Phân tích, đánh giá nội dung và nghệ thuật “Trao duyên”
Phân tích, đánh giá nội dung và nghệ thuật “Trao duyên”
Phân tích, đánh giá nội dung và nghệ thuật "Trao duyên" là tài liệu học tập mới được VnDoc biên soạn, giúp các bạn học tốt môn Ngữ văn lớp 11. Mời các bạn tham khảo!
I. Dàn ý phân tích Trao duyên
I. Mở bài
Giới thiệu tác giả Nguyễn Du và Truyện Kiều: Nguyễn Du là đại thi hào dân tộc danh nhân văn hóa thế giới, Truyện Kiều được xem là kiệt tác của nền văn học được dịch ra nhiều thứ tiếng.
Giới thiệu đoạn trích Trao duyên: Vị trí, nội dung
II. Thân bài
1. Lời nhờ cậy và thuyết phục Thúy Vân của Thúy Kiều (12 câu thơ đầu)
a. Hai câu đầu: Lời nhờ cậy của Thúy Kiều
* Lời lẽ trao duyên
- Cậy: + Là một thanh trắc với âm điệu nặng nề, gợi sự quằn quại, đau đớn, khó nói >< nhờ, mong (thanh bằng)
+ Cũng mang hàm nghĩa là trông mong, giúp đỡ nhưng cậy còn mang thêm sắc thái hàm ý về sự hi vọng tha thiết, sự gửi gắm đầy tin tưởng
- Chịu: Nài ép, bắt buộc, không thể không nhận >< nhận: mang tính tự nguyện
* Cử chỉ trao duyên
- Lạy, thưa:
Là thái độ kính cẩn, trang trọng với người bề trên hoặc với người mình hàm ơn.
Hành động của Kiều tạo ra sự trang nghiêm, thiêng liêng cho điều sắp nói ra
→ Qua cách nói thể hiện sự thông minh, khéo léo của Thúy Kiều
→ Sự tài tình trong cách sử dụng từ ngữ của Nguyễn Du
b. Mười câu tiếp: Lí lẽ trao duyên của Kiều.
* 4 câu thơ tiếp: Kể về mối tình với chàng Kim
- Thành ngữ: “ Giữa đường đắt gánh tương tư”
- Hình ảnh: “Mối tơ thừa”
- Hành động: “ Quạt ước, chén thề”
→ Bằng những thành ngữ, những điển tích, những ngôn ngữ giàu hình ảnh đã vẽ nên một mối tình nồng thắm nhưng mong manh, dang dở và đầy bất hạnh của Kim - Kiều
* 6 câu thơ sau: Những lí do khiến Kiều trao duyên cho em.
- Gia đình Kiều gặp biến cố lớn “sóng gió bất kì”
- Kiều buộc phải chọn 1 trong 2 con đường là “hiếu” và “tình”, Kiều đành chọn hi sinh tình.
→ Kiều đã gợi ra tình cảnh ngang trái, khó xử của mình để Vân thấu hiểu.
- “Ngày xuân em hãy còn dài”
→ Vân vẫn còn trẻ, còn cả tương lai phía trước
- “Xót tình máu mủ thay lời nước non”
→ Kiều thuyết phục em bằng tình cảm ruột thịt.
- Thành ngữ “Thịt nát xương mòn” và “ Ngậm cười chín suối”: nói về cái chết đầy mãn nguyện của Kiều
→ Kiều viện đến cả cái chết để thể hiện sự cảm kích thật sự của mình khi Vân nhận lời
⇒ Cách lập luận hết sức chặt chẽ, thấu tình cho thấy Thúy Kiều là người sắc sảo tinh tế, có đức hi sinh, một người con hiếu thảo, trọng tình nghĩa.
- Nội dung: 12 câu thơ đầu là diễn biến tâm trạng phức tạp của Kiều trong lúc nói lời trao duyên
- Nghệ thuật: Sử dụng các điển tích, điển cố, các thành ngữ dân gian, ngôn ngữ tinh tế, chính xác giàu sức thuyết phục, lập luận chặt chẽ.
2. Kiều trao kỉ vật và dặn dò Vân (14 câu thơ tiếp theo)
a. Sáu câu đầu: Kiều trao kỉ vật
- Kỉ vật; Chiếc vành, bức tờ mây
→ Kỉ vật đơn sơ mà thiêng liêng, gợi quá khứ hạnh phúc.
- Từ “giữ - của chung – của tin”
“Của chung” là của Kim, Kiều nay là cả của Vân nữa
“Của tin” là những vật gắn bó gợi tình yêu thiêng liêng của Kim – Kiều: mảnh hương, tiếng đàn
→ Thể hiện sự giằng xé trong tâm trạng Thúy Kiều. Kiều chỉ có thể gửi gắm mối duyên dang dở cho Vân chứ không thể trao hết tình yêu mặn nồng xưa kia giữa nàng và Kim Trọng.
b. Tám câu thơ tiếp: Lời dặn dò của Kiều
* Kiều dự cảm về cái chết
- Hàng loạt các từ ngữ, hình ảnh gợi về cái chết: hiu hiu gió, hồn, nát thân bồ liễu, dạ đài, người thác oan
→ Dự cảm không lành về tương lai, sự tuyệt vọng tột cùng. Kiều tưởng tượng ra cảnh mình chết oan, chết hận. Hồn không sao siêu thoát được bởi trong lòng đang nặng lời thề ước với Kim Trọng
→ Ta thấy được sự đau đớn, đầy tuyệt vọng của Kiều, đồng thời thể hiện tấm lòng thủy chung một lòng hướng về Kim trọng của Kiều
* Thúy Kiều dặn dò Thúy Vân
- “Đền nghì trúc mai”: Đền ơn đáp nghĩa.
- “Rưới xin giọt nước”: Tẩy oan cho chị.
→ Nỗi bứt rứt, dằn vặt trong lòng Kiều. Lúc này, Kiều như càng nhớ, càng thương Kim Trọng hơn bao giờ hết.
Tóm lại: Nội dung: 14 câu thơ tiếp là một khối mâu thuẫn lớn trong tâm trạng Thúy Kiều: trao kỉ vật cho em mà lời gửi trao chất chứa bao đau đớn, giằng xé và chua chát.
- Nghệ thuật: Cách sử dụng từ ngữ, hình ảnh giàu giá trị biểu cảm, độc thoại nội tâm.
3. Tám câu thơ cuối: Kiều trở về thực tại đau xót khi nhớ tới Kim Trọng
- Hình thức: Lời thơ chuyển từ đối thoại sang độc thoại
- Tâm trạng: Nàng ý thức rõ về cái hiện hữu của mình: “trâm gãy gương tan”, “tơ duyên ngắn ngủi”, “phận bạc như vôi”, “nước chảy hoa trôi lỡ làng”
→ Hình ảnh gợi tả số phận đầy đau khổ, dở dang, bạc bẽo, lênh đênh trôi nổi
- Nghệ thuật đối lập: quá khứ >< hiện tại
→ Khắc sâu nỗi đau của Kiều trong hiện tại.
- Các hành động
● Nhận mình là "người phụ bạc"
● Lạy: cái lạy tạ lỗi, vĩnh biệt khác với cái lạy nhờ cậy lúc đầu
● Hai lần gọi tên Kim Trọng: tức tưởi, nghẹn ngào, đau đớn đến mê sảng.
→ Kiều quên đi nỗi đau của mình mà nghĩ nhiều đến người khác, đó chính là đức hy sinh cao quý
♦ Tiểu kết
- Nội dung: Tâm trạng đau đớn đến cùng cực của Thúy Kiều khi hường về tình yêu của mình và Kim Trọng.
- Nghệ thuật: Sử dụng từ ngữ biểu cảm, thành ngữ, câu cảm thán, các điệp từ.
III. Kết bài
● Khái quát nội dung và nghệ thuật của đoạn trích
● Trình bày suy nghĩ, cảm nhận của bản thân: Đây là trích đoạn hay và cảm động nhất của Truyện Kiều, đem lại nhiều xúc cảm nơi người đọc.
II. Phân tích Trao duyên
Phân tích Trao duyên mẫu 1
“Truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn”. Nhận xét ấy của nhà nghiên cứu Phạm Quỳnh đã cho thấy vai trò quan trọng của “Truyện Kiều” đối với nền văn hóa của đất nước ta. Tác phẩm được viết bằng ngòi bút tinh anh của đại thi hào Nguyễn Du không chỉ là bức tranh chân thực về đời sống xã hội mà còn khắc họa muôn màu muôn vẻ chiều sâu tâm hồn con người Việt Nam. Đoạn trích "Trao duyên" là một trong những đoạn tiêu biểu của tác phẩm, thể hiện nỗi lòng Kiều khi buộc phải bán mình chuộc cha, đành nhờ Thúy Vân trả nghĩa cho chàng Kim Trọng.
Nguyễn Du (1765 - 1820) quê ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ông sinh ra trong dòng ho Nguyễn Tiên Điền - một dòng họ đại quý tộc, có truyền thống khoa cử và truyền thống văn hóa, văn học. Chính vì thế, gia đình chính là cái nôi để phát triển nhân cách và tài năng văn chương của ông. Thời đại Nguyễn Du sống là thời kì đất nước có nhiều biến động. Triều đình Lê - Trịnh sụp đổ, khởi nghĩa nông dân nổ ra khắp nơi mà tiêu biểu là khởi nghĩa Tây Sơn của người anh hùng Nguyễn Huệ. Triều Tây Sơn huy hoàng nhưng ngắn ngủi nên kế tiếp là sự phát triển trở lại của triều đại nhà Nguyễn. Sống dưới thời kì đó và gắn bó với đời sống của nhân dân, Nguyễn Du đã đem hiện thực xã hội và tấm lòng nhân đạo của mình vào “Truyện Kiều”.Đoạn trích “Trao duyên” nằm ở câu thơ 723 đến câu 756 trong phần “Gia biến và lưu lạc”. Đây cũng chính là quãng thời gian khép lại cuộc sống êm đềm, hạnh phúc của Kiều và mở ra đoạn đời phiêu bạt, đau khổ dằng dặc.
Tình yêu của Thuý Kiều và Kim Trọng được coi là một trong những đẹp nhất trong lịch sử văn học trung đại Việt Nam. Mối tình đó chớm nở vào ngày xuân tươi sáng:
Ngày xuân con én đưa thoi,
Thiều quang chín chục đã ngoài sáu mươi.
Cỏ non xanh tận chân trời,
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
Sau lần gặp gỡ, Kim và Kiều đã khắc cốt ghi tâm tình yêu thủy chung và thề nguyền đính ước dưới ánh trăng vằng vặc “Đinh ninh hai mặt một lời song song”. Hạnh phúc ngắn chẳng tày gang. Kim Trọng phải về chịu tang chú ở Liêu Dương. Lúc ấy bọn sai nha gây nên vụ án oan sai đối với gia đình Thúy Kiều. Nàng Kiều phải hy sinh mối tình với Kim Trọng, bán mình cho Mã Giám Sinh nhằm cứu cha và em. Cuối cùng, những day dứt về mối tình mới chàng Kim đã khiến Kiều đi đến quyết định nhờ Thúy Vân thay mình kết duyên với Kim Trọng.
Những giây phút Kiều còn có thể làm chủ cuộc đời còn rất ngắn ngủi nên Kiều có đã sắp đặt buổi “Trao duyên”. Người xưa thường nói rằng “Ép dầu ép mỡ ai nỡ ép duyên” nhưng trong hoàn cảnh éo le, Kiều đành cậy nhờ em:
“Cậy em em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.”
Từ "Cậy" đặt ở đầu câu gợi tả tình thế tiến thoái lưỡng nan, chẳng còn đường lui của Kiều. Tác giả dùng từ "Cậy" thay vì “nhờ” thể hiện tấm lòng của Thúy Kiều, một lòng tin tưởng trọn vẹn Thúy Vân. Gợi về hoàn cảnh của mình, Kiều còn quan tâm tới cả số phận của Vân qua từ “chịu”. “chịu lời” cũng gần giống với “nhận lời” nhưng thể hiện sắc thái khẩn thiết, nài ép nhiều hơn. Kiều biết rằng Vân cũng xứng đáng có được một tình yêu riêng, nay lời nhờ vả của Kiều sẽ có thể trói buộc Vân. Kiều đã đặt mình vào vị trí của em để thấu hiểu tâm tư của Thúy Vân. Điều này càng làm cho lời nhờ cậy thêm phần giá trị. Nguyễn Du không chỉ tinh tế trong cách dùng từ mà ông cũng chú trọng vào hành động “lạy” và “thưa”. Trong xã hội phong kiến xưa, đó là những hành động của kẻ bề dưới đối với người bề trên nhưng đây tại sao Thúy Kiều lại lạy Thúy Vân? Trong lúc đớn đau này, nàng chấp nhận hạ mình xuống để thể hiện sự trang trọng, kính cẩn. Cả lời nói và hành động của Kiều trong hai câu đầu đều cho thấy sự thiêng liêng trong lời nhờ cậy, tình thế khổ đau của Kiều và sự khéo léo, thông minh, sâu sắc của Kiều. Kiều đã đặt Vân vào tình tế không thể chối từ.
Sau những lời mào đầu tha thiết, Thúy Kiều đã bày tỏ nỗi lòng của mình để thuyết phục Vân. Nguyễn Du đã thâm nhập vào sâu thẳm của nội tâm nàng Kiều và khắc họa tất cả trạng thái tình cảm phong phú, phức tạp ấy. Đầu tiên, Kiều nói về đoạn tình cảm sâu nặng của mình đối với chàng Kim:
“Giữa đường đứt gánh tương tư,
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em
Kể từ khi gặp chàng Kim,
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề.”
Hoàn cảnh "đứt gánh tương tư" cho thấy sự đổ vỡ của tình yêu. Từ “gánh” vốn dùng để chỉ một khối lượng vật chất, còn “tương tư” lại là thứ vô hình, không cân đo được. Ca dao xưa cũng từng nói đến những mối tình duyên sâu nặng:
“Duyên tình nặng gánh ai ơi”
Vận dụng lời ăn tiếng nói và lối suy nghĩ của nhân dân lao động, Nguyễn Du đã sáng tạo nên “gánh tương tư”. “Keo loan” là thứ máu của chim loan mà giờ đây nàng phải dùng nó để chắp “mối tơ thừa”. Hai từ “tơ thừa” nghe sao mà xót xa!. Tình duyên vốn dĩ là của chị, khi đến với em nó đã là “tơ thừa” vựn vỡ. Em trở thành người chị tin tưởng để chắp nối lại đoạn đường tình ngắt quãng. Những lời hẹn ước, thề nguyền giờ chỉ còn là quá khứ, Kiều đang phải đối mặt với thực tại đau xót. Phép điệp ba từ “khi” thể hiện những kỷ niệm giữa kí ức và thực tại. “Ngày” và “đêm” là những từ chỉ thời gian kết hợp với nghệ thuật liệt kê “ngày quạt ước”, “đêm chén thề” tạo thành các vế đối nahu, tượng trưng cho những kỉ niệm tình yêu đẹp đẽ như những cơn sóng dâng trào mãnh liệt trong nàng. Phải chăng Kiều ý thức được sự ngắn ngủi, mong manh của hạnh phúc giữa cuộc đời dâu bể? Khao khát hạnh phúc thì vô biên nhưng không thắng nổi hiện thực lại tàn nhẫn khủng khiếp.
Sau khi nhắc đến kỉ niệm tình yêu với Kim Trọng, cho thấy sự trân trọng của mình dành cho mối tình ấy, Kiều đã thuật lại biến cố đau thương khiến nàng rơi vào tình cảnh hiện tại để mong nhận được sự cảm thông, thấu hiểu từ em:
“Sự đâu sóng gió bất kì
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai”
Gia đình tai biến, Kiều đã đặt chữ “Hiếu” lên trên chữ “Tình”. Giờ đây, “Hiếu” đã phần nào vẹn toàn còn “Tình” đành nhờ Vân san sẻ giúp. Kiều dằn lòng mình, lấy lời lẽ khéo léo để khuyên em, thuyết phục em:
“Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ, thay lời nước non.”
"Ngày xuân" ý muốn nói Vân còn trẻ, còn có tương lai. Chị em Thúy Kiều đều là những thiếu nữ “Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê” nhưng rồi tại sao nàng Kiều lại nhắn nhủ với Vân rằng: “Ngày xuân em hãy còn dài”? Trong cảm nhận của Kiều, Vân đang được tự do, ngày tháng tuổi trẻ vẫn đó. Kiều bán mình chuộc cha, hy sinh chính tuổi xuân, hạnh phúc của đời mình. Tính từ “xót” mang sắc thái đặc biệt diễn tả mối quan hệ ruột thịt. Những thành ngữ “tình máu mủ” , “lời nước non” thể hiện hàm ý tha thiết cậy nhờ em. Kiều đã phải viện đến tình ruột thịt để mong em nghĩ đến tình ấy mà giúp mình.
Để thể hiện sự tôn trọng, trân quý dành cho Vân, Kiều còn lấy chính bản thân mình ra thuyết phục em:
“Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây”
Những thành ngữ “thịt nát xương mòn”, “Ngậm cười chín suối” đều ngầm chỉ cái chết. Thuý Kiều tự coi mình là một người sắp chết và đang nói lời trăng trối với người còn sống. Lời thỉnh cầu của Kiều vừa chân thành, vừa ràng buộc, đưa Vân đến tình thế mặc nhiên phải chấp nhận. Nàng đã biết dùng lý trí đè nén tình cảm đúng lúc, đúng chỗ.
Cuối cùng, điều khó khăn nhất là trao kỷ vật cho Vân:
“Chiếc vành với bức tờ mây
Duyên này thì giữ vật này của chung.”
Những sự vật như “tờ mây”, “chiếc vành” là là vật thề ước, chứng thực cho mối tình đôi lứa Kim Trọng - Thúy Kiều. Ta cảm nhận được sự bối rối trong sự phân chia của Thúy Kiều giữa “vật này” với “duyên này”. Nguyễn Du đã cho Kiều trở lại là người con gái yếu đuối với những nét tâm lí thường tình, không đành lòng san sẻ tình yêu duy nhất.
“Dù em nên vợ nên chồng,
Xót người bạc mệnh ắt lòng chẳng quên
Mất người còn chút của tin,
Phim đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa”
Kiều day dứt láy đi láy lại về tương lai nên duyên vợ chồng giữa Kim Trọng và Vân. Nghĩa cho Kim Trọng đã trả, nàng cũng đã báo hiếu cho cha mẹ. Nhưng nàng vẫn không thanh thản, đau đớn đến nỗi nghĩ tới cái chết. Chữ “ngày xưa” xa xôi vang lên chua xót gọi về mối tình đẹp mới như ngày hôm qua giữa Kim và Kiều. Kiều bất ngờ cảm nhận được tương lai tan vỡ. Một bên là hạnh phúc nên vợ nên chồng của Vân, một bên là sự cô quạnh của nàng.
“Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy so tơ phím này
Trông ra ngọn cỏ lá cây
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về
Hồn còn mang nặng lời thề
Nát thân bồ liễu đền nghì trúc mai”
Đoạn thơ như một lời chiêu hồn buồn thẳm, khác hẳn với không khí trang trọng lúc bắt đầu trao duyên. Một loạt từ ngữ, hình ảnh như “đốt hương”, “ngọn cỏ”, “lá cây”, “hiu hiu gió”, “hồn nặng lời thề”, “nát thân bồ liễu”, “dạ đài”, “cách mặt khuất lời”, “người thác oan” để thể hiện sự tự ý thức của Thúy Kiều về bi kịch thân phận trái ngang. Nàng thương cho chính mình và lòng vẫn canh cánh “mang nặng lời thề” kể cả khi chết đi rồi. Chính vì thế, Thúy Kiều tha thiết dặn em:
“Dạ đài cách mặt khuất lời
Rưới xin giọt nước cho người thác oan”
“Dạ đài” là nơi âm phủ tăm tối. Dù có “cách mặt khuất lời” thì Vân hãy cứ rưới chén nước “thác oan” cho Kiều. Từ “thác oan” cho thấy Kiều vẫn có nhiều tâm tư ấm ức, oan uổng nên sau khi chết hồn oan không tan, không được siêu thoát.
“Bây giờ trâm gãy gương tan
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân!”
Trong câu thơ trên, việc Nguyễn Du đã sử dụng hình ảnh ước lệ “trâm gãy gương tan”. “Trâm” và “gương” vốn tượng trưng cho những hình ảnh đẹp đẽ về dung mạo của người con gái. Giờ đây, trâm đã gãy, gương đã tan chính là tuổi xuân tươi đẹp bị hủy hoại. “Muôn vàn ái ân” thể hiện rằng thứ tình cảm này không thể cân đo đong đếm được. Câu thơ một lần nữa cho thấy sự trân trọng, nâng niu dành của Kiều đối với mối tình đầu. Từ thời gian tâm trạng về thực tại, từ đối diện với chính mình, Thuý Kiều chuyển sang đối thoại với Kim Trọng:
“Trăm nghìn gửi lạy tình quân
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!”
Tác giả đã dùng số từ “Trăm nghìn” để ước lệ về sự lớn lao, vô hạn trong sự đối lập với “ngần ấy thôi” thể hiện sự nhỏ bé, khiêm nhường. Kiều gửi cái “lạy” tạ lỗi đến chàng Kim, nhận lỗi về mình đã lỡ để cho “tơ duyên ngắn ngủi”. Lời thơ đã diễn tả bi kịch, nỗi đau đớn quằn quại của Thuý Kiều và khát vọng tình yêu mãnh liệt không thôi.
Nỗi đau cứ dâng lên không ngừng, Kiều đã rút hết nỗi lòng mà khóc nức nở cho thân phận của mình:
“Phận sao phận bạc như với
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng”
Phận nàng “bạc như vôi”, tài sắc vẹn toàn nhưng số phận lênh đênh, chìm nổi. Thành ngữ “nước chảy hoa trôi” cho thấy sự chấp nhận đầy cam chịu của Kiều, nàng đã tự ý thức được số phận đầy bất hạnh của mình, nàng không thể kháng cự lại mà đành tự thương xót cho chính mình. Chính cái sắc, cái tài đã làm khổ nàng, để cung đàn “Bạc mệnh” đeo đuổi suốt đời người con gái.
“Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”
Các từ cảm thán “Ôi”, “Hỡi’ đã nhấn mạnh nàng gọi tên Kim Trọng hai lần trong sự chua xót, bẽ bàng. Mỗi một thanh âm mà Kiều thốt lên cũng là ngần ấy lần nàng quặn thắt tâm can. Đặc biệt, từ “phụ” đã nhấn mạnh nhân cách cao đẹp của Thúy Kiều. Dù là người mệnh bạc, bán mình chuộc cha để làm tròn chữ hiếu nhưng Kiều tự nhận mình là kẻ “phụ bạc”. Nhịp thơ 3/3 và 2/2/2 như tiếng nấc nghẹn ngào thể hiện sự đau đớn. Kiều quả thực là người con gái chân thành, sâu sắc và rất đỗi cao thượng trong tình yêu.
Nguyễn Du đã sử dụng nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật tài tình, kết hợp giữa ngôn ngữ bình dân và ngôn ngữ bác học, các hình ảnh giàu giá trị biểu cảm cùng các điển tích điển cố để xây dựng đoạn trích “Trao duyên”. Đoạn trích đã cho thấy tấm lòng nhân đạo cao cả của Nguyễn Du, thể hiện niềm cảm thông, trân trọng của ông đối với những số phận bất hạnh và lên án gay gắt xã hội đồng tiền tước đi hạnh phúc con người.
Trân trọng nàng Kiều, chúng ta càng trân trọng cái tài và cái tâm của Nguyễn Du. Tiếng lòng của Kiều chính là tiếng lòng của rất nhiều con người, cuộc đời nàng đã đi vào tâm thức muôn người Việt Nam:
“Nỗi đau anh trùng nỗi đau nhân loại
Mượn câu Kiều anh hóa thạch cuộc đời riêng”
(Chế Lan Viên).
Phân tích Trao duyên mẫu 2
Đại thi hào Nguyễn Du là một trong những cây bút sáng chói đóng góp cho dòng chảy văn học nước nhà những bước chuyển mình vàng son. Trong thời kì văn học trung đại, Nguyễn Du cùng với những tác giả khác như Hồ Xuân Hương, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm,... tạo thành những tượng đài thơ ca của văn học Việt Nam. Tác phẩm làm nên tên tuổi của Nguyễn Du là tập truyện viết bằng chữ Nôm "Đoạn trường tân thanh" hay còn gọi ngắn gọn bằng cái tên "Truyện Kiều". Đoạn trích "Trao duyên" là một trong những đoạn tiêu biểu trong tập truyện, thể hiện sự dằn vặt, nỗi lòng đau đớn của nàng Kiều khi buộc phải bán mình chuộc cha, đành nhờ cô em Thúy Vân trả nghĩa cho chàng Kim Trọng.
Truyện Kiều là một tác phẩm được coi như kiệt tác văn chương của nhân loại, được viết dưới dạng truyện kể bằng thơ, lấy cốt truyện của Thanh Tâm Tài Nhân người Trung Quốc. Tác phẩm của Thanh Tâm Tài Nhân không hề được biết đến cho tới khi Nguyễn Du khai thác cốt truyện bình thường ấy thành tiếng kêu ai oán đến xé lòng, một bản sầu ca não nề của người con gái hồng nhan bạc phận. Đoạn trích "Trao duyên" từ câu 723 đến câu 756 trong phần "Gia biến và lưu lạc", tái hiện lại cuộc trò chuyện của chị em Thúy Vân Thúy Kiều. Gia đình gặp hoạn nạn, Thúy Kiều đành bán mình chuộc cha, trong tình cảnh đó, biết mình không thể giữ trọn lời thề thủy chung với Kim Trọng, nàng Kiều đành phải trao lại tấm chân tình cho Thúy Vân, nhờ em làm tròn bổn phận, giữ trọn lời hứa của mình với người yêu.
Mở đầu câu chuyện bằng lời Thúy Kiều nhờ cậy của mình với em:
Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa
Ngay từ đầu, Nguyễn Du đã để cho Thúy Kiều ở vị trí phía dưới, trái ngược với cách xưng hô "chị, em". Từ "cậy" đặt ở đầu câu gợi tả tình thế tiến thoái lưỡng nan, chẳng còn cách nào khác, lại thật khó khăn để có thể nhờ vả. Vốn dĩ, Thúy Kiều xét theo vai vế là chị của Thúy Vân, sẽ không cần "thưa" hay "lạy", nhưng trong hoàn cảnh ấy, nàng chấp nhận đặt mình vào vị trí của người đi nhờ vả, van xin, chỉ với mục đích giữ trọn lời hứa của mình với chàng Kim Trọng. Từ "em" được nhắc lại hai lần, đi kèm các động từ mạnh "lạy", "thưa" "cậy" mở ra một nỗi lòng chua xót, báo hiệu tương lai mịt mù, tăm tối, phải nhờ vả, dựa dẫm, mưu cầu lòng thương của người khác. Thúy Vân trở thành bề trên, "ngồi lên" để chị lạy, thưa đã một lần nữa nhấn mạnh kiếp người trôi nổi, bấp bênh, lỡ làng duyên phận của nàng Kiều. Kiều tha thiết van lơi em, đồng thời đặt lên vai em sức nặng của sự tin tưởng, trông cậy. Trong hoàn cảnh ngặt nghèo đó, tình chị em được mang ra để bấu víu, Vân trở thành niềm hi vọng cuối cùng của Kiều khi nàng buộc phải rời xa gia đình, thất hẹn với người yêu.
Thúy Kiều bắt đầu bày tỏ nỗi lòng mình với em gái bằng những lời chua xót, đau đớn:
Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em
Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề
Sự đâu sóng gió bất kì
Hiểu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai.
Đến đây, người đọc bỗng hiểu ra cái nhờ cậy ban đầu của Thúy Kiều thực ra là một lời phó thác, buộc Thúy Vân phải chấp nhận. Với thân phận là chị gái, chị cả trong nhà, Kiều cảm thấy mình phải có trách nhiệm giúp đỡ gia đình qua cơn hoạn nạn. Nàng chấp nhận bán mình chuộc cha, vì chữ hiếu quên thân, chấp nhận lỡ duyên với người thương chứ không thể phụ lòng cha mẹ. Người con gái "đứt gánh tương tư" ấy chẳng nỡ làm Kim Trọng đau lòng, đứng trước chữ tình và chữ hiếu, nàng chỉ còn cách mong em gái Thúy Vân có thể giúp mình tiếp tục mối duyên đứt quãng. Hai tiếng "mặc em" giống như một sự phó thác trách nhiệm bằng tấm lòng tha thiết, âu sầu. Kiều thủ thỉ tâm sự với Vân về mối tình nồng thắm của minh với chàng Kim:
Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước, khi đêm chén thề
Sự đâu sóng gió bất kì
Hiểu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai.
Câu thơ thể hiện sự đau khổ của Thúy Kiều khi nhớ lại những kỉ niệm mùi mẫn còn dang dở giữa mình và Kim Trọng. Đối với nàng, mối tình với Kim Trọng là những kỉ niệm lứa đôi đẹp nhất, nhưng đối với Thúy Vân, đó là trách nhiệm, là nghĩa vụ. Vì thế, Kiều không muốn em phải bận lòng, băn khoăn, nàng chọn cách tâm tình với em từ những kỉ niệm của mình để em gái cảm thấy gần gũi, cảm thông. Từ buổi gặp gỡ đến hôm thề nguyện đính ước. hình ảnh "quạt ước", "chén thề", nàng muốn khẳng định tình cảm giữa hai người là tình cảm thật lòng, sâu sắc. Trao duyên cho em mà lòng đau như cắt, vì bản thân nàng đâu hề muốn phải sinh ra nông nỗi ấy. Cùng với sự tiếc nuối, Kiều chỉ biết trải lòng về những khó khăn bất chợt ập đến gia đình, buộc nàng vào tình thế bất đắc dĩ. "Hiểu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai", một câu nói vừa tự nhủ lòng mình, vừa là cái cớ của Kiều khi trao duyên cho Thúy Vân. Bản thân Kiều không hề muốn hai chị em phải đối mặt với nhau trong tình thế khó xử, nhưng chị đã vì cha mẹ bán mình, thì em cũng nên vì chị mà giúp chị nối tiếp tơ duyên. Người đọc dường như còn cảm thấy một khao khát nhỏ nhoi trong lòng Thúy Kiều, khao khát sống trọn vẹn, tình nghĩa, nhưng trớ trêu thay, cuộc đời bất hạnh lại không cho phép nàng thực hiện ước muốn nhỏ nhoi ấy.
Không những thế, Kiều còn thể hiện sự khéo léo, tinh tế khi lựa lời đề cập đến hoàn cảnh của Vân để cất lời nhờ em:
Ngày xuân em hãy còn dài
Xót tình máu mủ thay lời nước non
Chị dù thịt nát xương tan
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây
Xét về tình, Thúy Kiều và Thúy Vân là hai chị em đều đang độ tuổi cập kê, Kiều đã lấy cái cớ đó để nhờ cậy em nối tiếp mối duyên với Kim Trọng. Xét về lý, tình ruột rà máu mủ cũng là một lý do hợp lý để Thúy Vân có trách nhiệm thực hiện những mong muốn dở dang của chị. Đồng thời, nàng Kiều cũng thể hiện sự chua xót, đắng cay khi nhắc đến cái chết "Chị dù thịt nát xương tan / Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây". Dường như khi chọn con đường bán mình chuộc cha, Kiều đã xác định về tương lai mịt mờ, dự cảm không lành về số phận nghiệt ngã. Nếu không có những chuyện tai bay vạ gió, không có những uẩn khúc gia đình thì có lẽ giờ đây, Kiều đã được hạnh phúc với tình yêu của mình. Lời nói không chỉ thể hiện cái đớn đau khi phải chia lìa gia đình mà còn chứa đựng cả những tủi thân, buồn rầu khi không được ở bên người thương. Trong hoàn cảnh ấy, nàng chỉ biết nhờ đến em, để sau này khi "thịt nát xương tan", nàng vẫn có thể ngậm cười nơi chín suối, nhìn em mình và người yêu được hạnh phúc vẹn toàn, được thực hiện trọn vẹn lời hứa với Kim Trọng. Trao đi mối duyên mà nàng hằng khao khát, nâng niu là điều đau đớn đến tột cùng, nhưng Kiều đã chấp nhận chọn chữ hiếu để cứu cha, chỉ một lòng mong em hãy đồng ý giúp nàng nối tiếp mối duyên tình để không phụ lòng Kim Trọng.
Trao cho em những vật đính ước, Kiều thủ thỉ tâm tình với em những lời chân thành nhất:
Chiếc vành với bức tờ mây
Duyên này thì giữ, vật này của chung.
Dù em nên vợ nên chồng
Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên.
Mất người còn chút của tin,
Phím đàn với mảnh hương nguyền ngày xưa.
Chiếc vành, bức tờ mây, phím đàn, mảnh hương nguyền, những kỉ vật của mối tình đầu thanh thuần, ngây thơ. Nhìn những kỉ vật ấy, lòng người con gái sao tránh khỏi bồi hồi, nhớ nhung. Trong hoàn cảnh ấy, khi Kim Trọng đang ở xa, không hề hay biết tin tức gì, bản thân chuẩn bị một cuộc đời lưu lạc, chẳng rõ tương lai đi đâu về đâu, sự xót xa, đau đớn lại dâng đến tận cùng. Những kỉ vật ấy thật khó lòng buông bỏ, vì thế mà câu "Duyên này thì giữ, vật này của chung" có phần lạ kì, ngập ngừng. Duyên đã trao đi rồi nhưng hiện vật thì chẳng nỡ lòng nào chối bỏ, nên Kiều vẫn muốn giữ đó làm "của chung", của cả hai chị em. Câu nói có một chút con gái, một chút ích kỉ nhưng cũng dễ hiểu thôi, chẳng cô gái nào muốn san sẻ tình yêu của mình với ai khác. "Dù em nên vợ nên chồng / Xót người mệnh bạc ắt lòng chẳng quên", một câu dặn dò của Thúy Kiều với em gái, rằng dù em thay chị kết duyên cùng Kim Trọng, nhưng bản thân chị là người yêu của chàng, chỉ mong đến ngày hạnh phúc, em đừng quên tấm lòng chị, số phận bạc bẽo đưa đẩy chị đến đường cùng chứ thật tâm chẳng hề muốn rời xa. Có người cho rằng, Kiều là một cô gái ích kỉ, nhỏ nhen, rành rành thân phận nhờ vả mà còn đòi hỏi, yêu cầu. Nhưng nhìn về mặt tình cảm, sự ngập ngừng, không rõ ràng từ Kiều cũng chỉ bắt nguồn từ tình yêu chân thành, từ tấm lòng người con gái lần đầu biết yêu mà lại buộc phải chia lìa. Chỉ còn vài kỉ vật làm của tin, làm hiện vật chứng minh tình cảm, chẳng ai cam tâm trao cho người khác, kể cả đó là ruột thịt, máu mủ.
Trao lại kỉ vật cho em nhưng tâm hồn Kiều vẫn không thể nguôi ngoai, thật tâm vẫn chưa hề quên đi Kim Trọng:
Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy, so tơ phím này,
Trông ra ngọn cỏ lá cây
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.
Hồn còn mang nặng lời thề
Nát thân bồ liễu, đền nghì trúc mai.
Dạ đài cách mặt khuất lời
Rưới xin chén nước cho người thác oan.
Lời nói mang một sự đau lòng não nề, Kiều tự coi mình là kẻ đoản mệnh, những câu từ thể hiện Kiều đã ở một thế giới khác, không thể trở về với cuộc sống bình thường, không được đoàn tụ với gia đình. Sống trong một xã hội bất công, nơi con người sẵn sàng hãm hại nhau vì đồng tiền, Kiều không dám nghĩ đến việc mưu cầu cho hạnh phúc cá nhân mà chỉ dám mong được chứng kiến hạnh phúc của em gái và người yêu. Sự bế tắc và khổ đau trong lòng nàng chất chứa trong từng câu nói. "Lò hương, ngọn cỏ lá cây, hiu hiu gió, hồn, nát thân, cách mặt khuất lời, người thác oan", hàng loạt những từ mang âm hưởng cô tịch, chết chóc như một vết cứa vào lòng người đọc. Người con gái tuổi mới mười tám đã nghĩ đến cái chết bi kịch, cái chết oan khuất, bế tắc. Nhưng bản thân người con gái ấy lại chỉ mong mỏi được thanh thản, có thể giũ bỏ hết tình duyên dương thế. Đau xót thay cho một số phận tài sắc vẹn toàn nhưng sớm rơi vào lam lũ, bi kịch, chấp nhận bán mình chuộc cha nhưng vẫn nghĩ đến nghĩa tình, thề hẹn.
Tâm sự với em, Thúy Kiều cũng không quên gửi lời tới Kim Trọng với những dòng tâm trạng tha thiết:
Bây giờ trâm gãy gương tan,
Kể làm sao xiết muôn vàn ái ân.
Trăm nghìn gửi lạy tình quân
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!
Phận sao phận bạc như vôi
Đã đành nước chảy, hoa trôi lỡ làng
Ơi Kim lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây.
Tâm sự với Kim Trọng nhưng thực chất, Kiều chỉ được độc thoại với chính mình, vì người nàng yêu đang ở phương xa, đâu hay biết gì tình thế của nàng hiện tại. Nàng ý thức được số phận bạc bẽo bằng những điển cố "gương gãy", "trâm tan", những hình ảnh gợi sự chia lìa đôi lứa. Xét đến cùng, mục đích của cuộc trao duyên này là do mối tình nặng nghĩa với Kim Trọng chưa thể kết thúc, nên trong những lời cuối gửi đến chàng, Kiều luôn muốn nhắc lại những hoài niệm tươi đẹp của hai người trước khi buộc phải tự mình cắt đứt mối duyên chẳng được bao lâu. "Muôn vàn ái ân" nay đã trở thành quá khứ, sự thật giờ chỉ còn "tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi!".Cùng với nỗi tiếc nuối về tình yêu, Kiều còn khóc thương cho số phận của mình. Phận nữ nhi chân yếu tay mềm trong xã hội xưa đã bị rẻ rúng, giờ đây lại còn "bạc như vôi", "nước chảy, hoa trôi lỡ làng", sự bất lực, phó mặc số phận vì không có tiếng nói, không có quyền tự quyết định . Tiếng gọi xé lòng " Hỡi Kim Lang!" thay cho một lời than, tiếng khóc tức tưởi. Cách gọi "lang" là cách gọi chồng trong xã hội xưa, cho thấy tình cảm của Thúy Kiều vô cùng chân thành, thủy chung, dù có bất kì hoàn cảnh nào thì lời thề duyên lứa của nàng đêm ấy vẫn vẹn nguyên. Có thể, người đọc cảm thấy một chút phi lý trong câu nói của Kiều, rằng tại sao đã trao duyên với em rồi nhưng vẫn gọi Kim Trọng là "lang", là chồng, Phải chăng, trong dòng hồi tưởng về những giây phút ở cạnh nhau, Thúy Kiều được tạm quên đi những đớn đau nàng phải đối mặt, nhưng cảm giác tội lỗi của mình với chàng Kim, chỉ còn nàng với chàng, hai người yêu nhau say đắm, là vợ chồng. Câu gọi bật ra vừa để thể hiện ước nguyện được hạnh phúc của Thúy Kiều, vừa thể hiện tấm lòng nặng tình nặng nghĩa của nàng, một nét đẹp tâm hồn của người phụ nữ trong xã hội xưa.
Đoạn trích "Trao duyên" đã khái quát một cách sâu sắc nhất những cung bậc cảm xúc của Thúy Kiều khi buộc phải rời xa người yêu, đành trao duyên lại nhờ cậy em gái tiếp tục lời hứa với Kim Trọng. Một người phụ nữ yêu hết mình, thủy chung da diết, lại khéo léo, sắc sảo nhưng bạc mệnh, long đong. Bằng bút pháp nghệ thuật khai thác tâm lý nhân vật, để nhân vật tự bộc lộ cảm xúc qua hành động, cử chỉ, tác giả đã truyền đạt tới người đọc niềm thương xót cho bi kịch tình yêu tan vỡ của nàng Kiều. Tâm trạng nhân vật được đặc tả qua những chi tiết đắt giá, thể thơ lục bát uyển chuyển, mềm mại cùng những từ ngữ mạnh, gợi sự xót xa đã làm rung động trái tim bạn đọc với những nỗi niềm của nhân vật.
Qua "Trao duyên", Nguyễn Du cũng gửi gắm sự tôn trọng, nâng niu những con người đẹp, biết trọng chữ hiếu, vẹn chữ tình, đồng thời lên án xã hội bất công, bạc bẽo đã đẩy con người vào cửa ải chia lìa, chia cắt hạnh phúc lứa đôi của những người xứng đáng được hưởng hạnh phúc.