Giao diện mới của VnDoc Pro: Dễ sử dụng hơn - chỉ tập trung vào lớp bạn quan tâm. Vui lòng chọn lớp mà bạn quan tâm: Lưu và trải nghiệm

Lịch Sử 9 Cánh diều Bài 4: Chiến tranh thế giới thứ hai (1939 - 1945)

Lịch Sử 9 Cánh diều Bài 4: Chiến tranh thế giới thứ hai (1939 - 1945) hướng dẫn trả lời các câu hỏi môn Lịch sử trong SGK Lịch sử và Địa lí 9 Cánh diều, giúp các em nắm chắc kiến thức được học trong bài và luyện giải Sử 9 hiệu quả.

I. Nguyên nhân bùng nổ

Câu hỏi trang 17 Lịch Sử 9

Trình bày nguyên nhân dẫn đến sự bùng nổ của Chiến tranh thế giới thứ hai?

Lời giải chi tiết:

- Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, mâu thuẫn giữa các nước đế quốc về thị trường và thuộc địa tiếp tục này sinh. Hai nhóm nước đối lập được hình thành: Anh, Pháp, Mỹ (thỏa mãn với Trật tự Véc-xai - Oa-sinh-tơn) và Đức, I-ta-li-a, Nhật Bản (bất mãn với Trật tự Véc-xai - Oa-sinh-tơn). Cuộc đại suy thoái kinh tế 1929 - 1933 khiến những mâu thuẫn này trở nên sâu sắc , dẫn đến sự thắng thế của chủ nghĩa phát xít Đức và sự phục hồi của chủ nghĩa quân phiệt ở Nhật Bản. Đức, Nhật Bản cùng với I-ta-li-a chủ trương gây chiến tranh, nhằm chia lại thị trường và thuộc địa trên thế giới.

- Trong khi đó, các nước đế quốc cùng có mâu thuẫn với Liên Xô nên tiến hành cô lập và tìm cách tiêu diệt nhà nước xã hội chủ nghĩa. Trước những hành động xâm lược của Đức ở châu u trong những năm 30 của thế kỷ XX, Anh, Pháp thực hiện chính sách dung dưỡng, thoả hiệp với chủ nghĩa phát xít, nhằm chĩa mũi nhọn chiến tranh về phía Liên Xô.

II. Diễn biến chính

Câu hỏi trang 18 Lịch Sử 9

Trình bày diễn biến chính của Chiến tranh thế giới thứ hai?

Lời giải chi tiết:

- Chiến tranh thế giới thứ hai lôi cuốn phần lớn các quốc gia vào quỹ đạo cuộc chiến, chủ yếu giữa Đức, I-ta-li-n, Nhật Bản và Liên Xô, Mỹ, Anh, Pháp. Chiến sự diễn ra trên toàn thế giới, nhưng khốc liệt nhất ở chiến trường châu Âu và châu Á - Thái Bình Dương. Chiến tranh kéo dài từ tháng 9-1939 đến tháng 8-1945, chia thành hai giai đoạn.

- Giai đoạn 1: Chiến tranh bùng nổ và lan rộng ra toàn thể giới (1939 - 1941)

Ngày 1-9-1939, Đức tấn công Ba Lan, châm ngòi cho sự bùng nổ của Chiến tranh thế giới thứ hai. Ở mặt trận Tây Âu, bằng chiến thuật chớp nhoáng. Đức tổ chức tổng tấn công, chiếm được hầu hết các nước châu Âu, ngoại trừ Anh và một vài nước trung lập. Tháng 6-1941, Đức tấn công và tiến sâu vào lãnh thổ Liên Xô. Ở mặt trận Bắc Phi, tháng 9-1940, I-ta-li-a tấn công quân Anh ở Ai Cập. Ở mặt trận châu Á - Thái Bình Dương. Nhật Bản tiếp tục xâm lược Trung Quốc, kéo quân vào Đông Dương (9-1940) và các nước Đông Nam Á khác. Ngày 7-12-1941, quân Nhật bất ngờ tấn công căn cứ quân sự của Mỹ tại Trân Châu Cảng (Thái Bình Dương). Chiến tranh lan rộng ra toàn thế giới.

- Giai đoạn 2: Quân Đồng minh phản công, chiến tranh kết thúc (1942 - 1945)

- Tháng 11-1942, quân đội Liên Xô mở chiến dịch phản công Xta-lin-grát và giành thắng lợi (2-1943), tạo ra bước ngoặt, làm xoay chuyển cục diện chiến tranh. Từ đây, quân Đồng minh chuyển từ giai đoạn phòng ngự sang giai đoạn phản công. Ở Châu Âu tháng 9-1943, phát xít I-la-li-a đầu hàng. Ngày 6-0-1944, quân Đồng minh mở mặt trận thứ hai ở Tây Âu, đổ bộ vào Noóc-măng-đi, giải phóng nước Pháp. Ở mặt trận phía đông, cuối năm 1944, quân đội Liên Xô đầy lùi quân Đức ra khỏi lãnh thổ, tiền quân giải phóng các nước Đông Âu, rồi tiến vào Đức. Từ ngày 16-4 đến ngày 9-5-1945, Hồng quân Liên Xô tiến hành chiến dịch Béc-lin, đánh bại và buộc phát xít Đức đầu hàng không điều kiện. Ở mặt trận châu Á - Thái Bình Dương, ngày 8-8-1945, Liên Xô tuyên chiến với Nhật và ngày 9-8 tiến đánh hơn 1 triệu quân Nhật tại vùng Đông Bắc Trung Quốc. Ngày 6 và 9-8-1945, Mỹ ném bom nguyên tử xuống Hi-rô-si-ma và Na-ga-sa-ki của Nhật Bản. Ngày 15-8-1945, Nhật Bản đầu hàng quân Đồng minh không điều kiện, Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc.

III. Hậu quả

Câu hỏi trang 18 Lịch Sử 9

Phân tích hậu quả của Chiến tranh thế giới thứ hai đối với lịch sử nhân loại?

Lời giải chi tiết:

- Chiến tranh thế giới thứ hai đã gây ra hậu quả năng nẽ về sinh mạng và vật chất đối với toàn nhân loại.

- Hơn 1.7 tỉ người của hơn 70 quốc gia bị lôi kéo vào cuộc chiến, trong đó có khoảng 60 triệu người chết, 90 triệu người bị tàn phế. Riêng Liên Xô co hon 27 triệu người chết.

- Hàng nghìn thành phố, làng mạc, cơ sở kinh tế trên thế giới bị phá hủy. Thiệt hại về vật chất trong Chiến tranh thế giới thứ hai bằng tất cả các cuộc chiến tranh của 1.000 năm trước cộng lại.

IV. Nguyên nhân thắng lợi, ý nghĩa lịch sử, vai trò của Liên Xô và các nước khác thuộc phe Đồng minh trong chiến thắng chủ nghĩa phát xít

Câu hỏi trang 19 Lịch Sử 9

Nêu nguyên nhân thắng lợi, ý nghĩa lịch sử, vai trò của Liên Xô và các nước khác thuộc phe đồng minh trong chiến thắng chủ nghĩa phát xít?

Lời giải chi tiết:

- Chủ nghĩa phát xít bị đánh bại là nhờ có sự đoàn kết trong phe Đồng minh, đặc biệt là sự phối hợp chiến đấu của quân đội Liên Xô, Mỹ và Anh. Chiến thắng này còn có sự đóng góp của nhân dân các nước bị quân phát xít chiếm đóng. Đây cũng là thắng lợi của tính chính nghĩa, chống lại cuộc chiến tranh phi nghĩa do Đức, I-ta-li-a và Nhật Bản phát động.

- Chiến thắng chống chủ nghĩa phát xít của Liên Xô và các nước khác thuộc phe Đồng minh trong Chiến tranh thế giới thứ hai giúp nhân loại tránh khỏi thảm họa bị diệt vong bởi chủ nghĩa phát xít; tạo ra thời cơ cho các nước thuộc địa và phụ thuộc đứng lên đấu tranh giành độc lập dân tộc, tiêu biểu là In-đô-nê-xi-a, Việt Nam, Lào; đồng thời thúc đẩy sự phát triển của chủ nghĩa xã hội, tạo điều kiện cho sự hình thành hệ thống xã hội chủ nghĩa trên thế giới.

- Liên Xô, Mỹ, Anh giữ vai trò trụ cột và quyết định đối với chiến thắng chống chủ nghĩa phát xít, trong đó Liên Xô là nước đi đầu. Bên cạnh đó, các lực lượng yêu chuộng hòa bình, các mặt trận đoàn kết chống phát xít trên thế giới cũng góp phần vào việc tiêu diệt một bộ phận quân đội của phe phát xít.

Luyện tập - Vận dụng

Luyện tập 1 trang 19 Lịch Sử 9:

Lập bảng tóm tắt về nguyên nhân bùng nổ, diễn biến và hậu quả của Chiến tranh thế giới thứ hai vào vở ghi.

Trả lời:

Nội dung

Nguyên nhân

- Sự phát triển không đồng đều về kinh tế và chính trị giữa các nước tư bản trong thời đại đế quốc chủ nghĩa đã làm so sánh lực lượng giữa các nước thay đổi căn bản.

- Cuộc đại khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 - 1933 làm sâu sắc thêm những mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản.

- Chính sách thỏa hiệp, nhượng bộ của các nước phương Tây nhằm chĩa mũi nhọn chiến tranh về phía Liên Xô đã tạo điều kiện cho phe phát xít gây chiến.

Diễn biến

- Chiến tranh thế giới thứ hai diễn ra trong 6 năm, từ tháng 9/1939 đến tháng 8/1945, chia làm 2 giai đoạn:

+ Giai đoạn 1: Chiến tranh bùng nổ và lan rộng khắp thế giới (1/9/1939 - tháng 11/1942)

+ Giai đoạn 2: Quân Đồng minh chuyển sang phản công, chiến tranh kết thúc (tháng 11/1942 đến tháng 8/1945)

Hậu quả

- Chiến tranh thế giới thứ hai đã để lại những hậu quả nặng nề cho nhân loại.

+ Lôi cuốn khoảng 76 quốc gia vào vòng khói lửa

+ Số quân được huy động tham gia vào chiến tranh lên tới 110 triệu người

+ Khiến cho 60 triệu người chết, 90 triệu người bị thương và thiệt hại về vật chất lên tới 4000 tỉ USD

Vận dụng 2 trang 19 Lịch Sử 9:

Sưu tầm tư liệu (bài viết, phim, tranh ảnh, câu chuyện nhân chứng,...) về một trong những chiến thắng tiêu biểu của phe Đồng minh trong Chiến tranh thế giới thứ hai. Giới thiệu tư liệu đó với thầy cô và bạn học.

Trả lời:

(*) Tham khảo: Tư liệu về chiến thắng Xtalingrat của Hồng quân Liên Xô

Mùa Hè năm 1942, tranh thủ thời cơ chưa phải đối phó với mặt trận phía tây, phát xít Đức mở cuộc tiến công lớn ở cánh phía nam mặt trận Xô - Đức hòng nhanh chóng đánh chiếm vùng dầu lửa Capcadơ và các dải đất phì nhiêu của sông Đông, Cuban và Hạ Vonga.

Trước tình hình đó, Tổng hành dinh quân đội Xô viết đã thành lập Phương diện quân Xtalingrat, đảm nhiệm phòng ngự trên mặt trận chính diện với chiều dài toàn tuyến 520km, nhằm chặn đứng cuộc tiến công của địch ở khu vực Xtalingrat, tạo điều kiện thuận lợi để chuyển sang phản công.

Ngày 17-7-1942, chiến dịch phòng ngự bắt đầu. Quân đội phát xít cố gắng tiến công thọc hậu từ hai bên sườn bao vây quân đội Liên Xô ở Calaxơ, rồi từ đó tiếp tục tiến công vào Xtalingrat. Các tập đoàn quân 62 và 64 Hồng quân đã phòng ngự rất ngoan cường và cùng các tập đoàn quân T4 và 4 liên tục phản kích, làm phá sản ý định ban đầu của địch.

Trong tháng 8/1942, Bộ chỉ huy quân sự Đức đã điều thêm lực lượng đến bổ sung, đưa quân số tham chiến tại mặt trận Xtalingrat lên đến 80 sư đoàn. Ngày 23-8, cùng với tiến công trên mặt đất, địch đã dùng trên 2.000 lần chiếc máy bay ném bom tàn phá thành phố. Quân đội Xô viết đã đưa vào chiến đấu lực lượng dự bị gồm Tập đoàn quân 24, 66 và sau đó là Tập đoàn quân CV1 cùng Phương diện quân Xtalingrat và Sông Đông liên tục phản đột kích, chặn đứng quân địch ở ngoại ô thành phố. Từ ngày 12-9, địch tiến công mãnh liệt từ các hướng tây - tây bắc và tây nam. Các trận chiến đấu quyết liệt đã diễn ra trên từng đường phố, từng căn nhà. Địch tập trung mọi nỗ lực cao nhất để đánh chiếm thành phố nhưng không kết quả, lại bị tổn thất quá nhiều, kiệt sức, phải dừng lại.

Ngày 18-11-1942, chiến dịch phòng ngự kết thúc. Hồng quân đã loại khỏi vòng chiến đấu gần 700.000 tên địch, phá huỷ 2.000 pháo, cối, 1.000 xe tăng và 1.400 máy bay, chặn đứng được cuộc tiến công của địch và chuyển sang phản công.

Ngày 19-11-1942, các Phương diện quân Tây Nam và Sông Đông, ngày 20-11, Phương diện quân Xtalingrat bắt đầu những đòn đột kích vào trận địa phòng ngự địch, và đã đẩy quân địch lùi sâu từ 15 - 20km. Ngày 23-11, bằng các cánh vu hồi của các quân đoàn tăng thuộc các phương diện quân Tây Nam và Xtalingrat, cụm 22 sư đoàn (330.000 quân) địch đã bị hợp vây. Giai đoạn 1 chiến dịch phản công hoàn thành, từ đây quyền chủ động chiến lược trên cánh Nam mặt trận Xô - Đức (gồm vùng Capcadơ và Xtalingrat) chuyển vào tay quân đội Xô viết.

Trong tháng 12/1942, những nỗ lực mới của địch nhằm giải vây cho cụm quân Xtalingrat đều vô hiệu.

Cuộc công kích tiêu diệt cụm địch bị hợp vây được tiến hành từ 10-1-1943, sau khi tối hậu thư của Hồng quân bị địch bác bỏ. Phương diện quân Sông Đông đảm đương nhiệm vụ này, và đến cuối tháng 1 đã chia cắt tập đoàn địch làm hai phần. Ngày 31-1, cụm phía nam do Thống chế Paolut trực tiếp chỉ huy đã đầu hàng. Ngày 2-2, cụm phía Bắc chấm dứt kháng cự. Chiến dịch phản công kết thúc thắng lợi với việc Phương diện quân Sông Đông đã bắt 91.000 địch đầu hàng và tiêu diệt 147.000 tên khác.

Chia sẻ, đánh giá bài viết
1
Sắp xếp theo
    🖼️

    Gợi ý cho bạn

    Xem thêm
    🖼️

    Lịch sử Địa lí 9 Cánh diều

    Xem thêm