Giao diện mới của VnDoc Pro: Dễ sử dụng hơn - chỉ tập trung vào lớp bạn quan tâm. Vui lòng chọn lớp mà bạn quan tâm: Lưu và trải nghiệm

Phân tích nhân vật cô Hiền trong Một người Hà Nội

Phân tích nhân vật cô Hiền được VnDoc.com sưu tầm và xin gửi tới bạn đọc cùng tham khảo để có thêm tài liệu học Ngữ văn 11 Cánh diều nhé. Mời các bạn cùng theo dõi bài viết dưới đây.

1. Dàn ý Phân tích nhân vật cô Hiền

- Vị trí: nhân vật trung tâm.

- Vai trò: kết tinh cho giá trị tư tưởng và nghệ thuật của tác phẩm.

- Mô tả khái quát về nhân vật: Nhân vật cô Hiền được miêu tả ở nhiều thời điểm lịch sử khác nhau của dân tộc. Trải qua thời gian nhiều biến động, phẩm chất và nét đẹp của một người Hà Nội vẫn tỏa sáng, như nhất, không hề phôi pha trong con người này.

+ Phân tích:

- Nếp sống thanh lịch dù thời cuộc có đầy biến động.

* Cái ăn

* Cái ở

* Cái mặc

- Thông minh, tỉnh táo và thức thời:

* Năm 1956, bán một trong hai ngôi nhà cho người kháng chiến ở.

* “Chú tuy chưa già nhưng đành để ngồi chơi, các em sẽ đi làm cán bộ, tao sẽ phải nuôi một lũ ăn bám, dù họ có đủ tài để không phải sống ăn bám”.

* Ứng xử với chính sách cải tạo tư sản của nhà nước.

• Chồng muốn mua máy in => ngăn cản vì nhận rõ việc làm này sẽ vi phạm chính sách.

• Mở cửa hàng đồ lưu niệm để đảm bảo “đủ ăn” mà không bóc lột bất kì ai.

- Có đầu óc thực tế, sự trung thực, thẳng thắn:

* Không có lòng tự ái, sự ganh đua, thói thời thượng, không có cái lãng mạn hay mơ mộng viển vông.

* Đã tính là làm, đã làm là không để ý đến lời đàm tiếu của thiên hạ => bản lĩnh, có lập trường.

* Đi lấy chồng: dù giao du rộng nhưng chọn làm vợ một ông giáo cấp Tiểu học hiền lành, chăm chỉ => cả Hà Nội “kinh ngạc”.

* Tính toán cả chuyện sinh đẻ sao cho hợp lí, đảm bảo tương lai con cái.

* Khi cháu là cán bộ cách mạng về chơi, chồng và con gọi là "đồng chí", bà nhắc nhở phải gọi là "anh Khải" => biết nhìn nhận mọi việc theo đúng bản chất, thức thời nhưng không xu thời.

* Khi cháu-người cách mạng hỏi về cuộc sống mới khi giải phóng, bà nhận xét thẳng thắn, sắc sảo, không giấu diếm.

- Trân trọng, nâng niu, gìn giữ truyền thống văn hoá người Hà Nội:

* Dặn dò bọn trẻ: “Là người Hà Nội thì cách đi đứng nói năng phải có chuẩn, không được sống tuỳ tiện, buông tuồng”
* Coi việc giữ gìn nếp sống là một cách “tự trọng, biết xấu hổ”.

=> Là hạt bụi vàng của Hà Nội: Những hạt bụi vàng lấp lánh đâu đó ở mỗi góc phố Hà Nội hãy mượn gió mà bay lên cho đất kinh kì chói sáng những ánh vàng => biểu tượng của vẻ đẹp tinh tế, sức sống bất diệt của văn hoá Hà Thành.

Lưu ý: em có thể chọn thêm dẫn chứng để chứng minh.

+ Đánh giá:

- Nhân vật "một người Hà Nội" được soi chiếu ở nhiều thời điểm lịch sử. Mỗi thời điểm đầy biến thiên ấy như thứ nước rửa ảnh làm hiện hình nổi sắc những nét đẹp bất diệt: sự thanh lịch, sang trọng trong nếp sống, cách nói năng; trí thông minh, sự tỉnh táo, thức thời; đầu óc thực tế, trung thực, thẳng thắn...

- Đặt cô Hiền trong những biến động của lịch sử, nhà văn đã soi chiếu số phận của một dân tộc qua cuộc đời của một cá nhân => thể hiện:

* Cái nhìn hiện thực mới mẻ

* Quan niệm về con người, niềm tin vào sự bất tử của những nét đẹp văn hóa truyền thống.

- Nghệ thuật xây dựng nhân vật: ngôn ngữ cá thể hóa (Lời nói của cô Hiền logic, rõ ràng thể hiện sự sắc sảo, thông minh, tự tin, am tường nhân thế).

- Liên hệ ngắn gọn với "chân dung người Hà Nội" hiện nay (ý mở rộng).

2. Phân tích nhân vật cô Hiền mẫu 1

Truyện "Một người Hà Nội" của nhà văn Nguyễn Khải, in trong tập truyện cùng tên, xuất bản năm 1990, thời kì đổi mới của nền văn học Việt Nam.

Cô Hiền là nhân vật chính của truyện. Qua nhân vật cô Hiền, tác giả phát hiện ra bao vẻ đẹp trong chiều sâu tâm hồn, tính cách con người Hà Nội, tiêu biểu cho người phụ nữ Việt Nam trước bao biến động, thăng trầm và phát triển của đất nước.

Nhân vật "tôi" giới thiệu về cô Hiền, nói lên về những suy nghĩ và tình cảm quý mến đối với cô Hiền - "chị em đôi con dì ruột với mẹ già tôi".

Tác giả không nói về ngoại hình của cô Hiền mà chỉ kể, chỉ giới thiệu về ngôn ngữ, cách sống, cách ứng xử của cô Hiền trong các quan hệ gia đình chồng con, với người thân, với bạn bè, với thời cuộc.

Khi đứa cháu, anh bộ đội Cụ Hồ thân mật và tò mò hỏi cô về thành phần giai cấp, về chuyện "tại sao cô không phải học tập cải tạo"... thì cô cười rất tươi: "Tại chưa đủ tiêu chuẩn", và thản nhiên nói: "Tao có bộ mặt rất tư sản, một cách sống rất tư sản, nhưng lại không bóc lột ai cả thì làm sao thành tư sản được".

Khi nhiều bè bạn ngờ vực: " Trông bà như tư sản không bị học tập cũng lạ nhỉ?", thì cô nhẹ nhàng trả lời: "Các bà không biết nhưng nhà nước lại rất biết". Đúng là cô khôn hơn các bà bạn, và "thức thời" hơn ông chồng. Trước đây, nhà cô cũng thuê một anh bếp và một chị vú. Chị vú trông coi con cho cô từ năm 19 tuổi đến năm 45 tuổi. Trong suốt 26 năm trời đó, cô coi anh bếp cô vú " tình nghĩa như người trong họ", đối xử rất tử tế, nên sau này khi đã về quê, đã làm chủ nhiệm hợp tác xã, hai vợ chồng vẫn qua lại thân tình, "ngày giỗ ông chú và ngày Tết đều đem gạo, đậu xanh, miến và rượu, toàn của nhà làm cả, lên biếu cô và các em".

Chuyện làm ăn cũng cho thấy cô "khôn hơn" các bà bạn và "thức thời hơn" ông chồng. Chồng cô dạy học, nhờ viết sách mà có được một ít tiền nên tậu được hai dinh cơ, một nhà đang ở và một nhà ở Hàng Bún cho thuê. Tháng 10 năm 1954, Hà Nội được giải phóng thì năm 1956, cô bán ngôi nhà ở Hàng Bún cho một người bạn mới ở kháng chiến vẻ. Chỉ một năm sau, cái thời "cải tạo... ", một cán bộ tói hỏi vẻ nhà cửa, nhắc tới ngôi nhà ở Hàng Bún, cô Hiền trả lời rất lịch thiệp: "Xin mời anh tới ngôi nhà anh vừa nói, hỏi thằng chủ nhà xem họ trả lời ra sao. Nếu còn thắc mắc xin mời anh trở lại".

Khi ông chồng không được phép mở trường tư thục muốn mua một máy in nhỏ để kinh doanh, cô Hiền đã hỏi chồng: "Ông có đứng máy được không? Ông có sắp chữ được không?... Ông muốn làm một ông chủ dưới chế độ này à? Ông chồng "tính vốn nhát, rút lui ngay" trước những câu hỏi rất thức thời của người vợ.

Cô Hiền cũng kinh doanh, cũng buôn bán, cũng có cửa hàng cửa hiệu. Nhưng cô chỉ bán một thứ hoa giấy. Các loại hoa giấy, lẵng hoa đan bằng tre... rất đẹp, do tự tay cô làm ra, bán rất đắt, nhưng "chịu thuế rất nhẹ" chẳng mang tiếng tư sản, tiểu chủ gì cả giữa cái thời "cải tạo và đấu tranh giai cấp...". Cô Hiền thật khôn ngoan, cô biết sống hợp lí, ứng xử theo thời thế. Phải là con người chín chắn và từng trải mới có cách sống, cách làm ăn như thế, có "đầu óc rất thực tế" như thế.

Cô Hiền rất mẫn cảm, sắc sảo và tế nhị. Nghe con kêu ầm lên: "Mẹ ơi! Đồng chí Khải đến!" thì cô cau mặt gắt lên: "Phải gọi là anh Khải, hiểu chưa". Khi thấy người chồng nắm tay đứa cháu, hỏi hồn nhiên: "Tại sao chủ nhật trước đồng chí không ra chơi, cả nhà chờ cơm mãi", thì cô "thở dài, quay người đi". Khi đứa cháu hỏi về dân tình, thời thế, cô trả lời: "Vui hơi nhiều, nói cũng hơi nhiều, phải nghĩ đến làm ăn chứ?". Khi nghe chị vú kể lại cho cả nhà nghe có anh cán bộ bám theo "xui", cô Hiền bình luận: "Cách mạng gì toàn để ý những chuyện lặt vặt".

"Cô Hiền bên ngoại, chị Đại bên nội" là những phụ nữ Hà thành giỏi giang, giàu bản lĩnh tất cả mọi việc đều được các bà ấy "tính toán trước cả", và luôn luôn "tính đúng". Các bà ấy "không có lòng tự ái, sự ganh đua, thói thời thượng chen vô". Các bà ấy "không có sự lãng mạn hay mộng mơ vớ vẩn. Đã tính là làm, đã làm là không thèm để ý đến những đàm tiếu của thiên hạ". Đó là lời nhận xét của người cháu - đồng chí Khải.

Cô Hiền tuyên bố thẳng thừng với đứa cháu: "Một đời tao chưa từng bị ai cám dỗ, kể cả chế độ". Vốn là gái Hà Nội, con nhà giàu sang, nhưng gần ba chục tuổi cô mới đi lấy chồng, Không lấy một ông quan nào hết. Chẳng hứa hẹn gì với đám nghệ sĩ văn nhân. Cô chỉ chọn một ông giáo cấp Tiểu học hiền lành kết bạn trăm năm, để làm vợ, làm mẹ, "khiến cả Hà Nội kinh ngạc".

Sau khi sinh đứa con thứ năm, cô nói với chồng: "Từ nay là chấm dứt chuyện sinh đẻ, bốn mươi tuổi rồi,nếu ông và tôi sống đến sáu chục tuổi thì con út đã hai mươi, thể tự lập được khỏi phải sống bám vào các anh chị".

Cô Hiền đặc biệt coi trọng vai trò người phụ nữ trong gia đình: người vợ không chỉ là nội trợ mà là "nội tướng". Cô phê bình người cháu - đồng chí Khải: "Mày bắt vợ mày quá, không để nó tự quyết định bất cứ việc gì, vậy là hỏng". Người đàn bà không là "nội tướng thì cái gia đình ấy cũng chẳng ra sao".

Là người mẹ, cô săn sóc và quan tâm dạy bảo các con phải "biết tự trọng, biết xấu hổ", nghĩa là biết giữ lấy nhân cách. Ngay từ khi các con còn nhỏ, ngồi vào bàn ăn, cô thường chú ý "sửa cách ngồi, cách cầm bát đũa, cách múc canh, cả cách nói chuyện trong bữa ăn". Cô khuyên con cháu: "Chúng mày là người Hà Nội thì cách đi đứng, nói năng phải có chuẩn, không dược sống tuỳ tiện, buông tuồng".

"Gia huấn ca" tương truyền là của Nguyễn Trãi có đoạn:

"Khi còn bé tại gia hầu hạ,

Dưới hai thân vâng dạ theo lời

... Khi đi, khi đứng, khi ngồi,

Vào trong khuôn phép, ra ngoài đoan trang...".

Phải chăng cô Hiền đã dạy con cháu cách sống theo nền nếp của người xưa? Cô đã nói rõ với người cháu về "nghĩa vụ" của người mẹ là dạy con cái "biết tự trọng biết xấu hổ,còn sau này muốn ra sao là tuỳ ".

Giữa thời chống Mĩ, cô Hiền đã thể hiện tình mẹ con và ý thức công dân rất rõ. Năm 1965, Hà Nội có đợt tuyển quân vào chiến đấu trong Nam, đợt đầu được tuyển chọn rất kĩ càng, có khoảng 660 người, "là những chàng trai ưu tú của Hà Nội". Dũng là con đầu của cô Hiền vừa tốt nghiệp trung học, tình nguyện xin đi đánh Mỹ lần ấy. Khi đứa cháu hỏi: "Cô bằng lòng cho em đi chiến đấu chứ?". Cô trả lời: "Tao đau đớn mà bằng lòng, vì tao không muốn nó sống bám vào sự hi sinh của bạn. Nó dám đi cũng là biết tự trọng". Suốt ba năm trời, cô không hề nhận được một tin tức gì của đứa con đã ra đi. Nhưng khi đứa em kế làm đơn đi đánh Mĩ, cô đã trả lời khi người cháu hỏi: "Tao không khuyến khích, cũng không ngăn cản, ngăn cán tức là bảo nó tìm đường sống để các bạn nó phải chết, cũng là một cách giết chết nó".

Giữa thời khói lửa, cô Hiền đã dạy con như vậy đó về lòng tự trọng, về nghĩa vụ của người thanh niên. Cô cũng đã tỏ rõ lòng yêu nước, tâm thế của một người mẹ, một người phụ nữ Hà Nội giữa cộng đồng: "Tao cũng muốn sống bình đẳng với các bà mẹ khác, hoặc sống cả, hoặc chết cả, vui lẻ thì có hay hớm gì".

Cô Hiền đã may mắn hơn hơn bà mẹ của Tuất, may mắn hơn hàng ngàn, hàng vạn bà mẹ khác. Tháng 12 năm 1975, Dũng, con trai cô đâ trở về. Cô ngạc nhiên hỏi: "Anh muốn mua gì?" khi người con đeo ba lô bước vào đến giữa nhà. Người con của cô gầy ốm quá, da đen quá, râu ria cũng nhiều quá chả có dấu vết gì là một chàng trai Hà Nội, nên người mẹ sao kịp nhận ra được.

Ngày thường, cô Hiền, các bạn của cô Hiền, v.v... ăn mặc bình dân, "áo bông ngắn, quần thâm, đi dép, đi guốc, vuông khăn len tơi tớp buộc cổ hay bịt đầu". Nhưng trong bữa tiệc liên hoan mừng đứa con trai đi đánh giặc bình yên trở về, các vị khách - các cựu công dân Hà Nội, ăn mặc thật sang trọng. Các ông thì áo ba-đờ-xuy, bộ đồ, thắt cà vạt; các bà tuy tóc đã bạc, hoặc nửa xanh nửa bạc, nhưng khoác "áo nhung, áo dạ, đeo ngọc đeo dây đi lại uyển chuyển"; còn cô Hiền xuất hiện "như diễn viên sân khấu, lược giắt trâm cài hoa hột lấp lánh..."

Cô nói với đứa cháu về cách sống: khi sống giữa những người bình dân, "tất cả đều có quyền ăn nói thô tục", nhưng sống trước những người quý phái "mình phái xử sự sao?". Đó là cách ứng xử của cô Hiền, của những bè bạn của cô, của người Hà Nội. Đúng như cô Hiền đã thổ lộ: "Xã hội nào cũng có giai tầng thượng lưu của nó để làm chuẩn cho mọi giá trị...". Cái chuẩn đó là mọi tinh tuý, mọi cái tốt đẹp của lối sống, cách sống, của văn hoá, đạo đức, của văn minh tiến bộ. Đó là cách sống của cô Hiền.

Phần cuối, nhân vật "tôi" đã kể chuyên từ thành phố Hồ Chí Minh ra Hà Nội đến thăm cô Hiền sau nhiều năm đã trôi qua. Có biết bao thay đổi. Ông chú đã mất, các em đã có gia đình riêng, cô đã già yếu, đã ngoài bảy mươi tuổi. Nhưng "cô vẫn là người của hôm nay, thuần tuý Hà Nội, không pha trộn". Người cháu nói về phòng khách của gia đình của cô Hiền với bộ xa lông gụ "cái khánh", cái sập gụ chân quỳ chạm rất đẹp, với bao đồ gia bảo cổ, quý giá khác. Hình ảnh cô Hiền - một bà lão đang lau đánh cái bát thủy tiên men đỏ khi ngoài trời rét, mưa rây lả lướt mà đứa cháu "thấy tết quá, Hà Nội quá, muốn ở thêm ít ngày ăn lại một cái tết Hà Nội". Cô Hiền đã nâng niu trân trọng những gì tốt đẹp của văn hoá Thăng Long. Hình ảnh cô Hiền làm cho đứa cháu lan man nghĩ cách sống, cái tâm lí sống ồ ạt, xô bồ của đám người vừa thoát cái chết cái khổ "đã dễ gì có được sự bình tĩnh để thưởg thức vẻ đẹp trang trọng của một dò hoa thủy tiên".

Cô Hiền nhắc lại: "Nhiều người nói Hà Nội đã sống lại". Người cháu kể lại một số hiện tượng chưa đẹp, chưa vui mà mình phải chứng kiến "không mấy vui vẻ..." giữa Thủ đô.

Cô Hiền than thở về tuổi già hay nghĩ ngợi mọi chuyên một cách duy tâm, "y hệt một bà già nhà quê". Cô kể chuyện về gió bão làm cây si cổ thụ ở đền Ngọc Sơn đổ nghiêng, tán đè lên hậu cung... Lúc đầu cô nghĩ đó là "sự dời đổi, điềm xấu - là sự ra đi của một thời". Nhưng cây si không bị chết, bị bổ ra làm củi mà rồi nó lại được cứu sống, sau một tháng, lại trổ ra lá non. Cô Hiền suy ngẫm: "Thiên địa tuần hoàn, cái vào ra của tạo vật không thể lường trước được".

Người cháu cảm phục, khẽ thốt lên ở trong lòng: "Bà già giỏi quá, bà khiêm tốn và rộng lượng quá". Cô Hiền là "một hạt bụi vàng", nhỏ bé, nhưng rất đẹp. Tâm hồn cô, tính cách của cô cùng với bao người khác là biểu tượng tuyệt đẹp cho vẻ đẹp thanh lịch trong sáng và phẩm chất cao quý của con người Hà Nội.

Chẳng thơm cũng thể hoa nhài,

Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An.

Ca dao

Tình cảm của đứa cháu, của nhân vật "tôi" cũng như của mỗi chúng ta là "thật tiếc" khi một người như cô Hiền phải chết đi, "một hạt bụi vàng của Hà Nội rơi xuống chìm sâu vào lớp đất cổ". Chúng ta hi vọng và ước mong vẻ đẹp thanh lịch, cốt cách của người Tràng An "Những hạt bụi vàng lấp đâu đó ở mỗi góc phố Hà Nội hãy mượn gió mà bay lên cho đất kinh kì chói sáng những áng vàng!".

Những suy ngẫm của cô Hiền, của người cháu ở phần cuối truyện "Một người Hà Nội" làm cho giọng kể thấm đượm chất trữ tình triết lí. vẻ đẹp thanh lịch, nếp sống văn hoá của con người kinh kì được thể hiện đầy ấn tượng qua nhân vật cô Hiền; ta cảm thấy bức chân dung nghệ thuật ấy được Nguyễn Khải phủ bằng những lớp áng vàng chói sáng.

Năm 2010 sắp đến, đồng bào cả nước ta sẽ tưng bừng kỉ niệm một nghìn năm Thăng Long (1910-2010). Nhân vật cô Hiền, một hạt bụi vàng, trong tập "Một người Hà Nội" của Nguyễn Khải đã và đang toả sáng tâm hồn mỗi chúng ta.

3. Phân tích nhân vật cô Hiền mẫu 2

Một người Hà Nội là tác phẩm rút từ tập truyện Hà Nội trong mắt tôi, tác phẩm tiêu biểu cho ngòi bút Nguyễn Khải ở giai đoạn sáng tác thứ hai. Trong truyện Một người Hà Nội Nguyễn Khải đã xây dựng khá thành công hình tượng nhân vật cô Hiền, một nhân vật khá tiêu biểu cho người Hà Nội.

Cô Hiền, một nhân vật xuyên suốt cả tác phẩm, cô đại diện cho phẩm chất và đẹp của những người phụ nữ thức thời mà vẫn mang đậm vẻ đẹp truyền thống. Những vẻ đẹp ấy được tác giả thể hiện rất rõ trong tác phẩm của mình. Vẻ đẹp mà một người phụ nữ thời hiện đại ngày nay cần phải học tập, cái đáng học tập là truyền thống mà vẫn hiện đại, hiện đại nhưng không mất đi sự truyền thống. Nói cách khác đó chính là hội nhập mà không hòa tan, phát triển đồng thời đi liền với chống lại những cái xấu. Tác giả không dùng một lời nào để nói về ngoại hình của cô Hiền mà tác giả đi sâu vào việc khai thác chiều sâu tâm hồn và tính cách của cô.

Vẻ đẹp của cô Hiền được miêu tả trong nhiều thời điểm khác nhau của lịch sử. Cô Hiền vốn xuất thân trong một gia đình giàu có, lương thiện, được dạy dỗ theo khuôn phép nhà quan, thời trẻ là một thiếu nữ xinh đẹp, thông minh, mở salon văn chương để giao lưu rộng rãi với giới văn nghệ sĩ Hà thành. Cô là con người trí thức, hiểu biết rộng, là con người có “bộ mặt tư sản”, một cách sống rất tư sản: “Ở trong một tòa nhà rộng, tọa lạc ngay tại một đường phố lớn, hướng nhà nhìn thẳng ra cây si cổ thụ và hậu cung đền Ngọc Sơn”. Cô làm ăn lương thiện với cửa hàng hoa giấy do chính tay tự làm và các con phụ giúp. Trong quan hệ với người làm, chủ và tớ “dựa vào nhau mà sống”. Tình nghĩa như người trong họ. Đây chính là vẻ đẹp của người lao động chân chính, có nhân có nghĩa.

Vẻ đẹp thanh lịch của cô được thể hiện ở cách nuôi dạy con, uốn nắn cho chúng từ thói quen nhỏ nhất như cách cầm bát đũa, cách múc canh, cách nói chuyện trong bữa ăn, cách đi đứng. Với cô Hiền đây không phải là chuyện sinh hoạt vặt vãnh mà là văn hóa sống, văn hóa ứng xử của người Hà Nội: “Là người Hà Nội thì cách đi đứng nói năng phải có chuẩn, không được sống tùy tiện buông tuồng”. Cô còn nói làm người Hà Nội thì phải “biết lòng tự trọng, biết xấu hổ”. Đây không phải là biểu hiện của sự kỹ tính mà thể hiện nét tinh tế của một người có văn hóa.

Vẻ đẹp của cô Hiền còn là vẻ đẹp của một nhân cách sống cao thượng luôn coi lòng tự trọng là thước đo phẩm giá của mình. Lòng tự trọng ấy được thể hiện rõ nét nhất qua câu chuyện của cô về hai người con đi bộ đội. Là người mẹ ai mà không yêu con, không muốn con gặp gian nguy, bất trắc nhưng ở đây cô Hiền muốn dạy con đừng bao giờ sống đớn hèn, sống bám vào sự hi sinh của người khác là sống đáng hổ thẹn. Lòng tự trọng không cho phép con cô sống hèn nhát, ích kỷ. Ở đây cô còn hiện lên vẻ đẹp của người mẹ thời chiến có ý thức trách nhiệm với đất nước với dân tộc, biết sẻ chia trước đau thương mất mát của biết bao người mẹ khác. Lòng tự trọng giúp con người ta sống có trách nhiệm với cộng đồng. Ở cô Hiền, lòng tự trọng của cá nhân đã hòa vào lòng tự trọng của dân tộc. Đây là một cách ứng xử rất nhân bản.

Cô còn là con người luôn lưu giữ những niềm tin vào cuộc sống. Dù sống trong cơn lốc thị trường làm xói mòn đi nếp sống của người Hà Nội ngàn năm văn vật nhưng nó không làm lay chuyển được ý thức của con người luôn tin vào giá trị văn hóa bền vững của Hà Nội không thể mất đi. Cô quan niệm rằng với người già, bất kể ai, cái thời đã qua luôn là thời vàng son, mỗi thế hệ đều có thời vàng son của họ. Hà Nội thì không thế. Thời nào nó cũng đẹp, một vẻ đẹp riêng cho mọi lứa tuổi. Đấy chính là niềm tin mãnh liệt vào những giá trị cổ truyền.

Qua đây ta thấy cô Hiền mà nhà văn Nguyễn Khải xây dựng lên thật đẹp. Một người phụ nữ không chỉ giỏi việc nhà mà lo được cả việc cho xã hội. Nó thể hiện sự nhỏ bé của cô Hiền nhưng lại làm nên một vẻ đẹp đại diện cho những người phụ nữ đương thời.

4. Phân tích nhân vật cô Hiền mẫu 3

Truyện Một người Hà Nội của nhà văn Nguyễn Khải, in trong tập truyện cùng tên xuất bản năm 1990, thời kì đổi mới của nền văn học Việt Nam.

Cô Hiền là nhân vật chính của truyện. Qua nhân vật cô Hiền, tác giả phát hiện ra bao vẻ đẹp trong chiều sâu tầm hồn, tính cách con người Hà Nội, tiêu biểu cho người phụ nữ Việt Nam trước bao biến động, thăng trầm và phát triển của đất nước.

Nhân vật “tôi” giới thiệu về cô Hiền, nói lên về những suy nghĩ và tình cảm quý mến đối với cô Hiền — “Chị em đôi con dì ruột với mẹ già tôi”.

Tác giả không nói về ngoại hình của cô Hiền mà chỉ kể, chi giới thiệu về ngôn ngữ, cách sống, cách ứng xử của cô Hiền trong các quan hệ gia đình chồng con với người thân, với bạn bè, với thời cuộc.

Khi đứa cháu, anh bộ đội Cụ Hồ thân mật và tò mò hỏi cô về thành phần giai cấp, về chuyện “tại sao cô không phải học tập cải tạo...” thì cô cười rất tươi: “Tại sao chưa đủ tiêu chuẩn”, và thản nhiên nói: “Tao có bộ mặt rất tư sản, một cách sống rất tư sản, nhưng lại không bóc lột ai cả thì làm sao thành tư sản được”.

Khi nhiều bè bạn ngờ vực: “Trông bà như tư sản mà không bị học tập cũng lạ nhỉ?”, thì cô nhẹ nhàng trả lời: “Các bà không biết nhưng nhà nước lại rất biết”. Đúng là có khôn hơn các bà bạn, và “thức thời’’ hơn ông chồng. Trước đây, nhà cô cũng thuê một anh bếp và một chị vú. Chị vú trông coi con cho cô từ năm 19 tuổi đến năm 45 tuổi. Trong suốt 26 năm trời đó, cô coi anh bếp cô vú “tình nghĩa như người trong họ”, đối xử rất tử tế, nên sau này khi đã về quê, đã làm chủ nghiệm hợp tác xã. hai vợ chồng vẫn qua lại thân tình, “ngàv giỗ ông chú và ngày Tết đều đem gạo, đậu xanh, miến và rượu, toàn của nhà làm cả, lên biếu cô và các em”.

Chuyện làm ăn cũng cho thấy cô “khôn hơn" các bà bạn và “thức thời hơn” ông chồng. Chồng cô dạy học, nhờ viết sách mà có được một ít tiền nên tậu được hai dinh cơ. một nhà đang ở và một nhà ở Hàng Bún cho thuê. Tháng 10 năm 1954. Hà Nội được giải phóng thì năm 1956, cô bán ngôi nhà ở Hàng Bún cho một người bạn mới ở kháng chiến về. Chỉ một năm sau, cái thời “cải tạo...". một cán bộ tới hỏi về nhà cửa, nhắc tới ngôi nhà ở Hàng Bún, cô Hiền trả lời rất lịch thiệp:”Xin mời anh tới ngôi nhà anh vừa nói, hỏi thẳng chủ nhà xem họ trả lời ra sao. Nếu còn thắc mắc xin mời anh trở lại”.

Khi ông chồng không được phép mở trường tư thục muốn mua một máy in nhỏ đế kinh doanh, cô Hiền đã hỏi chồng: “Ông có đứng máy được không? Ông có sắp chữ được không?”. Ông muốn làm một ông chủ dưới chế độ này à?”, ông chồng “tính vốn nhát, rút lui ngay” trước những câu hỏi rất thức thời của người vợ.

Cô Hiền cũng kinh doanh, cũng buôn bán, cũng có cửa hàng cửa hiệu. Nhưng cô chi bán một thứ hoa giấy. Các loại hoa giấy, lẵng hoa đan băng tre...rất đẹp do tự tay cô làm ra, bán rất đắt, nhưng “chịu thuế rất nhẹ”, chăng mang tiếng tư sản, tiểu chủ gì cả giữa cái thời “cải tạo và đấu tranh giai cấp.. Cô Hiền thật khôn ngoan, cô biết sống hợp lí, ứng xử theo thời thế. Phải là con người chín chắn và từng trải mới có cách sống, cách làm ăn như thế, có “đầu óc rất thực tế” như thế.

Cô Hiền rất mẫn cảm, sắc sảo và tế nhị. Nghe con kêu ầm lên: ‘Mẹ ơi! Đồng chí Khải đến!” thì cô gắt lên: “Phải gọi là anh Khải, hiểu chưa”. Khi thấy người chồng nắm tay đứa cháu, hỏi hồn nhiên: “Tại sao chủ nhật trước đồng chí không ra chơi, cả nhà chờ cơm mãi”, thì cô “thở dài, quay người đi”. Khi đứa cháu hỏi về dân tình, thời thế, cô trả lời: “Vui hơi nhiều, nói cũng hơi nhiều, phải nghĩ đến làm ăn chứ?”. Khi nghe chị vú kể lại cho cả nhà nghe có anh cán bộ bám theo “xui”, cô Hiền bình luận: “Cách mạng gì toàn để ý những chuyện lặt vặt”.

“Cô Hiền bên ngoại, chị Đại bên nội” là những phụ nữ Hà thành giỏi giang, giàu bản lĩnh, tất cả mọi việc đều được các bà ấy “tính toán trước cả”, và luôn luôn “tính đúng”. Các bà ấy “không có lòng tự ái, sự ganh đua, thói thời thượng chen vô”. Các bà ấy “không có sự lãng mạn hay mộng mơ vớ vẫn. Đã tính là làm, đã làm là không thèm đế ý đến những đàm tiếu của thiên hạ”. Đó là lời nhận xét của người cháu - đồng chí Khải.

Cô Hiền tuvên bô thẳng thừng với đứa cháu: “Một đời tao chưa từng bị ai cám dỗ, kể cả chế độ”. Vốn là gái Hà Nội, con nhà giàu sang, nhưng gần ba chục tuổi cô mới đi lấy chồng. Không lấy một ông quan nào hết. Chẳng hứa hẹn gì với đám nghệ sĩ văn nhân. Cô chỉ chọn một ông giáo cấp Tiểu học hiền lành kết bạn trăm năm, để làm vợ, làm mẹ, “khiến cả Hà Nội kinh ngạc”.

Sau khi sinh đứa con thứ năm, cô nói với chồng: “Từ nay là chấm dứt chuyện sinh đẻ, bốn mươi tuổi rồi, nếu ông và tôi sống đến sáu chục tuổi thì con út đã hai mươi, có thể tự lập được khỏi phải sống bám vào các anh chị".

Cô Hiền đặc biệt coi trọng vai trò người phụ nữ gia đình: người vợ không chi là nội trợ mà là “nội tướng”. Cô phê bình người cháu - đồng chí Khải: “Mày bắt nạt vợ mày quá, không để nó tự quyết định bất cứ việc gì, vậy là hỏng". Người đàn bà không là “nội tướng thì cái gia đình ấy cũng chẳng ra sao”.

Là người mẹ cô săn sóc và quan tâm dạy bảo các con phải “biết tự trọng, biết xấu hổ", nghĩa là biết giữ lấy nhân cách. Ngay từ khi các con còn nhỏ, ngồi vào bàn ăn, cô thường chú ý “sửa cách ngồi, cách cầm bát đũa, cách múc canh, cả cách nói chuyện trong bữa ăn”. Cô khuyên con cháu: “Chúng mày là người Hà Nội thì cách đi đứng, nói năng phải có chuẩn, không được sống tùy tiện, buông tuồng”.

Gia huấn ca tương truyền là của Nguyễn Trãi có đoạn:

Khi còn bé tại gia hầu hạ,
Dưới hai thân vâng dạ theo lời.
Khi đi, khi đứng, khi ngồi,
Vào trong khuôn phép, ra ngoài đoan trang...

Phái chăng cô Hiền đã dạy con cháu cách sống theo nền nếp của người xưa? Cô đã nói rõ với người cháu về '‘nghĩa vụ” của người mẹ là dạy con cái: “biết tự trọng, biết xấu hổ, còn sau này muốn ra sao là tùy”.

Giữa thời chống Mỉ. cô Hiền đã thể hiện tình mẹ con và ý thức công dân rất rõ. Năm 1965, Hà Nội có đợt tuyển quân vào chiến đấu trong Nam, đợt đầu được tuyên chọn rất kĩ càng, có khoáng 660 người, “là những chàng trai ưu tú của Hà Nội”. Dũng là con đầu của cô Hiền vừa tốt nghiệp trung học, tình nguyện xin đi đánh Mĩ lần ấy. Khi đứa cháu hỏi: “Cô bằng lòng cho em đi chiến đấu chứ?” Cô trả lời: “Tao đau đớn mà bằng lòng, vì tao không muốn nó sống bám vào sự hi sinh của bạn. Nó dám đi cũng là biết tự trọng”. Suốt ba năm trời, cô không hề nhận được một tin tức gì của đứa con đã ra di. Nhưng khi đứa em kêu làm đơn đi đánh Mĩ, cô đã trả lời khi người cháu hỏi: “Tao không khuyến khích, cũng không ngăn cản, ngăn cản tức là bảo nó tìm đường sống để các bạn nó phải chết, cũng là một cách giết chết nó”.

Cô Hiền nhắc lại: “Nhiều người tới Hà Nội đã sống lại”. Người cháu kể lại một số hiện tượng chưa đẹp, chưa vui mà mình phải chứng kiến “không mấy vui vẻ...” giữa thủ đô.

Cô Hiền than thở về tuổi già hay nghĩ ngợi mọi chuyện một cách duy tâm y hệt một bà già nhà quê”. Cô kể chuyện về gió bão làm cây si cổ thụ ở đền Ngọc Sơn đổ nghiêng, tán đè lên hậu cung... lúc đầu cô nghĩ đó là “sự dời đổi, điềm xấu là sự ra đi của một thời”. Nhưng cây si không bị chết, bị bổ ra làm củi mà rồi nó lại được cứu sống, sau một tháng, lại trổ ra lá non. Cô Hiền suy ngầm: “Thiên địa tuần hoàn, cái vào ra của tạo vật không thể lường trước được”.

Người cháu cảm phục, khẽ thốt lên ở trong lòng: “Bà già giỏi quá, bà khiêm tốn và rộng lượng quá". Cô Hiền là “một hạt bụi vàng”, nhỏ bé, nhưng rất đẹp. Tâm hồn cô, tính cách của cô cùng với bao người khác là biểu tượng tuyệt đẹp cho vẻ đẹp thanh lịch trong sáng và phẩm chất cao quý của con người Hà Nội.

Chẳng thơm cũng thể hoa nhài,
Dẫu không thanh lịch cũng ngườiTràng An.

Ca dao

Tình cảm của đứa cháu, của nhân vật “tôi” cũng như của mỗi chúng ta là “thật tiếc" khi một người như cô Hiền phải chết đi, “một hạt bụi vàng của Hà Nội rơi xuống chìm sâu vào lớp đất cổ”. Chúng ta hi vọng và ước mong vẻ đẹp thanh lịch, cốt cách của người Tràng An “Những hạt bụi vàng lấp lánh đâu đó ở mỗi góc phố Hà Nội hãy mượn gió mà bay lên cho đất kinh kì chói sáng những áng vàng!”.

Những suy ngẫm của cô Hiền, của người cháu ở phần cuối truyện Một người Hà Nội làm cho giọng kể thấm đượm chất trữ tình triết lí, vẻ đẹp thanh lịch, nếp sống văn hóa của con người kinh kì được thể hiện đầy ấn tượng qua nhân vật cô Hiền; ta cảm thấy bức chân dung nghệ thuật ấy được Nguyễn Khải phủ bằng những lớp áng vàng chói sáng.

Năm 2010 , đồng bào cả nước ta tưng bừng kỉ niệm một nghìn năm Thăng Long (1910-2010). Nhân vật cô Hiền, một hạt bụi vàng, trong tập Một người Hà Nội của Nguyễn Khải đã và đang tỏa sáng tâm hồn mỗi chúng ta.

5. Phân tích nhân vật cô Hiền mẫu 4

Nếu như Nguyễn Minh Châu viết lên số phận người đàn bà hàng chài trong thời kì đổi mới để qua đó thấy được vẻ đẹp của người phụ nữ hàng chài cam chịu, hi sinh vì gia đình thì Nguyễn Khải cũng góp vào hình tượng người phụ nữ trong thời kì đổi mới với nhân vật cô Hiền trong tác phẩm Một người Hà Nội. Tuy cùng một giai đoạn thời kì đổi mới nhưng chúng ta thấy được sự khác nhau giữa số phận của hai nhân vật này. Nhân vật cô Hiền có cuộc sống hạnh phúc hơn và cái mới trong hình tượng người phụ nữ mà Nguyễn Khải đã mang đến chính là những vẻ đẹp của cô Hiền - người phụ nữ trong giai đoạn mới. Cô được ví như “hạt bụi vàng” của Hà Nội.

Cô đại diện cho phẩm chất và đẹp của những người phụ nữ thức thời mà vẫn mang đậm vẻ đẹp truyền thống. Những vẻ đẹp ấy được tác giả thể hiện rất rõ trong tác phẩm của mình. Vẻ đẹp mà một người phụ nữ thời hiện đại ngày nay cần phải học tập, cái đáng học tập là truyền thống mà vẫn hiện đại, hiện đại nhưng không mất đi sự truyền thống. Nói cách khác đó chính là hội nhập mà không hòa tan, phát triển đồng thời đi liền với chống lại những cái xấu. Tác giả không dùng một lời nào để nói về ngoại hình của cô Hiền mà tác giả đi sâu vào việc khai thác chiều sâu tâm hồn và tính cách của cô.

Hoàn cảnh sống của cô là khi miền Bắc đang đi lên xây dựng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế thị trường phát triển. Bên cạnh những mặt tích cực của cuộc sống thì cũng có những mặt tiêu cực. Vẻ đẹp của cô Hiền được tác giả ví như “hạt bụi vàng” của Hà Nội.

Cách sống của cô khiến cho người ta nghĩ cô là tư sản nhưng cô không chú ý đến. Khi đứa cháu, anh bộ đội Cụ Hồ thân mật và tò mò hỏi cô về thành phần giai cấp, về chuyện “tại sao cô không phải học tập cải tạo. . . ” thì cô cười rất tươi: “Tại sao chưa đủ tiêu chuẩn”, và thản nhiên nói: “Tao có bộ mặt rất tư sản, một cách sống rất tư sản, nhưng lại không bóc lột ai cả thì làm sao thành tư sản được”. Như vậy có thể thấy cô rất kiên trực, cô sống theo cách của cô mà không sợ ai nói gì miễn sao cô không làm hại ai.

Khi nhiều bè bạn ngờ vực: “Trông bà như tư sản mà không bị học tập cũng lạ nhỉ?”, thì cô nhẹ nhàng trả lời: “Các bà không biết nhưng nhà nước lại rất biết”. Đúng là có khôn hơn các bà bạn, và “thức thời’’ hơn ông chồng. Trước đây, nhà cô cũng thuê một anh bếp và một chị vú. Chị vú trông coi con cho cô từ năm 19 tuổi đến năm 45 tuổi. Trong suốt 26 năm trời đó, cô coi anh bếp cô vú “tình nghĩa như người trong họ”, đối xử rất tử tế, nên sau này khi đã về quê, đã làm chủ nghiệm hợp tác xã. Hai vợ chồng vẫn qua lại thân tình, “ngày giỗ ông chú và ngày Tết đều đem gạo, đậu xanh, miến và rượu, toàn của nhà làm cả, lên biếu cô và các em”.

Cô Hiền là một người phụ nữ thức thời bởi vì nhiều cái cô rất thực tế, cô có hai nhà thì một nhà để ở. Chồng cô đòi mua máy in thì cô hỏi ông có đứng may được không. Ông chồng lại đành thôi. Như vậy không phải vì cô tiếc tiền hay hống dịch mà là vị khi đang khó khăn cô biết nên dành tiền cho việc gì và không dùng cho việc gì.

Cô hiện lên là một người vợ đảm đang dẫu nền kinh tế khó khăn những cô vẫn có thể nuôi sống gia đình. Đó là một vẻ đẹp đảm đang của người Việt Nam nói chung và của người Hà Nội nói riêng. Không chỉ thế cô lo toan mọi việc trong gia đình kiếm sống nuôi gia đình còn thể hiện sự giỏi giang, cần cù, chăm chỉ của người phụ nữ. Công việc của cô là làm ở một cửa hàng hoa các loại hoa giấy, lẵng hoa đan băng tre. . . rất đẹp do tự tay cô làm ra, bán rất đắt, nhưng “chịu thuế rất nhẹ”, chăng mang tiếng tư sản, tiểu chủ gì cả giữa cái thời “cải tạo và đấu tranh giai cấp. . Cô Hiền thật khôn ngoan, cô biết sống hợp lí, ứng xử theo thời thế. Phải là con người chín chắn và từng trải mới có cách sống, cách làm ăn như thế, có “đầu óc rất thực tế” như thế.

Không chỉ vậy cô Hiền còn biết dạy con mình thành một người có trách nhiệm với tổ quốc và một người trưởng thành. Cô khuyên con của cô đi tòng quân vào miền Nam đánh giặc, có người thân ai mà chẳng sợ mất đi họ nhưng vì tổ quốc cần vì miền Nam ruột thịt cô khích lệ con mình nên đi. Như vậy không phải cô đẩy con mình vào chỗ chết mà cô đang dạy con mình yêu nước thương dân, dạy con mình biết vì người khác. Đó chẳng phải là một vẻ đẹp của người phụ nữ Việt nam hay sao, một người mẹ hay sao?. Cô còn là một người chuẩn Hà Nội không pha trộn, có những cái mới du nhập vào nhưng cô thì vẫn vậy vẫn giữ y nguyên cái phẩm chất và tính cách của người Hà Nội. Đó là vẻ đẹp của truyền thống giống câu:

“Chẳng thơm cũng thể hoa nhài

Dẫu không thanh lịch cũng người Tràng An”

Không những thế cô Hiền tỏ ra là một người rất sắc sảo và tế nhị, khi gọi là đồng chí Khải thì cô mắng đứa con là phải gọi là “anh Khải”. Ngày thường cô ăn mặc rất bình dân nhưng có những buổi liên hoan thì cô lại rất trang trọng. Và đặc biệt cô rất biết giữ lời ăn tiếng nói của mình, với những người bình dân thân thiết thì ăn nói thô tục sao cũng được nhưng trước những người quý phái thì phải tế nhị.

Qua đây ta thấy cô Hiền mà nhà văn Nguyễn Khải cất công xây dựng lên thật đẹp. Một người phụ nữ không chỉ giỏi viêc nhà mà lo được cả việc cho xã hội. Cô đúng là hạt bụi vàng của Hà Nội. Hạt bụi vốn để người ta chỉ những cái vô cùng bẩn và nhỏ bé nhưng ở đây tác giả lại nói là hạt bụi vàng. Nó thể hiện sự nhỏ bé của cô Hiền nhưng lại làm nên một vẻ đẹp đại diện cho những người phụ nữ đương thời.

6. Phân tích nhân vật cô Hiền mẫu 5

Nguyễn Khải là một nhà văn vô cùng tiêu biểu cho nền văn học Việt Nam trong thời kỳ đổi mới. Tác phẩm của ông luôn chứa đựng nhiều cái nhìn trăn trở, chiêm nghiệm, cảm nhận chân thực sự hối hả, xô bồ, đổi thay nhưng cũng đầy hương sắc của xã hội. Nhân vật cô Hiền trong tác phẩm "Một người Hà Nội" của tác giả đã nêu lên những nét đẹp và sức sống bất diệt của Hà Thành. Qua nhân vật này, tác giả đã gửi gắm biết bao nhiêu điều có tính triết lý về sự thay đổi của thời cuộc, không gian và thời gian, nhưng vẻ đẹp cùng những văn hóa truyền thống của con người Hà Nội vẫn sẽ mãi không thay đổi.

Nhân vật cô Hiền vốn có nguồn gốc xuất thân trong một gia đình quyền quý, được dạy dỗ đến nơi đến chốn, giàu có, lương thiện, thời trẻ chính là một thiếu nữ vô cùng xinh đẹp. Cô là người có tri thức hiểu biết rộng, cô là người có cách sống rất tư sản, bộ mặt tư sản. Phong cách ăn mặc của cô cũng vô cùng sang trọng "Mùa đông đi giày nhung đính hạt cườm, mặc áo Măng - tô cổ lông". Cách ăn của bà cũng khác hẳn với dân thường: "Có khăn trắng trải bàn, giữa bàn có một lọ hoa nhỏ, đũa bọc trong giấy bản, bát úp trên đĩa và từng người ngồi đúng chỗ quy định". Đây là một lối sống vô cùng nghiêm khắc, nề nếp, thanh lịch, nhìn vào cứ tưởng tư sản nhưng thực chất cô Hiền không phải là người tư sản bởi cô chẳng bóc lột ai bao giờ. Cô còn làm ăn cực kỳ lương thiện, cửa hàng giấy hoa do chính tay cô gây dựng lên và có sự trợ giúp của các con. Trong quan hệ với người làm, cô đối xử vô cùng tốt, chính vì vậy mà cho đến mãi về sau khi về quê, cô vẫn được những người làm đến thăm cho gạo, bánh,...Đây chính là nét đẹp của những người lao động lương thiện, chân chính, sống có tình nghĩa.

Khi hòa bình lập lại, tác giả từ kháng chiến trở về. Hà Nội cũng nhỏ và người cũng vắng hơn trước, rất nhiều người đã đi tìm vùng đất mới để làm ăn, sinh sống. Riêng gia đình cô Hiền vẫn bám trụ lại Hà Nội bởi họ đã quen với nếp sống nơi đây không thể sinh cơ lập nghiệp ở nơi khác. Đây chính là tình yêu da diết, mãnh liệt của cô đối với mảnh đất Hà Nội.

Nhân vật cô Hiền mang vẻ đẹp thanh lịch, cao sang của người đất kinh kỳ. Đó chính là vẻ đẹp xuất phát từ nội tâm nhân vật và không ngừng được vun đắp. Vẻ đẹp thanh lịch đó được thể hiện qua cách cô dạy con, cách múc canh, cách nói chuyện trong bữa ăn, cách cầm bát đũa, cách đi đứng,...Điều này thật khác hẳn với nếp sống sinh hoạt của nhân vật "tôi". Với cô Hiền, đây không chỉ đơn giản là đời sống sinh hoạt vặt vãnh mà sâu xa hơn đó chính là văn hóa ứng xử, văn hóa sống của người dân Hà Nội. Cô còn nói rằng người Hà Nội là phải có lòng tự trọng, biết xấu hổ. Đây không phải là biểu hiện của sự kỹ tính, khó gần mà đó chính là vẻ đẹp tinh tế của một người có văn hóa.

Vẻ đẹp thanh lịch ấy còn được thể hiện qua phong cách sống của cô hằng ngày, qua những thói quen lịch lãm rất đậm chất Hà Nội. Dường như sự lịch lãm ấy đã chảy trong dòng máu của gia đình cô suốt bao thời gian qua.

Sau chiến tranh, giữa cuộc sống đời thường, vẻ đẹp của cô Hiền được hiện lên bình dân như bao con người khác "Quần thâm, khăn len buộc đầu, đi ép hoặc guốc, áo bông ngắn". Nhưng điều đáng quý là ở quan niệm sống của bà rằng xã hội lúc nào cũng phải tồn tại một giai cấp thượng lưu để nó làm quy chuẩn cho mọi giá trị. Đây chính là một quan niệm đẹp về cái thanh lịch, khác với xuề xòa, buông tuồng.

Vẻ đẹp của cô Hiền còn được thể hiện qua cách sống cao thượng, luôn coi lòng tự trọng là thước đo phẩm giá của mình. Lòng tự trọng đó được thể hiện rõ nét qua chi tiết hai người con ruột của cô xung phong đi bộ đội, tham gia chiến đấu giành lại độc lập cho Tổ quốc. Khi hai đứa con cô có ý định đó, cô không hề lưỡng lự, do dự mà đồng ý luôn, không phải vì cô không thương con, không xót con mà vì cô không muốn hai đứa sống bám vào sự hy sinh cao cả của bạn bè đồng trang lứa, cô cũng muốn công bằng như bao bà mẹ khác, cô hiểu được rằng đã là công dân Việt Nam thì phải có ý thức trách nhiệm với sự sinh tồn của Tổ quốc. Là một người mẹ ai mà không yêu con, không muốn con gặp những khó khăn, gian nguy, bất trắc nhưng ở đây cô Hiền muốn dạy con sống không được hèn nhát, sống bám vào sự hy sinh của người khác chính là đáng hổ thẹn. Lòng tự trọng không cho phép con bà hèn nhát, nhút nhát, ích kỷ. Nhân vật cô Hiền ở đây được hiện lên là người có ý thức trách nhiệm với đất nước, dân tộc, biết chia sẻ những nỗi đau thương, mất mát với biết bao bà mẹ khác.

Để làm nên sự thành công của tác phẩm nói chung và nhân vật bà Hiền nói riêng đó chính là nhờ vào ngòi bút tài hoa, sự tinh tế của tác giả Nguyễn Khải qua ngôn ngữ kể chuyện đặc sắc, có tính cá thể hóa. Nhà văn đã không tập trung miêu tả chi tiết nhân vật, mà chủ yếu là kể bằng quan sát, phân tích và đưa ra những lời bình đầy ý nghĩa.

Qua nhân vật cô Hiền, tác giả đã khẳng định sức sống mãnh liệt, bền bỉ của các giá trị văn hóa mang nét đẹp Hà Thành. Qua đó tác giả muốn nhắn nhủ rằng mọi thế hệ mai sau phải luôn giữ gìn và lưu truyền bản sắc văn hóa đó. Chúng ta phải luôn biết tự hào về đất nước, về dân tộc, về con người Việt Nam. Nhân vật cô Hiền chính là hạt bụi vàng trong bể vàng trầm tích của văn hóa xứ sở.

7. Phân tích nhân vật cô Hiền mẫu 6

Nguyễn Khải là nhà văn nổi tiếng với những tác phẩm “Mùa lạc”,“Một chặng đường”,“Tầm nhìn xa”. Trước năm 1978, tác phẩm của Nguyễn Khải là cái nhìn tỉnh táo, sắc lạnh, luôn khai thác hiện thực trong thế xung đột, đối lập cũ – mới, tốt – xấu, ta – địch. Từ năm 1978 trở về sau, tác phẩm của ông là cái nhìn trăn trở, chiêm nghiệm, cảm nhận cái hiện thực xô bồ, hối hả, đổi thay nhưng cũng đầy hương sắc. Chuyển mạnh từ hướng ngoại sang hướng nội. Nhà văn nhìn con người trong mối quan hệ chặt chẽ với lịch sử, quá khứ dân tộc, gia đình và sự tiếp nối thế hệ. Từ đó nhà văn khẳng định những giá trị nhân văn cao đẹp của cuộc sống và con người hôm nay. Nhân vật bà Hiền trong tác phẩm tiêu biểu cho hướng tiếp cận ấy của nhà văn.

Tác phẩm “Một người Hà Nội” tiêu biểu cho các tác phẩm của Nguyễn Khải sau giai đoạn 1978, vẻ đẹp của hình tượng của cô Hiền tiêu biểu cho nét đẹp và sức sống bất diệt của Hà thành. Qua nhân vật này, nhà văn Nguyễn Khải đã nói lên biết bao nhiêu điều có tính triết lý về sự thay đổi của thời gian, không gian nhưng vẻ đẹp của con người và vốn văn hóa cùng tính cách người Hà Nội mãi là giá trị tinh thần không thay đổi.

Nhân vật cô Hiền vốn xuất thân trong một gia đình giàu có, lương thiện, được dạy dỗ theo khuôn phép nhà quan, thời trẻ là một thiếu nữ xinh đẹp, thông minh, mở xalông văn chương để giao lưu rộng rãi với giới văn nghệ sĩ Hà thành. Cô là con người trí thức, hiểu biết rộng, là con người có “bộ mặt tư sản”, một cách sống rất tư sản: “Ở trong một tòa nhà rộng, tọa lạc ngay tại một đường phố lớn, hướng nhà nhìn thẳng ra cây si cổ thụ và hậu cung đền Ngọc Sơn”. Cái mặc cũng sang trọng quá: “Mùa đông ông mặc áo Ba-đờ-xuy, đi giày da, bà mặc áo Măng-tô cổ lông, đi giày nhung đính hạt cườm”. Cái ăn cũng không giống với số đông: “Bàn ăn trải khăn trắng, giữa bàn có một lọ hoa nhỏ, bát úp trên đĩa, đũa bọc trong giấy bản, và từng người ngồi đúng chỗ quy định”. Đây là một lối sống nền nếp, lịch lãm, nhìn thì cứ ngỡ là tư sản nhưng thực chất cô Hiền không phải là tư sản bởi vì “Cô không bóc lột ai cả thì làm sao gọi là tư sản”. Cô làm ăn lương thiện với cửa hàng hoa giấy do chính tay tự làm và các con phụ giúp. Trong quan hệ với người làm, chủ và tớ “dựa vào nhau mà sống”. Tình nghĩa như người trong họ. Đây chính là vẻ đẹp của người lao động chân chính, có nhân có nghĩa.

Vẻ đẹp của cô Hiền được miêu tả trong nhiều thời điểm khác nhau của lịch sử. Nhân vật lại có những biểu hiện ứng xử thể hiện cá tính đặc biệt nhất quán.

Khi hòa bình lập lại 1955, nhân vật “Tôi” từ kháng chiến trở về. “Hà Nội nhỏ hơn trước, vắng hơn trước”. Người thì tìm những vùng đất mới để làm ăn, sinh sống. Riêng gia đình cô Hiền vẫn ở lại Hà Nội “Họ không thể rời xa Hà Nội, không thể sinh cơ lập nghiệp ở vùng đất khác”. Đây chính là sự gắn bó máu thịt, tình yêu của cô đối với Hà Nội. Hay sau kháng chiến chống Mỹ, mỗi bận nhân vật “tôi” từ Sài Gòn trở về Hà Nội, bà băn khoăn hỏi “Anh ra Hà Nội lần này thấy phố xá như thế nào, dân tình thế nào ?”. Cứ ngỡ đó chỉ là câu hỏi xã giao nhưng thực chất là chứa đựng tất cả những đau đáu, phấp phỏng và hi vọng về tương lai Hà Nội.

Nhân vật bà Hiền mang vẻ đẹp thanh lịch của người đất kinh kỳ. Đó là vẻ đẹp có trong bản thân nhân vật và được nhân vật không ngừng ý thức vun đắp. Đúng như câu ca xưa viết về con người Hà Nội:

“Chẳng thơm cũng thể hoa lài

Chẳng lịch cũng thể con người Tràng An”

Vẻ đẹp thanh lịch đó được thể hiện ở cách bà nuôi dạy con, uốn nắn cho chúng từ thói quen nhỏ nhất như cách cầm bát đũa, cách múc canh, cách nói chuyện trong bữa ăn, cách đi đứng… Điều này thật khác với cách sinh hoạt của gia đình nhân vật xưng tôi “Cứ việc sục muôi, sục đũa vào, vừa ăn vừa quát mắng con cái, nhồm nhoàm, hả hê, không phải theo một quy tắc nào cả”. Với bà Hiền đây không phải là chuyện sinh hoạt vặt vãnh mà là văn hóa sống, văn hóa ứng xử của người Hà Nội: “Là người Hà Nội thì cách đi đứng nói năng phải có chuẩn, không được sống tùy tiện buông tuồng”. Bà còn nói làm người Hà Nội thì phải “biết lòng tự trọng, biết xấu hổ”. Đây không phải là biểu hiện của sự kỹ tính mà thể hiện nét tinh tế của một người có văn hóa.

Vẻ đẹp thanh lịch ấy còn thể hiện qua lối sống, qua những thói quen lịch lãm rất Hà Nội. Dường như sự lịch lãm ấy như dòng máu chảy trong huyết quản của bà qua bao thời gian. Thời thiếu nữ thì mở xalông văn chương, khi về già thì tĩnh tâm hưởng ngoạn cái đẹp, trang trọng giữa nhịp sống xô bồ, náo nhiệt với hình ảnh ngồi “Tỉa thủy tiên mỗi khi xuân về”, qua không khí căn phòng khách cổ kính, trang trọng với “Bình phong bằng gỗ chạm… Cái sập gụ chân quỳ … Cái lư hương đời Hán”. Tất cả đều tinh tế và quý phái đậm hồn Hà Nội.

Sau chiến tranh, giữa đời thường là vẻ đẹp của một bà Hiền bình dân như bao con người khác “Áo bông ngắn, quần thâm, đi dép hoặc đi guốc, khăn len buộc đầu”. Nhưng điều đáng quý ở bà là quan niệm sống “Xã hội lúc nào cũng phải có một gia tầng thượng lưu của nó để làm chuẩn cho mọi giá trị”. Đây là một quan niệm đẹp về cái chuẩn thanh lịch. Khác với kiểu buông tuồng. Bữa tiệc chiêu đãi hai anh lính từ chiến trường miền Nam trở về đã giúp tác giả nói lên được vẻ đẹp ấy, đó là vẻ đẹp thanh lịch đúng chuẩn của con người Hà Nội. “Các ông mũ dạ, áo ba-đờ-xuy, cổ thắt caravat, các bà lược giắt trâm cài hoa hột lấp lánh, áo nhung, áo dạ, đeo ngọc, đeo dây đi lại uyển chuyển”. Vẻ đẹp này không chỉ là vẻ đẹp một thời mà là cả một đời, nó sẽ là vẻ đẹp trầm tích văn hóa cho một thời vàng son của lịch sử.

Ngoài vẻ đẹp thanh lịch quý phái, ở bà còn toát lên vẻ đẹp của bản lĩnh cá nhân, bản lĩnh sống của người Hà Nội, hiểu biết, nhận thức về cuộc sống hết sức thực tế. Là người phụ nữ nhưng bà mạnh mẽ, chủ động, tự tin, dám là chính mình. Trong hôn nhân bà chủ động lấy một ông giáo tiểu học hiền lành chăm chỉ. Bà nào chọn ai trong số đám văn nhân một thời vui chơi ? Sự kiện ấy làm cả Hà Nội “kinh ngạc”. Bà tính toán việc sinh con đẻ cái sao cho hợp lý, đảm bảo tương lai con cái. Nếu trong thời kỳ phong kiến vai trò của người phụ nữ bị xem nhẹ thì trong xã hội hôm nay, bà Hiền luôn đề cao người phụ nữ “Người đàn bà không là nội tướng thì cái gia đình ấy cũng chả ra sao”. Bà cũng quyết định luôn cái kinh tế gia đình trong cái buổi giao thời đầy phức tạp. Ông chồng định mở tiệm máy in trong khi nhà nước đang có ý “không thích cá nhân làm giàu”. Bà nhanh chóng cản ngăn “Ông muốn làm ông chủ ở cái chế độ này à?”. Đây chính là cái nhìn tỉnh táo, sáng suốt của con người biết nhìn xa trông rộng.

Bản lĩnh ở bà còn là tính thẳng thắn. Bà bày tỏ rất thẳng nhận xét của mình về cuộc sống với bao vấn đề. Theo bà “Chính phủ can thiệp quá nhiều vào việc của dân quá, nào là phải tập thể dục mỗi sáng, sinh hoạt văn nghệ mỗi tối”. Bà cũng nhận ra cái gì đó không phù hợp trong cách nghĩ “không thích cá nhân làm giàu”. Đây chính là thái độ nói thẳng nói thật của con người trung thực, có cái nhìn sâu sắc với thời cuộc.

Vẻ đẹp của bà Hiền còn là vẻ đẹp của một nhân cách sống cao thượng, vẻ đẹp của con người Hà Nội luôn coi lòng tự trọng là thước đo phẩm giá của mình. Lòng tự trọng ấy được thể hiện rõ nét nhất qua câu chuyện của bà về hai người con đi bộ đội. Khi anh Dũng xin đi bộ đội vào Nam chiến đấu, bà nói với nhân vật “tôi”: “Tao đau đớn mà bằng lòng, vì tao không muốn nó sống bám vào sự hi sinh của bạn bè. Nó dám đi cũng là biết tự trọng”. Đến lượt thằng con thứ hai lên đường bà cũng nói “Tao không khuyến khích cũng không ngăn cản, ngăn cản tức là bảo nó tìm con đường sống để các bạn nó phải chết, cũng là một cách giết chết nó”. Bà muốn sự công bằng như bao bà mẹ khác “Tao cũng muốn sống bình đẳng với các bà mẹ khác, hoặc sống cả, hoặc chết cả, vui lẻ có hay hớm gì”. Là người mẹ ai mà không yêu con, không muốn con gặp gian nguy, bất trắc nhưng ở đây bà Hiền muốn dạy con đừng bao giờ sống đớn hèn, sống bám vào sự hi sinh của người khác là sống đáng hổ thẹn. Lòng tự trọng không cho phép con bà sống hèn nhát, ích kỷ. Ở đây bà còn hiện lên vẻ đẹp của người mẹ thời chiến có ý thức trách nhiệm với đất nước với dân tộc, biết sẻ chia trước đau thương mất mát của biết bao người mẹ khác. Lòng tự trọng giúp con người ta sống có trách nhiệm với cộng đồng. Ở bà Hiền, lòng tự trọng của cá nhân đã hòa vào lòng tự trọng của dân tộc. Đây là một cách ứng xử rất nhân bản.

Bà còn là con người luôn lưu giữ những niềm tin vào cuộc sống. Dù sống trong cơn lốc thị trường làm xói mòn đi nếp sống của người Hà Nội ngàn năm văn vật nhưng nó không làm lay chuyển được ý thức của con người luôn tin vào giá trị văn hóa bền vững của Hà Nội không thể mất đi. Bà quan niệm rằng “Với người già, bất kể ai, cái thời đã qua luôn là thời vàng son, mỗi thế hệ đều có thời vàng son của họ. Hà Nội thì không thế. Thời nào nó cũng đẹp, một vẻ đẹp riêng cho mọi lứa tuổi”. Đấy chính là niềm tin mãnh liệt vào những giá trị cổ truyền. Nhà văn còn đem hình ảnh cây si cổ thụ vào phần cuối của truyện với thái độ ngợi ca nhân vật với sự trân trọng những giá trị tâm linh. Cây si bật gốc đổ lên mái đền Ngọc Sơn nhưng nhờ vào tình yêu và niềm tin của con người mà nó đã sống lại. Sự sống lại cây cổ thụ là niềm lạc quan tin tưởng của tác giả vào sự phục hồi những giá trị tinh thần của Hà Nội. Những giá trị văn hóa bền vững sẽ không mất đi, nhà văn ao ước những giá trị ấy sẽ hóa thân vào hiện tại “Một người như cô phải chết đi thật tiếc, một hạt bụi vàng của Hà Nội rơi xuống chìm sâu vào lớp đất cổ. Những hạt bụi vàng lấp lánh đâu đó ở mỗi góc phố Hà Nội hãy mượn gió mà bay lên cho đất kinh kỳ lung linh chói sáng những ánh vàng”.

Làm nên thành công của tác phẩm nói chung và xây dựng nhân vật bà Hiền nói riêng là nhờ vào ngôn ngữ kể chuyện đặc sắc, có tính cá thể hóa. Nhà văn ít miêu tả, chủ yếu là kể, kể bằng quan sát, phân tích và bình luận sắc sảo giàu ý nghĩa. Giọng điệu trần thuật mang tính trải đời, tự nhiên, trĩu nặng suy tư, giàu chất khái quát, đa thanh, mang đậm yếu tố tự truyện qua “cái tôi”, (giọng kể tự tin xen lẫn hoài nghi, tự hào xen lẫn tự nhiên tăng tính chân thật, khách quan.)

Qua nhân vật bà Hiền, nhà văn khẳng định sức sống bền bỉ của các giá trị văn hóa mang nét đẹp Hà Nội. Qua đó tác giả gửi gắm niềm thiết tha gìn giữ các giá trị ấy cho hôm nay và cho cả mai sau. Từ đó chúng ta thêm yêu quý, tự hào về văn hoá, đất nuớc, con người Việt Nam trong mối quan hệ chặt chẽ với lịch sử, với quá khứ dân tộc, với quan hệ gia đình và nối tiếp thế hệ. Nhân vật bà Hiền là “Một người Hà Nội” mãi mãi là hạt bụi vàng trong bể vàng trầm tích của văn hóa xứ sở.

Chia sẻ, đánh giá bài viết
1
Sắp xếp theo
    🖼️

    Gợi ý cho bạn

    Xem thêm
    🖼️

    Văn mẫu lớp 11 Cánh diều

    Xem thêm