Phân tích truyện thơ Nôm "Nỗi niềm tương tư" - Vũ Quốc Trân
Phân tích "Nỗi niềm tương tư" - Vũ Quốc Trân
- I. Dàn ý Phân tích Nỗi niềm tương tư
- II. Văn mẫu Phân tích Nỗi niềm tương tư
- 1. Phân tích Nỗi niềm tương tư mẫu 1
- 2. Phân tích Nỗi niềm tương tư mẫu 2
- 3. Phân tích Nỗi niềm tương tư mẫu 3
- 4. Phân tích Nỗi niềm tương tư mẫu 4
- 5. Phân tích Nỗi niềm tương tư mẫu 5
- 6. Phân tích Nỗi niềm tương tư mẫu 6
- 7. Phân tích Nỗi niềm tương tư mẫu 7
- 8. Phân tích Nỗi niềm tương tư mẫu 8
- 9. Phân tích Nỗi niềm tương tư mẫu 9
- 10. Phân tích Nỗi niềm tương tư mẫu 10
Bài Phân tích "Nỗi niềm tương tư" - Trần Quốc Trân là tài liệu học tập gồm dàn ý chi tiết và văn mẫu hay, mới nhất do Vndoc biên soạn nhằm giúp các bạn học sinh học tập thật tốt môn Ngữ văn lớp 11. Mời các bạn tham khảo!
I. Dàn ý Phân tích Nỗi niềm tương tư
A. Mở bài: Dẫn dắt và giới thiệu tác phẩm.
B. Thân bài:
1. Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm:
- Tác giả Vũ Quốc Trân (chưa rõ năm sinh, năm mất):
+ Quê quán: Hải Dương
+ Sinh sống tại Hà Nội từ giữa thế kỉ XIX
- Đoạn trích “Nỗi niềm tương tư”:
+ Trích trong truyện thơ Nôm “Bích Câu kì ngộ”, gồm 678 câu.
+ Nội dung chính: Nỗi nhớ của Tú Uyên sau khi gặp Giáng Kiều.
2. Phân tích tác phẩm:
a. Nỗi nhớ trong tâm hồn:
- “ngơ ngẩn ra về”: Tú Uyên vừa đi về vừa nhớ nhung cô gái.
- “Đèn thông khêu cạn, giấc hòe chưa nên”: đèn dầu cạn nhưng không buồn thắp, nhớ đến không ngủ được.
- “Nỗi nàng canh cánh nào quên/Vẫn còn quanh quẩn người tiên khéo là!”:
+ Từ láy “canh cánh, quanh quẩn” giàu sức gợi.
+ Nỗi nhớ thường trực bên cạnh con người.
- “Bướm kia vương lấy sầu hoa/Đoạn tương tư ấy nghĩ mà buồn tênh”:
+ Cảnh vật cũng buồn, nhớ như tâm trạng con người.
+ Hình ảnh bướm, hoa ước lệ tượng trưng.
b. Nỗi nhớ được thể hiện trong hành động:
- Điệp ngữ “Có khi”: vòng thời gian tuần hoàn, con người quẩn quanh với nỗi nhớ.
- “Có khi gảy khúc đàn tranh…Văn Quân lòng nào”:
+ Gảy đàn để quên đi nỗi nhớ nhưng lại càng nhớ hơn.
+ Nhắc đến điển tích Tương Như - Văn Quân để thể hiện nỗi nhớ tha thiết.
- “Có khi chuốc chén rượu đào…lại gây giọng tình”:
+ Uống rượu để khuây khỏa và giãi bày tình cảm bằng chén rượu đầy.
+ Nỗi nhớ như biến thành hương dâng lên, càng uống rượu lại càng nhớ nhung hơn.
- “Có khi ngồi suốt năm canh…sông Tương khôn hàn”:
+ “năm canh”: khoảng thời gian dài.
+ Tú Uyên ngồi nhớ Giáng Kiều lâu đến mức tiếng mõ, tiếng chuông vang lên mà không để ý.
+ “Lửa tình dễ đốt: tình cảm dễ nảy sinh.
+ Điển tích sông Tương diễn tả tình yêu mãnh liệt, không thể thay đổi.
- Có đêm ngắm bóng trắng tàn…trận nhàn bay khuya”:
+ “bóng trăng tàn: Sự cô đơn, lẻ loi.
+ Cặp từ đối lập “sớm” - “khuya”: Nỗi nhớ lặp đi lặp lại.
c. Nỗi nhớ khi đối diện với chính mình:
- “Ngổn ngang cảnh nọ tình kia…dã đề với ai!: Không biết chia sẻ cùng ai.
- “Vui xuân chung cảnh một trời...một người tương tư”: Lời trách cứ, than vãn khi ôm tương tư một mình.
3. Tổng kết nội dung, nghệ thuật:
- Nội dung: Đoạn thơ đã diễn tả nỗi nhớ nhiều cung bậc, khát khao hạnh phúc lứa đôi, niềm hy vọng vào tình yêu của chàng thư sinh Tú Uyên sau khi gặp Giáng Kiều.
- Nghệ thuật:
+ Thể thơ lục bát truyền thống.
+ Hệ thống các từ láy
+ Các điển tích điển cố.
+ Hình ảnh thiên nhiên ước lệ tượng trưng.
C. Kết bài
II. Văn mẫu Phân tích Nỗi niềm tương tư
1. Phân tích Nỗi niềm tương tư mẫu 1
Truyện thơ Nôm đóng một vai trò quan trọng trong nền văn học Việt Nam, thể hiện tinh hoa của ngôn ngữ dân tộc. Bên cạnh những tác phẩm như “Truyện Kiều” (Nguyễn Du), “Truyện Lục Vân Tiên” (Nguyễn Đình Chiểu) thì “Bích Câu kì ngộ” cũng là một tác phẩm truyện thơ Nôm đặc sắc, kể về mối tình giữa chàng Tú Uyên và tiên nữ Giáng Kiều. Đoạn trích “Nỗi niềm tương tư” cho thấy tâm trạng của Tú Uyên sau khi gặp được tiên nữ ở hội chùa Ngọc Hồ.
Khác với một số truyện thơ Nôm lấy chủ đề/bối cảnh Trung Hoa, “Bích Câu kì ngộ” là một truyện thơ Nôm thuần Việt. Cái tên “Bích Câu” trong nhan đề chính là một địa chỉ văn hóa nổi tiếng ở kinh thành Thăng Long xưa. Nơi đây thường được các vua chúa ghé thăm, tập trung nhiều văn nhân sĩ tử. Đọc tác phẩm, ta có thể bắt gặp những câu thơ miêu tả thành Thăng Long đẹp như thơ như họa:
“Xanh xanh dãy liễu, ngàn thông
Cỏ đan lối mục, rêu phong dấu tiều
Một vùng non nước đìu hiu
Phất phơ gió trúc, dặt dìu mưa hoa
Triều Lê đương hội thái hòa
Có Trần công tử tên là Tú Uyên”
Khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp bao giờ cũng là phông nền hoàn hảo để các nhân vật xuất hiện. Chàng Tú Uyên thực chất là một thư sinh nghèo, mồ côi cha mẹ từ nhỏ. Nhờ siêng năng đèn sách mà chàng cũng trở thành một văn nhân có tiếng ở Bích Câu. Khi đi chơi hội xuân ở chùa Ngọc Hồ, chàng gặp được người thiếu nữ đẹp tuyệt trần nhưng chưa kịp ngỏ lời làm quen thì cô gái đã biến mất. Từ đó, Tú Uyên đem lòng tương tư người đẹp. Đây là khởi nguồn cho mối tình đẹp giữa Tú Uyên - Giáng Kiều về sau.
“Lần trăng ngơ ngẩn ra về
Đèn thông khêu cạn, giấc hòe chưa nên
Nỗi nàng canh cánh nào quên
Vẫn còn quanh quẩn người tiên khéo là!”
Câu thơ đầu của đoạn trích miêu tả cảnh tượng Tú Uyên ra về khỏi hội chùa. Ánh trăng sáng chiếu rọi từng bước chân chàng thư sinh si tình. Cách nói “ngơ ngẩn ra về” cho thấy Tú Uyên vừa bước đi vừa không ngừng nhớ nhung cô gái. Chàng choáng ngợp bởi vẻ kiều diễm của nàng đến mức như thẫn thờ như một kẻ mất hồn. Ca dao dân gian xưa cũng từng dùng từ “ngơ ngẩn” để diễn tả nỗi nhớ người yêu:
“Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ,
Nhớ ai ai nhớ, bây giờ nhớ ai?”
Nỗi nhớ người yêu, người tình trong mộng bao giờ cũng là nỗi nhớ da diết, cháy bỏng nhất. Có biết bao tác phẩm văn học từ văn học dân gian đến văn học viết đã diễn tả nỗi nhớ ấy nhưng nỗi nhớ của chàng Tú Uyên vẫn mang màu sắc riêng ấn tượng. Sự nhớ nhung ấy không chỉ theo bước chàng trên đường về mà còn trở thành một nỗi ám ảnh trong tâm trí, ảnh hưởng đến những sinh hoạt thường ngày của chàng. Nếu “Truyện Kiều” có chàng Kim Trọng “Bút se ngọn thỏ, tơ trùng phím loan” thì “Bích Câu kì ngộ” cũng có một Tú Uyên “Đèn thông khêu cạn, giấc hòe chưa nên”. Tú Uyên si mê Giáng Kiều đến mức đèn dầu đã cạn mà không buồn thắp lên, trằn trọc đêm khuya không thể ngủ. Hai từ láy “canh cánh” và “quanh quẩn” gợi liên tưởng nỗi nhớ bao trùm khắp không gian, lúc nào cũng thường trực bên cạnh con người. Nỗi nhớ bỗng trở thành một vật hữu hình, khiến cõi lòng Tú Uyên nặng trĩu. Từ chỗ không thể yên giấc, Tú Uyên còn tưởng tượng ra dường như Giáng Kiều vẫn đang quanh quẩn đâu đây. Hình bóng nàng tiên vừa gần vừa xa, biết khi nào mới được gặp lại?
Câu thơ “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ” của đại thi hào Nguyễn Du rất thích hợp trong hoàn cảnh của Tú Uyên. Nỗi nhớ được đẩy lên một mức độ cao hơn khi Tú Uyên nhìn đâu cũng thấy mênh mang nỗi nhớ:
“Bướm kia vương lấy sầu hoa
Đoạn tương tư ấy nghĩ mà buồn tênh”
Cánh bướm lượn, bông hoa thắm trong vườn sao mà buồn bã, u sầu đến thế? Cảnh vật nhuốm màu tâm trạng. Những hình ảnh hoa, bướm giàu tính ước lệ tượng trưng diễn tả một tình yêu, nỗi nhớ vừa đẹp đẽ, xốn xang lại vừa man mác buồn. Từ “buồn tênh” bộc lộ một cách trực tiếp tâm trạng của Tú Uyên, cho thấy sự trào dâng của niềm nhớ thương.
Dường như ý thức được sự xâm chiếm của nỗi nhớ trong tâm hồn, Tú Uyên bèn tìm đến những hoạt động khác để xua tan nỗi nhớ. Điệp từ có được lặp lại bốn lần, tạo hành điệp khúc nhớ nhung dâng lên tầng tầng lớp lớp, đồng thời diễn tả sự cố gắng, loay hoay của Tú Uyên khi đối diện với nỗi nhớ:
“Có khi gảy khúc đàn tranh
Nước non ngao ngán ra tình hoài nhân
Cầu hoàng tay lựa nên vần
Tương Như lòng ấy, Văn Quân lòng nào”
Chàng gửi gắm nỗi lòng mình vào tiếng đàn tranh tha thiết, mong ước nàng sẽ nghe thấy tiếng đàn mà hiểu được tấm chân tình. Thế nhưng, nghịch lí thay, càng chơi đàn thì Tú Uyên lại càng thấy nhung nhớ. Từ láy “ngao ngán” thể hiện rõ tâm trạng chán chường, ủ ê khi không có người đẹp kề bên. Tác giả sử dụng điển tích điển cố về khúc đàn cầu hôn của Tương Như - Văn Quân để diễn tả chân thực, sâu sắc tình cảm của Tú Uyên dành cho Giáng Kiều. Dù chỉ mới gặp nàng thoáng chốc nhưng tình yêu dành cho nàng có thể sánh với tình yêu đi vào sử sách thời Hán. Tiếng đàn của ta cũng giống như tiếng đàn Tương Như gảy thời xưa, liệu nàng có thấu tỏ lòng này như nàng Văn Quân đã làm?
Hết gảy đàn, Tú Uyên lại tìm đến men rượu cho khuây khỏa:
“Có khi chuốc chén rượu đào
Tiệc mời chưa cạn, ngọc giao đã đầy
Hơi men không nhấp mà say
Như xông mùi nhớ, lại gây giọng tình”
Động từ “chuốc” cho thấy Tú Uyên không chỉ nhấp môi một, hai chén rượu mà đã uống rất nhiều. Bữa tiệc chưa tàn mà chén rượu kết giao đã đầy. Tú Uyên muốn uống chén rượu kết giao với Giáng Kiều. Hóa ra chàng thư sinh không say rượu mà là say tình, say đắm người con gái đẹp. Câu thơ “Hơi men không nhấp mà say/Như xông mùi nhớ, lại gây giọng tình” đã biểu lộ một cách thật độc đáo niềm tương tư này. Nỗi nhớ da diết, đằm sâu, biến thành hương dâng lên ngào ngạt. Càng uống rượu chàng lại càng nhớ nhung hơn. Là chàng nghe thấy trong hơi men có cả tiếng của nàng hay chàng muốn mượn rượu để ngỏ lời tỏ tình với nàng? Dù ta hiểu theo nghĩa nào thì nỗi nhớ trong câu thơ vẫn thật nồng nàn!
“Có khi ngồi suốt năm canh
Mõ quyên điểm nguyệt, chuông kình nện sương
Lặng nghe những tiếng đoạn trường
Lửa tình dễ đốt, sông Tương khôn hàn”
Nỗi nhớ mới xuất hiện gần đây mà đã khiến toàn bộ không gian, thời gian của chàng. “năm canh” là khoảng thời gian dài đằng đẵng, Tú Uyên đã ngồi ngóng đợi tình yêu của mình lâu đến mức tiếng mõ quyên đã điểm, chuông kình đã vang lên mà chẳng hay. Trong khung cảnh ấy, chàng bỗng nghe thấy “những tiếng đoạn trường”. “tiếng đoạn trường” ở đây chính là tiếng khóc của ai đó vang lên thê thiết, tưởng như đau đến đứt từng khúc ruột. Tú Uyên nghe âm thanh ấy mà nhớ đến điển tích sông Thương. Khi Vua Thuần mất, hai người vợ Nga Hoàn và Nữ Anh cùng khóc thảm thiết trên sông Tương. Người xưa còn lấy sông Tương để đo lòng nỗi nhớ:
“Sông Tương ai gọi rằng sâu
Chẳng bằng phân nửa mạch sầu của ta
Sông Tương sâu hãy còn có đáy
Bệnh tương tư không bãi không bờ
Đầu sông chàng đợi chàng chờ
Nào hay thiếp đợi hững hờ cuối sông”
Có thể thấy, không chỉ những người phụ nữ mà cả nam nhân cũng bị nỗi nhớ dày vò. Tú Uyên đã lấy hình ảnh sông Tương - một biểu tượng của nước mắt, nỗi nhớ, sự chia ly, chờ đợi để diễn đạt tình cảm của mình dành cho Giáng Kiều. Căn bệnh tương tư chẳng chừa một ai chính là như thế! Ngọn lửa tình “dễ đốt” nhưng khi bùng lên mạnh mẽ thì khó lòng dập tắt!
“Có đêm ngắm bóng trăn tàn
Tiếng chim hót sớm, trận nhàn bay khuya”
Tú Uyên ngồi ngắm trăng, hy vọng tìm được chút tin tức của Giáng Kiều trong nỗi nhớ bủa vây, giam hãm. Trăng của chàng không phải là “Vầng trăng vằng vặc giữa trời” của lời thề nguyền chung thủy, biểu tượng cho hạnh phúc lứa đôi tròn đầy mà là “bóng trăng tàn” đơn chiếc, lẻ loi. Điệp ngữ “Có khi” kết hợp với cặp từ đối lập “sớm” - “khuya”gợi khoảng thời gian tuần hoàn, đóng kín và tâm trạng bí bách, tù túng của con người.
Cuối cùng, sau khi đã hướng ra bên ngoài cảnh vật, Tú Uyên quay trở lại đối diện với chính mình:
“Ngổn ngang cảnh nọ tình kia
Nỗi riêng, riêng biết, dã đề với ai!
Vui xuân chung cảnh một trời
Sầu xuân riêng nặng một người tương tư”
“Ngổn ngang” tức là tâm trạng bẽ bàng, buồn bã vì nhìn đâu cũng thấy nhớ thương. Nhớ nhung, yêu thương là thế nhưng hiện thực lại là “Nỗi riêng, riêng biết, dã đề với ai!”. Vì không có người để giãi bày nên nỗi nhớ thành một khối đóng lại trong tâm hồn Tú Uyên. Chàng hồi tưởng lại khung cảnh vui xuân và thấm thía tình cảnh cô đơn, sầu bi hiện tại. Câu thơ cuối vừa thể hiện tình cảm cháy bỏng vừa hư lời trách móc yêu. Cùng chung niềm vui nô nức ngày hội xuân, cớ sao giờ đây chỉ một người ôm tương tư?
Như vậy, đoạn thơ đã diễn tả nỗi nhớ đa tầng, nhiều cung bậc của chàng thư sinh Tú Uyên sau khi gặp Giáng Kiều. Nỗi nhớ ấy là biểu hiện cho khát khao hạnh phúc lứa đôi. niềm hy vọng vào tình yêu mãnh liệt. Để diễn tả chân thực, tinh tế cảm xúc thiêng liêng ấy, tác giả đã sử dụng thể thơ lục bát truyền thống của dân tộc, hệ thống các từ láy giàu tính biểu đạt, các điển tích điển cố, những hình ảnh thiên nhiên ước lệ tượng trưng.
Viết về tình yêu, nỗi nhớ giữa những các văn nhân tài tử với những bậc quốc sắc thiên hương không phải là điều hiếm trong văn học trung đại nhưng “Nỗi niềm tương tư” vẫn mang màu sắc riêng độc đáo. Quả thực, “Mối tình Tú Uyên - Giáng kiều tuy diễm tình nhưng trong sáng lại đậm tình nghĩa gia đình. Truyện tiên mà lại thực, góp phần giáo dục và làm tươi mát tâm hồn niên thiếu.”
2. Phân tích Nỗi niềm tương tư mẫu 2
“Bích câu kì ngộ” là câu chuyện thơ Nôm nổi tiếng với thể thơ lục bát uyển chuyển, nói về chuyện tình yêu giữa chàng Tú Uyên và nàng tiên nữ Giáng Kiều. Trong đó nổi bật là đoạn trích “Nỗi niềm tương tư” kể về khởi nguồn thứ tình yêu đầy mộng mị đó, đoạn trích diễn tả tâm trạng tương tư của tú Uyên sau khi gặp được người đẹp ở chùa Ngọc Hồ.
Tú Uyên là một thư sinh nghèo, mồ côi cha mẹ từ nhỏ. Có dịp chàng đến chơi Bích Câu, thấy phong cảnh đẹp quá mà quyết định làm nhà ở đấy ngày đêm đèn sách học hành. Một hôm nhân dịp trời Xuân lay động, Tú Uyên đi chơi hội chùa Ngọc Hồ. Chàng nhặt được một chiếc “lá hồng” có đề câu thơ. Ngay lúc chàng định họa lại thì bỗng dưng xuất hiện một người thiếu nữ đẹp tuyệt trần trước cửa tam quan, chàng cứ thế mà đi theo bóng người thiếu nữ cho đến Quảng Văn thì không thấy tung tích thiếu nữ đó đâu nữa. Khi trở về nhà, chàng đem lòng thương nhớ, tương tư bất kể ngày lẫn đêm:
Lần trăng ngơ ngẩn ra về,
Đèn thông khêu cạn, giấc hòe chưa nên.
Nỗi nàng canh cánh nào quên,
Vẫn còn quanh quẩn người tiên khéo là!
Bướm kia vương lấy sầu hoa,
Đoạn tương tư ấy nghĩ mà buồn tênh!
Ta có thể thấy được nét si tình ở chàng Tú Uyên, chỉ vì một giây trông thấy, mà giường như chàng đã cả một đời nhớ thương. Chàng si mê nàng đến nỗi “ngơ ngẩn”, đến nỗi đèn thông cháy đã cạn mà chàng vẫn thao thức chưa ngủ được “giấc hòe chưa nên”. Chàng nghĩ về người con gái xinh đẹp đó phải chăng là tiên nữ, biết bao giờ mới được gặp lại. Nỗi nhớ người trong mộng không chỉ được thể hiện ở suy tư của chàng thư sinh mà còn được bộc lộ, thể hiện bằng cử chỉ:
Có khi gảy khúc đàn tranh,
Nước non ngao ngán ra tình hoài nhân.
Cầu hoàng tay lựa nên vần,
Tương Như lòng ấy, Văn Quân lòng nào!
Có khi chuốc chén rượu đào,
Tiệc mời chưa cạn, ngọc giao đã đầy.
Hơi men không nhấp mà say,
Như xông mùi nhớ, lại gây giọng tình.
Có khi ngồi suốt năm canh,
Mõ quyên điểm nguyệt, chuông kình nện sương.
Lặng nghe những tiếng đoạn trường,
Lửa tình dễ đốt, sông Tương khôn hàn.
Có đêm ngắm bóng trăn tàn,
Tiếng chiêm hót sớm, trận nhàn bay khuya.
Từ “có” lặp đi lặp lại 4 lần thể hiện những hành động của Tú Uyên khi không thể không nghĩ về người thiếu nữ đó. Chàng nhớ nàng chỉ nghĩ thôi chưa đủ, phải “gảy nên khúc đàn tranh” mong nàng nghe được tấm chân tình này, giống như cô gái Văn Quân khi nghe được tiếng đàn “Cầu hoàng” của Tương Như nên phải lòng đi theo. Phải mượn men say của “chén rượu đào” để thổ lộ tâm tư thầm kín hay chính là “mượn rượu để tỏ tình”. Tú uyên mong được uống với nàng chén “ngọc giao” để kết duyên đôi lứa. Lúc này chàng say nhưng lại không phải say rượu, cơn say này được ví như “mùi nhớ” hay chính là say ân tình với nàng tiên nữ. Chàng còn phải “ngồi suốt năm canh” để nghe những “tiếng đoạn trường”, vì không biết bao giờ mới có thể gặp được người thương nên chàng nhớ mong, đau đớn như đứt từng khúc ruột. Bởi vậy mới thấy tình cảm của Tú Uyên dành cho người thiếu nữ đó nhiều đến nỗi nào, chỉ cần một ánh mắt mà đã làm con người chàng đắm say như “lửa tình dễ đốt”. Đặc biệt, tác giả dựa vào tuyền thuyết hai người vợ Nga Hoàn và Nữ Anh cùng khóc thảm thiết trên sông Tương Giang khi Vua Thuần mất để dùng từ “sông Tương” ví với nước mắt, nước mắt ở đây là nước mắt của Tú Uyên khi để lạc mất người mình hằng mong nhớ, lạc mất đi cả cuộc đời. Chàng còn ngồi “ngắm bóng trăng tàn”, hy vọng về một chút tin tức của nàng.
Nỗi nhớ đó dù đã được bộc lộ nhưng vẫn “ngổn ngang” không ngơi:
Ngổn ngang cảnh nọ tình kia,
Nỗi riêng, riêng biết, dã đề với ai!
Vui xuân chung cảnh một trời,
Sầu xuân riêng nặng một người tương tư
Dù đã mượn “khúc đàn tranh”, mượn “chén rượu đào” nhưng tình nồng đâu biết “đã đề với ai? Dù cảnh Xuân có vui nhưng không gặp được nàng thì vơi Tú Uyên vẫn chỉ có một “Sầu xuân riêng nặng một người tương tư. Tình cảm của Tú Uyên dạt dào, mãnh liệt và thủy chung giống như Xuân Diệu đã từng viết trong bài thơ “Tình thứ nhất”:
“Thôi thôi nhé, hoa đã sầu dưới đất
Cười trên cành sao được nữa em ơi!
Anh chỉ có một tình yêu thứ nhất
Đem cho em là đã mất đi rồi!”
Với lời thơ kết hợp giữa tự sự và trữ tình, đoạn trích “Nỗi niềm tương tư” cho ta thấy được nỗi niềm tương tư và khát vọng tình yêu đôi lứa cháy bỏng của chàng thư sinh Tú Uyên. Có phải chăng một tình yêu cuồng nhiệt, hết lòng hết dạ là đáp số chung cho những ai đang chìm đắm trong mộng tình, có phải chăng từng lời thơ như muốn nói hộ tấm chân tình đó!
3. Phân tích Nỗi niềm tương tư mẫu 3
Nỗi niềm tương tư là một nhan đề biểu hiện tâm trạng sâu sắc của nhân vật chính, Tú Uyên. Cụm từ "nỗi niềm" cho thấy rằng Tú Uyên đang trải qua những tâm tư, tình cảm riêng tư sâu thẳm. Từ "tương tư" thể hiện rằng Tú Uyên đang trong trạng thái nhớ nhung, mong muốn được gặp mặt người mình yêu. Người trong tâm trạng tương tư thường gợi lên những kỷ niệm, nỗi buồn sâu lắng. Như nhà thơ Nguyễn Bính đã nói, "Tương tư là bệnh của trời". Bệnh tương tư thường âm thầm, khó nói ra với ai, và "thuốc" chữa "bệnh" tương tư là được gặp mặt người mình yêu.
Khi Tú Uyên rời khỏi hội chùa Ngọc Hồ để trở về, đoạn thơ truyền đạt rõ ràng sự si tình của anh ta, chỉ vì một lần nhìn thấy một người con gái xinh đẹp, anh ta đã rơi vào một cuộc tương tư suốt đời:
"Khi trăng lên ngơ ngẩn rời đi: chàng trai đắm chìm trong tình yêu đối tác đến mức mơ màng."
"Đèn thông đã tắt, giấc mộng chưa thành hiện thực: dùng biểu tượng của giấc mộng hòe (như câu chuyện về Thuần Vu Phần uống say rồi nằm ngủ dưới gốc cây hòe, sau đó mơ thấy mình trở thành một người giàu có, khi tỉnh giấc phát hiện đó chỉ là giấc mộng). Đèn đã tắt nhưng anh ta vẫn thức suốt đêm, lúc nghĩ về cô gái, anh ta cảm thấy mơ màng và ngỡ rằng cuộc gặp gỡ đó như một giấc mộng vẫn ám ảnh tâm trí anh ta. Chừng nào giấc mơ chưa thành hiện thực, anh ta vẫn chưa thể ngủ yên."
"Không thể quên đi nỗi niềm nhớ thương/ Vẫn còn mơ màng về người tiên nữ mới: tâm trí của chàng trai vào thời điểm này chỉ có hình bóng của cô gái, nỗi nhớ ấy vẫn quấn quanh và anh ta sợ rằng đó có thể là một tiên nữ mới khiến anh ta không thể yên tĩnh."
Những biện pháp ngôn ngữ như ẩn dụ, điển cố và điển tích đã làm cho đoạn thơ trở nên sống động hơn, mô tả rõ ràng nỗi nhớ thương cay đắng trong lòng chàng trai si tình.
Tú Uyên luôn mang theo nỗi buồn, sầu thương trong trái tim khi nhớ về Giáng Kiều, ngay cả nhìn những vật thể tự nhiên cũng mang đầy nỗi nhớ thương
4. Phân tích Nỗi niềm tương tư mẫu 4
"Bích câu kì ngộ" là một câu chuyện thơ Nôm nổi tiếng, được viết theo thể thơ lục bát uyển chuyển, kể về một câu chuyện tình yêu đầy mộng mị giữa chàng Tú Uyên và nàng tiên nữ Giáng Kiều. Trong câu chuyện này, đoạn trích "Nỗi niềm tương tư" đặc biệt nổi bật, mô tả về tâm trạng tương tư của Tú Uyên sau khi gặp gỡ người đẹp tại chùa Ngọc Hồ.
Tú Uyên là một thư sinh nghèo, mồ côi cha mẹ từ nhỏ. Một lần, chàng đến thăm Bích Câu và bị cuốn hút bởi vẻ đẹp tuyệt vời của nơi đó, vì vậy anh quyết định ở lại đó để học hành suốt ngày đêm. Một ngày, khi trời chuyển sang mùa Xuân, Tú Uyên đi tham gia hội chùa Ngọc Hồ. Anh tình cờ nhặt được một chiếc "lá hồng" có ghi câu thơ trên đó. Khi anh chuẩn bị ghi lại câu thơ, bất ngờ một người thiếu nữ đẹp tuyệt vời xuất hiện trước cửa tam quan. Tú Uyên theo sau người thiếu nữ đó cho đến nơi gọi là Quảng Văn, nhưng sau đó không thấy bóng dáng của cô nàng đó nữa. Khi trở về nhà, Tú Uyên nhớ thương và tương tư mãi không ngừng.
Lần trăng ngơ ngẩn ra về,
Đèn thông khêu cạn, giấc hòe chưa nên.
Nỗi nàng canh cánh nào quên,
Vẫn còn quanh quẩn người tiên khéo là!
Bướm kia vương lấy sầu hoa,
Đoạn tương tư ấy nghĩ mà buồn tênh!
Trong đoạn trích trên, ta có thể nhận thấy sự si tình của Tú Uyên. Chỉ với một lần nhìn, anh nhớ mãi và yêu sâu đậm. Tú Uyên si mê đến mức "ngơ ngẩn", thậm chí khi đèn đã cạn cháy, anh vẫn thao thức không thể ngủ được. Anh nghĩ về người phụ nữ đẹp đó có thể là một tiên nữ, và không biết khi nào mới có thể gặp lại cô ấy. Tình yêu trong mơ không chỉ hiện diện trong suy nghĩ của chàng thư sinh, mà còn được biểu đạt qua những cử chỉ:
Có khi gảy khúc đàn tranh,
Nước non ngao ngán ra tình hoài nhân.
Cầu hoàng tay lựa nên vần,
Tương Như lòng ấy, Văn Quân lòng nào!
Có khi chuốc chén rượu đào,
Tiệc mời chưa cạn, ngọc giao đã đầy.
Hơi men không nhấp mà say,
Như xông mùi nhớ, lại gây giọng tình.
Có khi ngồi suốt năm canh,
Mõ quyên điểm nguyệt, chuông kình nện sương.
Lặng nghe những âm thanh vang vọng trong đêm, Tú Uyên tưởng tượng và tưởng niệm về tình yêu tuyệt vời mà anh mong muốn chia sẻ với người đẹp ấy.
Tú Uyên không chỉ tưởng tượng về những khoảnh khắc lãng mạn với người yêu trong tương lai, mà còn đau đớn vì không thể gặp lại người đó. Anh nhắc đến việc "gảy khúc đàn tranh" và "chuốc chén rượu đào", nhưng cả hai đều chỉ là ảo ảnh trong tâm trí anh. Tú Uyên cảm thấy như mơ màng, như say trong hương thơm của kỷ niệm, nhưng thực tế là anh cảm nhận được sự cô đơn và đau khổ của tình yêu không thể đạt được.
Đoạn thơ này thể hiện rõ nỗi niềm tương tư sâu sắc và tình yêu không thể thành danh của Tú Uyên. Anh khao khát được ở bên người đẹp ấy, nhưng cũng đau khổ vì không thể thực hiện ước mơ đó. Những cảm xúc này làm cho Tú Uyên trở nên tương tư, buồn bã và đau khổ.
"Bích câu kì ngộ" là một tác phẩm văn học lãng mạn, nơi tình yêu và tương tư được mô phỏng một cách tinh tế. Từ những trạng thái tình cảm phức tạp của nhân vật chính, đoạn trích "Nỗi niềm tương tư" đã thành công trong việc tạo ra một hình ảnh cảm xúc sâu lắng và đồng thời kết hợp với văn chương tinh tế để diễn đạt nổi niềm tương tư của Tú Uyên.
5. Phân tích Nỗi niềm tương tư mẫu 5
Trong văn học Việt Nam, truyện thơ Nôm đã có vai trò quan trọng trong việc bảo tồn và phát triển ngôn ngữ và văn hóa dân tộc. Vũ Quốc Trân, một nhà văn và nhà thơ nổi tiếng trong thời kỳ phát triển văn học Nôm, đã để lại nhiều tác phẩm quan trọng, góp phần trong việc phát triển nền văn học truyền thống. Trong số đó, tác phẩm Bích Câu kỳ ngộ đáng chú ý với sự xuất hiện của đoạn trích Nỗi niềm tương tư, tạo nên một hình ảnh đẹp và sâu sắc về tình yêu và nhớ mong.
Trong đoạn trích này, tác giả đã sử dụng những từ ngữ tinh tế để miêu tả nỗi nhớ trong tâm hồn của nhân vật chính là Tú Uyên. Anh chàng không thể quên được cảnh tượng của người con gái tuyệt mỹ mà anh gặp ở chùa Ngọc Hồ. Tác giả mô tả tâm trạng của Tú Uyên như sau: "Ngơ ngẩn ra về", đèn thông đã cháy cạn nhưng anh vẫn thao thức, không thể ngủ được. Nỗi nhớ của Tú Uyên không chỉ là một ý nghĩ mà nó còn hiện hữu trong từng cử chỉ và hành động của anh. Đoạn trích Nỗi niềm tương tư cho thấy sự rõ ràng của Tú Uyên khi đối diện với nỗi nhớ. Tác giả sử dụng điệp ngữ "Có khi" để mô tả những hành động mà Tú Uyên thực hiện khi nghĩ về người con gái đó. Anh ta gảy khúc đàn tranh và chuốc chén rượu đào để thể hiện tình cảm của mình. Những hình ảnh này mang ý nghĩa biểu trưng, tượng trưng cho nỗi nhớ và khát vọng tương tư của Tú Uyên.
"Có khi gảy khúc đàn tranh,
Nước non ngao ngán ra tình hoài nhân.
Cầu hoàng tay lựa nên vần,
Tương Như lòng ấy, Văn Quân lòng nào!
Có khi chuốc chén rượu đào,
Tiệc mời chưa cạn, ngọc giao đã đầy.
Hơi men không nhấp mà say,
Như xông mùi nhớ, lại gây giọng tình.
Có khi ngồi suốt năm canh,
Mõ quyên điểm nguyệt, chuông kình nện sương.
Lặng nghe những tiếng đoạn trường,
Lửa tình dễ đốt, sông Tương khôn hàn.
Có đêm ngắm bóng trăn tàn,
Tiếng chiêm hót sớm, trận nhàn bay khuya."
Tuy nhiên, Tú Uyên không biết chia sẻ, không biết nói cho ai nghe về những tâm tư của mình. Tác giả sử dụng từ "Ngổn ngang" để miêu tả trạng thái của Tú Uyên khi đối diện với nỗi nhớ. Anh cảm thấy cô đơn trong nỗi nhớ của mình. Dù có những cảnh vui xuân chung, nhưng nỗi nhớ trong lòng anh vẫn nặng. Tú Uyên trong đoạn trích này. Điều đó thể hiện rằng tình cảm tương tư của Tú Uyên không được đáp lại và anh cảm thấy một cách cô đơn trong nỗi nhớ.
Tác phẩm Bích Câu kỳ ngộ của Vũ Quốc Trân là một trong những tác phẩm quan trọng trong văn học Nôm và đã góp phần quan trọng trong việc phát triển ngôn ngữ và văn hóa dân tộc.
6. Phân tích Nỗi niềm tương tư mẫu 6
Nỗi niềm tương tư trích truyện thơ nôm Bích câu kì ngộ được viết theo thể lục bát. Truyện thơ nôm này có độ dài gần 700 câu, là câu chuyện tình yêu của Tú Uyên và Giáng Kiều. Tác phẩm tập trung khai thác chuyện tình tuyệt đẹp giữa người và tiên, những khát khao của đôi lứa về cuộc sống hạnh phúc, tự do trong hôn nhân. Nhan đề đoạn trích này là do người biên soạn sách đặt.
Sau khi đi hội Ngọc Hồ, tình cờ gặp người đẹp Giáng Kiều, Tú Uyên nảy sinh tình cảm và ngày đêm mong nhớ. Trở về nhà chàng ôm mộng tương tư với nàng Giáng Kiều, khao khát được gặp nàng dù chỉ một lần. Đoạn trích Nỗi niềm tương tư diễn tả nỗi nhớ thương của Tú Uyên. Nhan đề do người biên soạn đặt đã phần nào nói lên được nỗi niềm nhớ mong ấy.
Lần trăng ngơ ngẩn ra về
Đèn thông khêu cạn, giấc hòe chưa quên
Động từ “ngơ ngẩn” đã thể hiện đúng tâm trạng của Tú Uyên vào lúc này. Đó là nỗi nhớ thương khôn nguôi, tâm trí rối bời khi gặp nàng ở hội Ngọc Hồ. Phải lòng ánh mắt của mỹ nữ, Tú Uyên ngày nhớ đêm mong đến nỗi chẳng ăn ngủ được, ra về mà lòng chàng nặng trĩu, chỉ muốn có thể gặp được người tình trong mộng. Cách sử dụng những điển tích, điển cố như giấc hòe, Cầu Hoàng, Văn Quân khiến cho ý thơ trở nên trang trọng. Chàng Tú Uyên tưởng tượng ra tình cảnh nhớ thương của mình giờ đây chẳng khác nào Tương Như phải lòng tiếng đàn của Văn Quân, giống như giấc mộng dưới gốc cây hoè. Những hình ảnh ẩn dụ ví von như “bướm kia vương lấy sầu hoa” là cách so sánh ngầm thể hiện tình yêu và nỗi nhớ thương canh cánh của lòng chàng với nàng Giáng Kiều. Nỗi nhớ thương nhiều đến mức khiến chàng làm gì cũng thấy nhớ: khi gảy đèn, lúc nâng chén rượu, lúc nghĩ đều có hình bóng của người thương:
Nỗi nàng canh cánh nào quên
Vẫn còn quanh quẩn người tiên khéo là?
Tú Uyên cũng có dự cảm về người con gái mà mình gặp ấy phải chăng đó là người tiên “người tiên khéo là” vì cử chỉ duyên dáng, dung mạo thoát tục, vẻ đẹp nghiêng nước, nghiêng thành.
Những khổ thơ sau tiếp tục cực tả nỗi niềm tương tư nhớ mong của Tú Uyên bằng cách sử dụng những điển tích, điển cố, phép điệp: Có khi chuốc chén rượu đào, có khi ngồi suốt năm canh, có đêm ngóng bóng trăng tàn… cho thấy làm gì, lúc nào tâm trạng của Tú Uyên cũng chỉ để ở bên nàng Giáng Kiều. Say đắm vẻ đẹp của nàng giống như người say men “không nhắp mà say”, thức suốt cả năm canh để nghe tiếng mõ, tiếng chuông và lòng thì thao thức không nguôi. Hình ảnh sóng Tương khôn hàn thể hiện nỗi nhớ thương dằng dặc dâng trào thành những giọt nước mắt:
Lặng nghe những tiếng đoạn trường
Lửa tình dễ đốt, sóng Tương khôn hàn.
Những câu thơ cuối cùng khép lại đoạn trích nhưng lại mở ra cả một nỗi niềm thương nhớ của Tú Uyên:
Ngổn ngang cảnh nọ tình kia
Nỗi riêng, riêng biết, dã dề với ai
Vui xuân chung cảnh một trời
Sầu xuân riêng nặng một người tương tư.
Người tương tư đã để tâm ở chỗ nàng Giáng Kiều mất rồi, thần trí chẳng còn ở chỗ mình nữa. Ngày nhớ đêm mong, quả là người si tình.
Đoạn trích sử dụng yếu tố tự sự và trữ tình và thể thơ lục bát quen thuộc của truyện thơ nôm. Cách sử dụng điển tích, điển cố, điệp ngữ, ẩn dụ và lối ví von so sánh độc đáo đã cho thấy tình cảm và nỗi niềm nhớ thương của chàng Tú Uyên với Giáng Trần. Nỗi nhớ khiến cho người sống trong mộng tưởng, ăn không ngon và ngủ chẳng yên, thế nên Tú Uyên mới tìm mọi cách để có thể gặp lại Giáng Kiều bày tỏ tình yêu và nỗi nhớ thương của mình.
Đoạn trích tiêu biểu cho những nét đặc sắc về phong cách sáng tác của Vũ Quốc Trân. Sử dụng những điển tích, điển cố quen thuộc, thủ pháp ước lệ đặc trưng trong thơ cổ. Qua đó khắc hoạ hình ảnh một Tú Uyên si tình hết mực.
7. Phân tích Nỗi niềm tương tư mẫu 7
Nổi niềm tương tư là một nhan đề biểu hiện tâm trạng sâu sắc của nhân vật chính, Tú Uyên. Cụm từ "nỗi niềm" cho thấy rằng Tú Uyên đang trải qua những tâm tư, tình cảm riêng tư sâu thẳm. Từ "tương tư" thể hiện rằng Tú Uyên đang trong trạng thái nhớ nhung, mong muốn được gặp mặt người mình yêu. Người trong tâm trạng tương tư thường gợi lên những kỷ niệm, nỗi buồn sâu lắng. Như nhà thơ Nguyễn Bính đã nói, "Tương tư là bệnh của trời". Bệnh tương tư thường âm thầm, khó nói ra với ai, và "thuốc" chữa "bệnh" tương tư là được gặp mặt người mình yêu.
Khi Tú Uyên rời khỏi hội chùa Ngọc Hồ để trở về, đoạn thơ truyền đạt rõ ràng sự si tình của anh ta, chỉ vì một lần nhìn thấy một người con gái xinh đẹp, anh ta đã rơi vào một cuộc tương tư suốt đời:
"Khi trăng lên ngơ ngẩn rời đi: chàng trai đắm chìm trong tình yêu đối tác đến mức mơ màng."
"Đèn thông đã tắt, giấc mộng chưa thành hiện thực: dùng biểu tượng của giấc mộng hòe (như câu chuyện về Thuần Vu Phần uống say rồi nằm ngủ dưới gốc cây hòe, sau đó mơ thấy mình trở thành một người giàu có, khi tỉnh giấc phát hiện đó chỉ là giấc mộng). Đèn đã tắt nhưng anh ta vẫn thức suốt đêm, lúc nghĩ về cô gái, anh ta cảm thấy mơ màng và ngỡ rằng cuộc gặp gỡ đó như một giấc mộng vẫn ám ảnh tâm trí anh ta. Chừng nào giấc mơ chưa thành hiện thực, anh ta vẫn chưa thể ngủ yên."
"Không thể quên đi nỗi niềm nhớ thương/ Vẫn còn mơ màng về người tiên nữ mới: tâm trí của chàng trai vào thời điểm này chỉ có hình bóng của cô gái, nỗi nhớ ấy vẫn quấn quanh và anh ta sợ rằng đó có thể là một tiên nữ mới khiến anh ta không thể yên tĩnh."
Những biện pháp ngôn ngữ như ẩn dụ, điển cố và điển tích đã làm cho đoạn thơ trở nên sống động hơn, mô tả rõ ràng nỗi nhớ thương cay đắng trong lòng chàng trai si tình.
Tú Uyên luôn mang theo nỗi buồn, sầu thương trong trái tim khi nhớ về Giáng Kiều, ngay cả nhìn những vật thể tự nhiên cũng mang đầy nỗi nhớ thương.
8. Phân tích Nỗi niềm tương tư mẫu 8
“Bích câu kì ngộ” là một tác phẩm thơ Nôm nổi tiếng với thể thơ lục bát uyển chuyển, kể về tình yêu giữa chàng Tú Uyên và nàng tiên nữ Giáng Kiều. Trong đó, đoạn trích “Nỗi niềm tương tư” tả khởi nguồn của tình yêu mộng mị, miên man của chàng Tú Uyên sau khi gặp người đẹp tại chùa Ngọc Hồ.
Tú Uyên, một thư sinh nghèo, từ nhỏ đã mồ côi cha mẹ. Một lần, khi đến thăm Bích Câu, chàng bị quyến rũ bởi vẻ đẹp của đó, quyết định xây dựng tổ ấm ở đây và dành thời gian ngày đêm để học hành. Một ngày đẹp trời, trong một dịp lễ Xuân, Tú Uyên tham gia hội chùa Ngọc Hồ. Ở đây, chàng tình cờ nhặt được một tờ “lá hồng” ghi đề câu thơ. Ngay lúc chàng sắp vẽ lại câu thơ đó, một thiếu nữ xinh đẹp hiện ra trước mắt chàng, rồi biến mất không dấu vết khi chàng đến Quảng Văn. Trở về nhà, Tú Uyên đầy nhớ mong, tương tư, không ngừng suy tư ngày đêm.
Một đêm trăng lung linh dần,
Đèn sáng lung linh, chưa ngủ gì được.
Nỗi niềm nhung nhớ đấy dài,
Nhớ về người tiên nữ tài là!
Con bướm nâng ly đầy hoa,
Tưởng tình tương tư đắm đuối trong lòng!
Tú Uyên tỏ ra rất si tình, chỉ vì một cái nhìn, nhưng dường như đã ghi nhớ một đời. Chàng quá mê mẩn người con gái đó, đến mức “đèn sáng cạn, vẫn chưa ngủ được”. Chàng nghĩ về người con gái đó như một tiên nữ, không biết khi nào mới có thể gặp lại. Nỗi nhớ người trong mơ không chỉ được thể hiện qua suy tư của chàng thư sinh, mà còn qua những cử chỉ:
Có khi cầm đàn khúc tranh,
Tưởng nhớ ra quá nỗi nơi tình thiết.
Nhìn bảy chữ mười phương liệt,
Tương Như tim đậy, Văn Quân lòng nào!
Có khi uống chén rượu đào,
Tiệc mời chưa hết, đường ngàn ngọc quyên.
Men chưa say đã muốn nguyền,
Như mùi nhớ ấy, càng gợi bao lòng.
Có khi ngồi một mình không,
Ngắm trăng soi bóng, chuông ngân nơi sương.
Nghe tiếng những đoạn trường trong lòng,
Lửa tình cháy bừng, dòng sông lạnh rồi.
Có đêm ngắm trăng soi ngang,
Nghe sẵn tiếng chim hót, gió thổi hờn bay.
“Có” lặp lại 4 lần để diễn đạt hành động của Tú Uyên khi không thể không nghĩ về người con gái ấy. Chàng nhớ nàng, chỉ nghĩ về nàng mà thôi chưa đủ, phải “cầm đàn khúc tranh” để mong nàng nghe thấu tấm chân tình này, giống như cô gái Văn Quân nghe tiếng đàn “Tương Như” của Tương Như mà bị nảy lòng theo đuổi. Phải uống cạn chén rượu “ngàn ngọc” với nàng để kết duyên đôi lứa. Khi đó, chàng say nhưng không phải say vì rượu, mà say vì “mùi nhớ”, hay chính là say vì tình ái với nàng tiên nữ. Chàng còn phải “ngồi một mình không” ngắm trăng và nghe những “đoạn trường”, bởi vì không biết bao giờ mới có thể gặp lại người mình yêu thương nên chàng nhớ mong và đau đớn như đứt ruột. Bởi vậy mới thấy tình cảm của Tú Uyên dành cho người con gái ấy lớn đến cỡ nào, chỉ cần một cái nhìn đã làm chàng say sưa như “lửa tình dễ cháy”. Đặc biệt, tác giả dựa vào truyền thuyết về hai vợ Nga Hoàn và Nữ Anh cùng khóc bi thảm trên sông Tương Giang khi Vua Thuần mất để sử dụng từ “sông Tương” để so sánh với nước mắt, nước mắt ở đây là nước mắt của Tú Uyên khi mất đi người mình hằng mong nhớ, mất đi cả cuộc đời. Chàng còn ngồi “ngắm trăng soi ngang”, hy vọng về một chút tin tức của nàng.
Mặc dù tình cảm đã được biểu lộ, nhưng vẫn không ngừng rối bời, không dừng lại:
Rối bời cảnh đó tình ấy,
Nỗi riêng, biết riêng, đã nói với ai!
Vui xuân chung cảnh một trời,
Buồn xuân riêng nặng một người tương tư
Dù đã dùng “khúc đàn tranh”, dùng “chén rượu đào” nhưng tình nồng đâu biết “đã nói với ai? Dù cảnh Xuân có vui nhưng không gặp được nàng thì trong lòng Tú Uyên vẫn chỉ có một “Buồn xuân riêng nặng một người tương tư. Tình cảm của Tú Uyên dạt dào, mãnh liệt và trung thành giống như Xuân Diệu đã từng viết trong bài thơ “Tình thứ nhất”:
“Thôi thôi nhé, hoa đã buồn dưới đất
Cười trên cành sao còn vui nữa em ơi!
Anh chỉ có một tình yêu thứ nhất
Đem cho em là đã mất hết rồi!”
Với lời thơ kết hợp giữa tự sự và trữ tình, đoạn trích “Nỗi niềm tương tư” cho ta thấy được nỗi niềm tương tư và khao khát tình yêu đôi lứa bốc cháy của chàng thư sinh Tú Uyên. Có phải một tình yêu mãnh liệt, đam mê, hết lòng là đáp trả hoàn hảo cho những ai đang mê đắm trong giấc mơ tình, có phải từng lời thơ muốn thể hiện tấm lòng chân thành ấy!
9. Phân tích Nỗi niềm tương tư mẫu 9
Đoạn trích ‘Nỗi niềm tương tư’ là một đoạn trích trong bài thơ Việt Nam ‘Bích Câu Kỳ ngộ’ viết theo thê thơ 6-8, hay còn gọi là thể thơ lục bát. Bài thơ Việt này dài khoảng 700 câu thơ kể về chuyện tình của Giáng kiều và Tú uyên. Trọng tâm của tác phẩm này là câu chuyện tình yêu đẹp giữa con người và các nàng tiên cũng như khát vọng về một cuộc sống hôn nhân hạnh phúc, tự do của các cặp đôi. Tiêu đề của đoạn trích này do người biên tập cuốn sách đưa ra.
Sau khi tham dự lễ hội Ngọc Hồ, tình cờ gặp được người đẹp Giáng kiều, Tú Uyên nảy sinh tình cảm với cô, ngày đêm mong mỏi cô. Khi trở về nhà, anh mơ thấy mình tương tư Giáng kiều và mong muốn được gặp cô ít nhất một lần. Đoạn trích ‘Nỗi niềm tương tư’ miêu tả nỗi khao khát của chàng trai Tú uyên.
‘Lần trăng ngơ ngẩn ra về
Đèn thông khêu cạn, giấc hòe chưa quên’
Động từ ‘ngơ ngẩn’ đã mô tả chính xác tâm trạng của Tú uyên lúc này. Khi gặp nàng ở lễ hội Ngọc Hồ, chàng trai cảm thấy hoài niệm và bối rối vô tận. Tú Uyên mê mẩn đôi mắt đẹp của mỹ nhân, không ăn không ngủ được vì nhớ cô ngày đêm. Anh ra đi với trái tim nặng trĩu và chỉ muốn gặp được tình yêu trong mộng của mình. Việc sử dụng các truyện cổ điển, truyện kinh điển như Giấc hòe, Cầu Hoàn, Văn quân làm cho ý nghĩa thơ trở nên trang trọng hơn. Tú uyên, người tưởng tượng ra trạng thái hiện tại trong giấc mơ của mình, cũng không khác gì Tương Như, nhớ nhung tiếng đàn của Văn quân như giấc mơ dưới gốc cây hòe. Những hình ảnh tượng hình như ‘bướm kia vâng lấy sầu hoa’ ngầm thể hiện tình yêu và nỗi nhớ trong lòng anh dành cho Giáng kều. Sự tương tư dành cho nàng lớn đến mức anh ấy nhớ đến nàng trong mọi việc mình làm. Mỗi khi hắp một ngọn đèn, mỗi khi nâng ly rượu, mỗi khi nghĩ về điều gì đó, luôn có hình ảnh của người thương ở đó.
‘Nỗi nàng canh cánh nào quên
Vẫn còn quanh quẩn người tiên khéo là?’
Tú uyên cũng có linh cảm rằng cô gái anh gặp là một nàng tiên hay một nàng tiên khéo léo dựa trên những cử chỉ duyên dáng, phong thái điềm tĩnh và vẻ đẹp lấn át cả nước và thành.
Những dòng thơ sau đây tiếp tục diễn tả nỗi khao khát, tương tư của Tú Uyên bằng những câu chuyện, sự ám chỉ, ẩn dụ. Có lúc uống một ly rượu đào, có lúc ngồi năm tiếng, có lúc ngồi chờ trăng. …Chi tiết này cho thấy rằng Tú uyên luôn nhớ đến Giáng kiều dù bất cứ khi nào.. Yêu vẻ đẹp của nàng cũng giống như say không uống một ngụm, thức suốt năm tiếng nghe tiếng mõ chiêng mà bồn chồn. Hình ảnh sóng nước Tương Côn Hàn thể hiện sự khao khát, mong mỏi hóa thành nước mắt.
‘Lặng nghe những tiếng đoạn trường
Lửa tình dễ đốt, sóng Tương khôn hàn.’
Bài thơ cuối cùng kết thúc đoạn trích những bộc lộ khát vọng của Tú uyên.
‘Ngổn ngang cảnh nọ tình kia
Nỗi riêng, riêng biết, dã dề với ai
Vui xuân chung cảnh một trời
Sầu xuân riêng nặng một người tương tư’
Tú uyên đã tập trung hết tất cả vào hình ảnh nàng Giáng kiều. Chàng trai mong được gặp người thương cả ngày lẫn đêm, Tú uyên giờ trở nên kẻ si tình mất rồi.
Đoạn trích này sử dụng yếu tố tự sự, trữ tình và thể thơ 6-8 quen thuộc của truyện thơ Nôm. Việc sử dụng lối kể chuyện, điệp từ ngữ, ẩn dụ, so sánh độc đáo thể hiện tình cảm, mong muốn của Tú uyên dành cho Giáng kiều. Nỗi nhớ khiến người ta sống trong mộng ảo, ăn không ngon ngủ không yên nên Tú uyên tìm mọi cơ hội để được gặp lại Giáng kiều và bày tỏ tình yêu, nỗi nhớ của mình. Đoạn trích này thể hiện nét độc đáo trong lối viết của tác giả Vũ Quốc Trân, sử dụng những câu chuyện, tài liệu tham khảo nổi tiếng và những thủ pháp thông thường đặc trưng của thơ cổ. Điều này khắc họa hình ảnh Tú uyên đang gặp rắc rối trong tình yêu, si tình vô cùng.
10. Phân tích Nỗi niềm tương tư mẫu 10
Có thể nói, ‘bích câu kì ngộ’ là một câu chuyện thơ nổi tiếng với thể thức 6 – 8 linh hoạt, miêu tả chuyện tình giữa Tú uyên và nàng tiên Giáng kiều. Đoạn trích sau đây trong ’Nỗi niềm tương tư’ kể về nguồn gốc của mối tình đẹp như mơ này. Đoạn trích này mô tả cảm xúc tương tư sâu đậm của Tú uyên sau khi gặp một mỹ nhân ở chùa Ngọc Hồ.
Tú Uyên là một học giả nghèo, mồ côi cha mẹ từ nhỏ. Một lần anh đến thăm Bích câu và thấy cảnh đẹp của nó nên quyết định xây một ngôi nhà ở đó và đốt sách ngày đêm và đốt đèn để học tập. Một hôm, trời xuân đẹp nên Tú uyên đi dự lễ hội chùa Ngọc Hồ. Anh nhặt một chiếc ‘lá hồng’ có viết một bài thơ trên đó. Khi Tú uyên đang định đáp lại thì một thiếu nữ xinh đẹp bất ngờ xuất hiện trước cánh cổng có ba lối vào. Anh tiếp tục đi theo bóng cô gái cho đến khi đến được Quảng Văn nhưng không còn thấy dấu chân cô nữa. Khi anh về nhà, thì nhớ thương cả ngày lẫn đêm.
‘Lần trăng ngơ ngẩn ra về,
Đèn thông khêu cạn, giấc hòe chưa nên.
Nỗi nàng canh cánh nào quên,
Vẫn còn quanh quẩn người tiên khéo là!
Bướm kia vương lấy sầu hoa,
Đoạn tương tư ấy nghĩ mà buồn tênh!’
Có thể thấy tâm trạng tương tư của Tú Uyên. Dù chỉ gặp nhau trong chốc lát nhưng chàng như đã nhớ Giáng kiều mãi mãi. Anh yêu cô đến mức “choáng váng” đến mức ngọn đèn thông cháy hết nhưng anh vẫn trằn trọc không ngủ được và “ngủ không ngon giấc”. Anh tự hỏi liệu cô gái xinh đẹp này có phải là một nàng tiên biết khi nào sẽ gặp lại anh không. Sự thương nhớ đối với người trong giấc mơ không chỉ được thể hiện trong suy nghĩ của người học giả mà còn qua cử chỉ của người đó.
‘Có khi gảy khúc đàn tranh,
Nước non ngao ngán ra tình hoài nhân.
Cầu hoàng tay lựa nên vần,
Tương Như lòng ấy, Văn Quân lòng nào!
Có khi chuốc chén rượu đào,
Tiệc mời chưa cạn, ngọc giao đã đầy.
Hơi men không nhấp mà say,
Như xông mùi nhớ, lại gây giọng tình.
Có khi ngồi suốt năm canh,
Mõ quyên điểm nguyệt, chuông kình nện sương.
Lặng nghe những tiếng đoạn trường,
Lửa tình dễ đốt, sông Tương khôn hàn.
Có đêm ngắm bóng trăn tàn,
Tiếng chiêm hót sớm, trận nhàn bay khuya.’
Từ “có” được lặp đi lặp lại 4 lần thể hiện sự bất lực của Tú uyên khi không ngừng nghĩ về người thương này. Anh thấy rằng chỉ nghĩ thôi thì chưa đủ, anh còn mong cô sẽ nghe ‘đàn một khúc đàn tranh’ và nghe được tình cảm chân thành này. Giống như khi cô gái Văn quân nghe thấy tiếng đàn Tương Như “Cầu Hoàng” thì đi theo. Muốn bộc lộ tâm tình thầm kín, phải mượn ly rượu đào, hoặc phải mượn rượu để tỏ tình. Anh Tú Uyên muốn uống một ly ngọc giao kết duyên với người thương. Lúc này chàng trai đã say, nhưng không say. Cơn say này được ví như “mùi ký ức” hay cơn say tình yêu dành cho nàng tiên. Ngoài ra, không biết khi nào mới được gặp lại người thương, anh phải “ngồi năm canh” mới nghe được “những âm thanh dai dẳng” và cảm thấy đau thắt ruột khi chờ đợi người thương. Chính vì thế mà chúng ta hiểu Tú uyên dành cho cô gái này bao nhiêu tình cảm. Chỉ cần một ánh nhìn cũng khiến chàng say đắm, ngọn lửa tình yêu được thắp lên. Đặc biệt, tác giả dùng từ ‘sông tương’ để miêu tả những giọt nước mắt, dẫn truyền thuyết rằng khi vua Thuần băng hà, hai người phụ nữ Nga Hoàng và Nữ anh đã khóc lóc thảm thiết bên bờ sông Tương. Nước mắt ở đây là nước mắt của Tú uyên mất đi người mình thầm thương trộm nhớ, mất đi cả cuộc đời. Anh cũng ngồi “ngắm bóng trăng khuyết” chờ tin tức của nàng.
Ngay cả khi nỗi nhớ này trở nên rõ ràng, nó vẫn là một “sự hỗn loạn” không ngừng nghỉ.
‘Ngổn ngang cảnh nọ tình kia,
Nỗi riêng, riêng biết, dã đề với ai!
Vui xuân chung cảnh một trời,
Sầu xuân riêng nặng một người tương tư’
Đã mượn ‘chén rượu đào’ và ‘khúc đàn tranh’ nhưng đâu thể nói được với ai. Dù cảnh xuân có vui, nếu không gặp nàng, Tú uyên vẫn chỉ có một nỗi ‘sầu xuân riêng nặng một người tương tư’. Xuân Diệu từng viết trong Bài thơ ‘tình thứ nhất’ để diễn tả tâm trạng của mình hệt như tâm trạng của Tú Uyên giàu cảm xúc, mãnh liệt và chung thủy.
‘Thôi thôi nhé, hoa đã sầu dưới đất
Cười trên cành sao được nữa em ơi!
Anh chỉ có một tình yêu thứ nhất
Đem cho em là đã mất đi rồi!’
Đoạn trích ‘Nỗi niềm tương tư’, một bài thơ kết hợp tự sự và trữ tình, thể hiện nỗi khao khát tình yêu và khát khao tình yêu cháy bỏng của học giả Tú Uyên. Phải chăng tình yêu nồng nàn và chân thành là câu trả lời chung cho những ai đang lạc lối trong giấc mơ tình yêu? Mỗi chữ trong bài thơ này dường như đều nói lên sự chân thành, tấm chân tình đó?