Phân tích bài thơ Lính đảo hát tình ca trên đảo
Lính đảo hát tình ca trên đảo
Phân tích Lính đảo hát tình ca trên đảo hay nhất được VnDoc.com sưu tầm và xin gửi tới bạn đọc cùng tham khảo để có thêm tài liệu làm bài Văn mẫu 10 Cánh diều.
1. Dàn ý phân tích Lính đảo hát tình ca trên đảo
1. Mở bài:
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm.
- Nêu cảm nhận chung về bài thơ.
2. Thân bài:
* Chủ đề: hình tượng người lính đảo.
2.1. Phân tích, đánh giá nội dung bài thơ:
a. Sân khấu của những người lính đảo:
- Sân khấu thiếu thốn, tạm bợ: được dựng nên bởi đá san hô và vài tấm tôn.
- Người biểu diễn, khán giả: là những chàng trai đầu trọc. Sống ở nơi đảo xa, họ cùng nhau tạo nên những buổi biểu diễn, vừa để giải trí, vừa coi đó là kỉ niệm khó phai trong cuộc đời người lính.
=> Đối diện với sự khắc nghiệt của thời tiết, thiên nhiên, những người lính không hề tỏ ra sợ sệt mà luôn lạc quan, yêu đời. Dù vẻ đẹp ngoại hình không được đẹp nhưng họ có tấm lòng, tâm hồn phong phú, trong sáng và lãng mạn.
b. Hình ảnh người lính đảo:
* Ngoại hình:
- Cái đầu trọc lốc nên được ví như sư cụ "Là bà con xa với bụt ốc đây mà" -> giọng thơ hóm hỉnh, nhí nhảnh và vui tươi.
* Bản tình ca mà họ hát lên:
- Sự đối lập, trái ngược giữa giai điệu và lời ca:
+ Giai điệu ngang tàn, mạnh mẽ như gió biển thổi.
+ Lời ca thì nhẹ nhàng, da diết những lời thương yêu, nhớ nhung.
=> Họ là những con người bình thường, có nội tâm phong phú, có trái tim khao khát hạnh phúc và tình yêu đôi lứa.
- Từ lời ca dành cho người thương, những người lính tiếp tục cất lên khúc hát về quê hương, đất nước:
+ Giữa muôn trùng sóng gió, tình yêu Tổ quốc chưa bao giờ phai nhạt.
+ Khẳng định đất nước bắt nguồn từ chính những vùng đất này.
2.2. Phân tích, đánh giá về đặc sắc nghệ thuật:
- Ngôn ngữ trong sáng, giản dị và vô cùng dễ hiểu.
- Hình ảnh thơ gần gũi, quen thuộc.
- Sử dụng thành công các biện pháp tu từ như so sánh "Những giai điệu ngang tàn như gió biển", điệp ngữ "Nào hát lên cho",...
3. Kết bài:
- Khẳng định lại giá trị của tác phẩm.
2. Phân tích Lính đảo hát tình ca trên đảo mẫu 1
Trần Đăng Khoa được người đời ngợi ca và mệnh danh là "Thần đồng thơ ca". Với ngôn từ mộc mạc, hình ảnh thân quen, những sáng tác của ông dễ dàng đi sâu vào tâm trí và trái tim người đọc. Trong đó, chúng ta không thể bỏ qua tác phẩm "Lính đảo hát tình ca trên đảo". Bài thơ đã mang tới những hình ảnh chân thực về cuộc sống sinh hoạt của người lính nơi đầu sóng ngọn gió.
Mở đầu bài thơ, Trần Đăng Khoa trực tiếp đưa độc giả đến với khung cảnh:
"Đá san hô kê lên thành sân khấu
Vài tấm tôn chôn mấy cánh gà"
Ngoài đảo, mọi thứ đều khan hiếm, thiếu thốn đủ đường. Vậy nên, sân khấu chỉ được lắp ghép, chắp vá tạm bợ bởi "đá san hô" mà thôi. Phía cánh gà cũng được tạo nên từ vài tấm tôn. Có thể thấy, chỉ với hai câu thơ ngắn gọn, nhà thơ đã gợi lên cuộc sống khó khăn của những người lính đảo. Cuộc sống ấy còn bị ảnh hưởng nặng nề từ thiên nhiên khắc nghiệt:
"Em đừng trách bọn chúng anh tạm bợ
Chẳng phông màn nào chịu nổi Trường Sa"
Cách xưng hô thân mật "em", "bọn chúng anh" cho thấy sự gắn kết giữa con người. Người lính nói bằng giọng điệu hết sức nhẹ nhàng, như thể đây chỉ là một câu chuyện nhỏ nhẹ, không đáng quan tâm. Câu thơ giống như lời tâm sự thủ thỉ, lời lí giải nhẹ nhàng cho hoàn cảnh. Đồng thời, khéo léo nhấn mạnh vào ý chí, bản lĩnh của những người dám đương đầu với sóng to, gió lớn nơi biển đảo.
Dẫu thiếu thốn vật chất, điều kiện tự nhiên hà khắc, người lính vẫn nở nụ cười lạc quan:
"Gió rát mặt, Đảo luôn thay hình dáng
Sỏi cát bay như lũ chim hoang
Cứ mặc nó. Nào hỡi các chiến hữu
Ta bắt đầu thôi. Mây nước đã mở màn"
Sống giữa biển trời mênh mông, người lính hàng ngày hàng giờ phải đối mặt với biết bao gian khổ. Nào là những lần gió thổi rát mặt. Nào là những trận bão cát sỏi bay điên cuồng. Thế nhưng, họ chẳng lấy làm để tâm. Câu nói "Cứ mặc nó" cho thấy phong thái bình thản, ung dung của người lính đảo. Dường như, những khó khăn ấy không còn là nỗi bận tâm, lo lắng nữa rồi. Giờ đây, họ dành hết tâm trí cho chiếc sân khấu "có một không hai" - "mây nước mở màn" với đội ngũ biểu diễn và khán giả đặc biệt:
"Sân khấu lô nhô mấy chàng đầu trọc
Người xem ngổn ngang cũng rặt lính trọc đầu
Nước ngọt hiếm không lẽ dành gội tóc
Lính già lính trẻ đều trọc tếu như nhau"
Khổ thơ bốn dòng nhưng có đến ba từ "trọc" đã nhấn mạnh vào vẻ bề ngoài đặc trưng những chàng lính đảo. Ngoài đảo, nước ngọt khan hiếm vô cùng. Vì thế, họ không nỡ dùng nguồn nước quý giá đó để gội đầu. Từ lính mới đến lính cũ, lính già đến lính trẻ, ai ai cũng đồng lòng. Họ bảo nhau cắt đi mái tóc, biến mình thành "chàng đầu trọc" nhằm tiết kiệm những giọt nước tinh khiết. Bằng giọng điệu hóm hỉnh, Trần Đăng Khoa đã khắc họa nên một bức tranh chân thực về đời sống của lính đảo, tuy khó khăn nhưng không bi lụy. Từ chính cái khổ cực ấy, họ biến chúng thành niềm vui: "Có lúc vui cứ gọi đùa sư cụ/ Là bà con xa với bụt ốc đây mà", "Hóa ra là sư cụ hát tình ca".
Giữa không gian bao la, mây trời sóng nước lồng bóng, người lính đảo được ví như "sư cụ" cất lên khúc hát đặc biệt:
"Những giai điệu ngang tàng như gió biển
Nhưng lời ca toàn nhớ với thương thôi"
Nếu như giai điệu mạnh mẽ, ngang tàn như gió biển thổi thì lời ca lại nhẹ nhàng, tha thiết nỗi nhớ thương. Một bản tình ca độc đáo, mới lạ, chỉ có riêng ở người lính đảo. Hòa theo nhịp điệu, những chàng lính cất lên câu hát tâm tình, chan chứa yêu thương "Rằng có đêm trăng dắt em đi dạo", "Người yêu chúng anh ơi, các em ở phương nào?". Mượn lời ca, họ khéo léo bày tỏ tình cảm chân thành "Rằng chúng ta là những con người/ Yêu em thủy chung hơn muối mặn/ Dù thư tình chưa biết gửi cho ai". Có thể thấy, người lính đảo hiện lên thật chân thực với nét tính cách lạc quan, nhí nhảnh, tâm hồn trong sáng. Giống như bao người, các chàng trai ấy cũng có trái tim khao khát hạnh phúc và tình yêu đôi lứa.
Bản tình ca đằm thắm ấy còn là khúc hát say sưa về Tổ quốc thân yêu:
"Nào hát lên cho đêm tối biết
Rằng tình yêu sáng trong ngực ta đây
Ta đứng vững giữa muôn trùng sóng gió|
Tổ quốc Việt Nam bắt đầu từ nơi này..."
Trên tất cả, trong trái tim thổn thức từng nhịp đập, tình yêu đất nước vẫn nóng bỏng hơn bao giờ hết. Nó chính là ngọn lửa tiếp thêm nhiệt huyết, là điểm tựa tiếp thêm sức mạnh cho những người lính. Giữa muôn trùng sóng gió của biển cả, người lính đảo luôn vững vàng chắp tay súng, bảo vệ từng tấc đất của nước nhà. Để rồi, thông qua đó, khẳng định đất nước bắt nguồn từ chính những vùng đất xa xôi mà thiêng liêng này.
Bài thơ kết thúc với hình ảnh ấn tượng:
"Bỗng bàng hoàng nhìn lại phía sau
Ngoài mép biển người đâu lên đông thế
Ồ, hóa ra toàn những đá trọc đầu..."
Khổ thơ cuối vẫn là giọng điệu hóm hỉnh, vui tươi và tếu táo giống các phần trước. Khi thủy triều rút, những tảng đá bóng nhẵn như cái đầu trọc lộ lên khỏi mặt nước. Có thể thấy, điều kiện sống thật cực khổ làm sao!
Bằng ngôn ngữ trong sáng, giản dị, dễ hiểu; hình ảnh thơ gần gũi, quen thuộc, nhà thơ đã đem đến cho người đọc những hình dung cụ thể, chi tiết về đời sống nơi hải đảo xa xôi, hiểm trở. Việc sử dụng thành công các biện pháp tu từ như so sánh "Những giai điệu ngang tàn như gió biển", điệp ngữ "Nào hát lên cho",... cũng góp phần khắc họa thành công hình ảnh người lính đảo. Họ là những con người lạc quan, yêu đời, đầy mơ mộng với cuộc sống. Chính họ đã và đang từng ngày, từng giờ bảo vệ chủ quyền nước nhà.
Không màu mè, hoa mĩ, "Lính đảo hát tình ca trên đảo" là những vần thơ hết sức nhí nhảnh, vui tươi. Trần Đăng Khoa thật khéo léo khi khai thác đề tài người lính từ điều bình dị và thân thuộc. Qua tác phẩm này, ta càng thêm trân trọng, biết ơn công lao to lớn của thế hệ đi trước.
3. Phân tích Lính đảo hát tình ca trên đảo mẫu 2
Nếu nói những con chữ là tinh hoa nghệ thuật thì những thi nhân chính là những nhà nghệ sĩ. Họ dùng con chữ để vẽ ra những bức tranh tuyệt đẹp. Trần Đăng Khoa chính là một nghệ nhân như vậy. Qua bài thơ Lính đảo hát bài ca trên đảo, những cảnh vật, con người xuất hiện lung linh. Vẻ đẹp ấy càng tôn lên được ý nghĩa của việc họ đang làm, của nhiệm vụ thiêng liêng canh giữ nơi đất đảo. Hình ảnh của những người lính được ông khai thác dưới một góc nhìn vừa thơ mộng, vừa thể hiện được hết sự khó khăn của cuộc sống nơi hải đảo xa xôi.
“Gió rát mặt, đảo luôn thay hình dạng
Sỏi cát bay như lũ chim hoang
Cứ mặc nó! Nào hỡi các chiến hữu
Ta bắt đầu thôi. Mây nước đã mở màn…”
Ngay đoạn mở đầu, người đọc đã thấy được hết những cái khắc nghiệt của hải đảo. Nơi đây chỉ thấy nắng và gió, đảo theo dòng nước mà luôn thay đổi hình dáng. Trên nền khung cảnh tưởng chừng như chẳng thấy điểm cuối ấy, chim hoang vẫy cánh làm cảnh vật càng thêm tiêu điều. Mỗi ngày, cuộc sống con người nơi đây đều phải chịu sự vất vả ấy. Nhưng chính do đó, họ dần quen thuộc và bình thản trước những sóng gió ấy. Trên nền cảnh vật xơ xác, sự mãnh liệt và quyết tâm của những người lính làm sáng lên cả bức tranh chỉ toàn gam màu vàng và xanh. Họ lạc quan, cổ vũ nhau tiến bước về phía trước mặc cho sự vất vả vây quanh. Với họ, có lẽ chỉ cần có “chiến hữu” thì chẳng còn khó khăn mà chỉ có niềm vui và những điều thú vị. Hình ảnh so sánh mây nước như một buổi biểu diễn, màn ấy là một sân khấu lơ lửng giữa đất trời. Đó là một cách liên tưởng vô cùng độc đáo và thú vị của tác giả.
“Sân khấu lô nhô mấy chàng đầu trọc
Người xem ngổn ngang cũng… rặt lính trọc đầu
Nước ngọt hiếm, không lẽ dành gội tóc
Lính trẻ, lính già đều trọc tếu như nhau
Những lúc vui cứ gọi đùa sư cụ
Là bà con xa với bụt ốc đây mà
Thôi lặng yên nghe. Có gì đang đang sóng sánh
Hóa ra là sư cụ hát tình ca”
Những câu thơ tiếp theo đây vẫn là hình ảnh khắc nghiệt của thiên nhiên vùng hải đảo. Không chỉ gò cát làm hoạt động những người lính khó khăn, mà nó còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống và sức khỏe của họ. Những người lính hiện lên với hình ảnh ai nấy đều trọc đầu, kể cả già trẻ đều như nhau. Đó chính là do họ tự cạo hết tóc của mình để tránh dùng nhiều nước trong khi vệ sinh cá nhân. Bởi nơi đây, thứ hiếm hoi và cần tiết kiệm nhất chính là nước ngọt. Quanh đảo đều là nước, nhưng đó đều là nước biển mặn chát không thể sử dụng được. Thứ những người đất liền chúng ta không coi trọng, lại được những con người ở đó quý trọng đến từng giọt nhỏ. Để làm dịu đi bầu không khí nặng nề ấy, tác giả đã sử dụng những ngôn ngữ, hình ảnh hài hước. Đó là câu nói những người lính đầu trọc trông thật “tếu” và đùa vui so sánh họ với hình ảnh “sư cụ”. Sự đoàn kết của những người lính không chỉ còn là đồng chí, họ là những người anh em cùng chung hoạn nạn, là những người như một gia đình. Và cuối đoạn, bài ca ngân lên với giai điệu nhẹ nhàng như sóng biển. Đó chính là sự quyến rũ khi người và vật hòa quyện vào nhau, khi thiên nhiên đàn, biển tấu và con người ngân nga khúc tình ca.
“Cái giai điệu ngang tàng như gió biển
Nhưng lời ca toàn nhớ với thương thôi
Đêm buông xuống nhìn nhau không rõ nữa
Cứ ngỡ như đảo đá cất thành lời…
Rằng có đêm trăng dắt em đi dạo
Gương mặt em dịu dàng. Hàng cây cũng tươi xinh
Mở mắt chung chiêng nghe lưng trời sóng vỗ
Và tay mình lại nắm lấy tay mình
Người yêu chúng anh ơi, các em ở phương nào?
Các em cao hay lùn? Có trời mà biết được
Bóng dáng nào sẽ đến với chúng anh?
Trông bốn phía chỉ âm u mây nước
Nào hát lên cho mấy nước biết
Rằng chúng ta là những con người
Yêu em thủy chung hơn muối mặn
Dù thư tình chưa biết gửi cho ai…
Nào hát lên cho đêm tối biết
Rằng tình yêu sáng trong ngực ta đây
Ta đứng vững trên đảo xa sóng gió
Tổ quốc Việt Nam bắt đầu ở nơi này”
Giọng hát như con người, những người lính cất giọng được miêu tả là ngang tàng,đúng chất những người chiến sĩ. Tuy nhiên giai điệu họ đang ngâm lại là những khúc tình ca lãng mạn toàn nhớ với thương. Lời ca ấy thể hiện sự yêu đời, lạc quan, cũng là niềm khao khát về một tình yêu của những người lính trẻ. Trong đêm ấy, tạm bỏ hết những gánh nặng trên vai, họ cũng chỉ là những chàng trai qua đôi mươi đầy khao khát, mong chờ. Những hình ảnh tiếp theo là sự ao ước về một viễn cảnh hạnh phúc. Rời xa hiện thực, mọi người như chìm vào đó với biển đảo, những sự vật nơi đất biển. Hai câu thơ cuối, “Ta đứng vững trên đảo xa sóng gió
Tổ quốc Việt Nam bắt đầu ở nơi này” như một lời tuyên thệ. Họ sẽ vẫn đứng đó để bảo vệ từng tấc đất. Bởi sự hòa bình, một đất nước toàn vẹn cũng là khởi đầu từ sự yên bình nơi hải đảo xa xôi.
“Điệu tình ca cứ ngân lên chót vót
Bỗng bàng hoàng nhìn lại phía sau
Ngoài mép biển, người đâu lên đông thế
Ồ, hoá ra toàn những đá trọc đầu…”
Sau đoạn ngân lên đầy những cảm xúc, tác giả cũng thăng hoa trong những con chữ bay bổng. Bỗng “bàng hoàng” nhìn lại, như có gì kích động tác giả. Hóa ra đó là những “đầu trọc” của đồng đội, như đưa mọi người về lại hiện thực và trách nhiệm của mình. Tuy nhiên, khi đọc đến đây, người đọc lại chẳng cảm nhận được sự khó chịu của những người lính. Họ cam tâm làm tất cả vì Tổ Quốc thân yêu.
Với ngôn ngữ thơ mộc mạc nhưng lại như một bài ca du dương, Trần Đăng Khoa còn sử dụng rất nhiều từ gợi hình để làm người đọc hiểu rõ thêm về cuộc sống và con người ở vùng đảo xa xôi. Đó là những con người vừa dũng cảm, vừa mang trong mình tinh thần và tình yêu tha thiết. Cách trang giấy mà ta vẫn có thể hình dung được những người ấy, đẹp đẽ và nên thơ đến vậy!