sông Bến Nghé,
ai làm nên bốn phía mây den;
Ông cha ta còn ở đất Đồng Nai,
ai cứu đặng một phường con đỏ ."
("Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc")
Sau khi hạ thành Gia Định, giặc Pháp đánh chiếm ba tỉnh miền Đông Nam Kì.
Cả một vùng rộng lớn của đất nước ta chìm trong máu lửa. Phan Văn Trị, người bạn thân của Nguyễn Đình Chiểu, khi nghe tiếng kèn giặc đã căm giận viết:
“Tò te kèn thổi tiêng năm ba,
Nghe lọt vào tai dạ xót xa.
Uốn khúc sông Rồng mù mịt khói,
Vắng hoe thành Phụng ủ sầu hoa..."
("Cảm tác")
Hai câu kết cảm xúc nghẹn lại bỗng trào lên, biểu lộ một tâm trạng đau đớn, lo âu. Lo âu cho tính mạng và tài sản của nhân dân ta đang bị giặc Pháp bắn giết, cướp phá dã man. Lo âu cho vận mệnh đen tối của đất nước. Câu hỏi tu từ thể hiện tình thương xót nhân dân, đau khổ trước họa xâm lăng:
"Hỏi trang dẹp loạn rày đâu vắng,
Nỡ để dân đen mắc nạn này?"
"Chạy giặc" là bài ca yêu nước thể hiện sâu sắc lòng căm thù giặc Pháp và nói lên tình thương xót nhân dân trước họa xâm lãng. Những cảnh mà nhà thơ nghe thấy (tiếng súng Tây), nhìn thấy, cảm thấy (lũ trẻ lơ xơ chạy, đàn chim dáo dát bay, của tiền tan bọt nước, tranh ngói nhuốm màu mây) là những chi tiết nghệ thuật rất hiện thực mang giá trị lịch sử sâu sắc. Bài thơ "Chạy giặc" là một chứng tích về tội ác giặc Pháp trong những ngày tháng đầu chúng xâm lược đất nước ta.
Ngôn ngữ hàm súc, nghiêm trang, chứa chan tình cảm, bài thơ thể hiện tâm hồn trung nghĩa của Nguyễn Đình Chiểu. Qua đó cho thấy tính mẫn cảm chính trị của nhà thơ yêu nước "đâm mấy thằng gian bút chẳng tà ". Với ông, "thơ lủà súng là gươm ". ("Đọc thơ Đồ Chiểu " - Lê Anh Xuân).
Trên đây VnDoc hướng dẫn các bạn học tốt bài Văn mẫu lớp 11: Bình giảng bài Chạy giặc của Nguyễn Đình Chiểu. Ngoài ra các bạn có thể soạn bài Ngữ văn 11 được VnDoc sưu tầm, chọn lọc để học tốt môn Ngữ văn 11. Mời bạn đọc cùng tham khảo thêm các môn Toán 11, Tiếng Anh 11
Mời bạn đọc cùng tham gia nhóm Tài liệu học tập lớp 11 của VnDoc.com để có thêm tài liệu học tập nhé
Bài tiếp theo: Bình giảng bài thơ "Bài ca ngất ngưởng" của Nguyễn Công Trứ
Mời bạn đọc cùng tham khảo thêm các tài liệu về bài Chạy giặc: