Phân tích Người ở bến sông Châu
Phân tích tác phẩm Người ở bến sông Châu
- 1. Dàn ý phân tích Người ở bến sông Châu
- 2. Phân tích Người ở bến sông Châu mẫu 1
- 3. Phân tích Người ở bến sông Châu mẫu 2
- 4. Phân tích Người ở bến sông Châu mẫu 3
- 5. Phân tích Người ở bến sông Châu mẫu 4
- 6. Phân tích Người ở bến sông Châu mẫu 5
- 7. Phân tích Người ở bến sông Châu mẫu 6
- 8. Phân tích Người ở bến sông Châu mẫu 7
- 9. Phân tích Người ở bến sông Châu mẫu 8
Phân tích Người ở bến sông Châu được VnDoc.com tổng hợp và xin gửi tới bạn đọc cùng tham khảo để có thêm tài liệu học Ngữ văn 10. Mời các bạn cùng theo dõi bài viết dưới đây.
1. Dàn ý phân tích Người ở bến sông Châu
1. Mở bài:
- Giới thiệu về tác giả, tác phẩm.
2. Thân bài:
2.1. Nội dung chính và chủ đề truyện:
- Nội dung chính:
- Chủ đề truyện: hoàn cảnh, số phận của những con người bước ra từ chiến tranh.
2.2. Phân tích văn bản:
a. Số phận của con người sau cuộc chiến:
* Bất hạnh, phải chịu nỗi đau thể xác:
- Do hậu quả của chiến tranh, dì Mây bị "mảnh đạn phạt một chân".
- Lúc trước khi ra trận, dì Mây có mái tóc rất đẹp, đen óng ả. Sau khi trở về, tóc dì Mây rụng nhiều, xơ và thưa.
=> Chiến tranh tàn phá sức khỏe của con người, để lại những nỗi đau dai dẳng.
* Tình yêu chia li, tan vỡ:
- Ngày dì Mây về làng cũng là ngày chú San đi lấy vợ.
- Biết được tin người mình từng yêu đi lấy vợ, dì Mây xót xa, tâm trí đặt ở bên nhà chú San. Dù rất yêu chú San nhưng dì May vẫn kiên quyết đoạn tình để chú về với vợ.
=> Tình huống trớ trêu, éo le giữa San và Mây cũng chính là hiện thực khốc liệt sau khi chiến tranh qua đi. Chiến tranh gây ra biết bao sự hiểu lầm không đáng có, là nguyên nhân sâu xa dẫn đến sự chia lìa đôi lứa.
- Mặc dù biết được tình cảm của chú Quang dành cho mình nhưng dì Mây tự ti về bản thân và quyết định không đáp trả.
=> Những khiếm khuyết trên cơ thể mà chiến tranh để lại khiến con người ta không dám đi tìm hạnh phúc của riêng mình.
* Gia đình chia lìa:
- Thím Ba đun te vướng bom bi nên qua đời. Thằng Cún mất mẹ, trở thành trẻ mồ côi.
b. Vẻ đẹp của con người:
* Phẩm chất, tính cách:
- Chung thủy: Dù phải tạm rời xa tình yêu của mình là chú San để lên đường làm y sĩ Trường Sơn nhưng dì Mây vẫn luôn mang theo hình bóng của chú, "trang nhật kí nào em cũng viết tên anh".
- Kiên quyết, dứt khoát.
+ Thái độ của dì Mây vô cùng kiên quyết, dứt khoát. Dẫu lòng yêu San tha thiết nhưng dì Mây nhất quyết không đồng ý trước lời đề nghị "Mây! Chúng ta sẽ làm lại".
+ Dì Mây nhận phần thiệt về mình, khuyên chú San trở về với vợ, sống cho hạnh phúc.
- Nghị lực sống phi thường, vượt lên hoàn cảnh:
+ Mất một chân, dì vẫn chống nạng, giúp ông chèo đò.
+ Vẫn tiếp tục sống sau cú sốc đau đớn về tinh thần.
- Tấm lòng nhân hậu, giàu tình yêu thương:
+ Dì Mây không lấy tiền đò của lũ trẻ học cấp ba.
+ Những đêm mưa, đường đá khấp khểnh, dì vẫn miệt mài đến nhà khám bệnh cho mọi người. Khi ông trạm xá nói sẽ rải đá mạt cho dì Mây đi xe đạp, dì nói "Trạm xá còn thiếu thuốc". => Dì Mây rất giàu đức hi sinh.
+ Dì Mây sẵn sàng giúp vợ chú San vượt cạn. Ở trong hoàn cảnh của dì, việc đó không hề dễ dàng nhưng dì vẫn ân cần giúp đỡ.
+ Dì Mây sẵn sàng nhận nuôi con của thím Ba và yêu thương nó như con đẻ của mình.
=> Dì Mây hội tụ nhiều phẩm chất tốt đẹp, vừa kiên cường, mạnh mẽ, vừa bao dung, vị tha.
2.3. Đánh giá:
a. Nội dung:
- Tác phẩm cho thấy nỗi bất hạnh của con người sau chiến tranh.
- Gửi gắm thông điệp về lòng biết ơn với những thế hệ đi trước và tình yêu thương với mọi người.
b. Nghệ thuật:
- Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật đặc sắc.
- Tình huống truyện độc đáo, lôi cuốn người đọc.
3. Kết bài:
- Khẳng định giá trị của tác phẩm.
2. Phân tích Người ở bến sông Châu mẫu 1
Đề tài hậu chiến đã không còn là đề tài xa lạ trong nền văn học Việt Nam thời kì đổi mới. Là một nhà văn quân đội, tác giả Sương Nguyệt Minh đã đem đến cho bạn đọc những góc nhìn mới về hiện thực cuộc sống sau chiến tranh qua truyện ngắn "Người ở bến sông Châu". Tác phẩm đã thể hiện một cách đầy chân thực hoàn cảnh và số phận của con người kể từ khi đất nước thống nhất.
Sau năm 1975, Nam Bắc về chung một nhà, cả đất nước vui mừng, reo vang khúc ca khải hoàn. Người ta tưởng rằng, kết thúc chiến tranh là kết thúc toàn bộ nỗi đau, mất mát. Thế nhưng không phải vậy, con người ta vẫn phải chiến đấu ngay cả trong thời bình, giống như cách mà dì Mây cố gắng vượt lên nỗi đau. Số phận của dì Mây trong tác phẩm cũng là hoàn cảnh của biết bao con người đi ra từ đống hoang tàn, đổ nát mà chiến tranh để lại.
Là một y sĩ Trường Sơn, dì Mây trở về với cơ thể khiếm khuyết. Người ta bảo nhau rằng "cô y sĩ Trường Sơn bị mảnh đạn phạt một chân". Lúc trước khi ra trận, dì Mây có mái tóc đẹp vô cùng, "tóc dì đen óng mượt" đến nỗi chú San "nấp bên hàng râm bụt nhìn trộm cũng phải giật mình". Lúc chạy ngược chiều gió, "tóc dì xổ tung bay bồng bềnh, bồng bềnh như mây". Vậy mà, khi trở về, tóc dì "rụng nhiều, xơ và thưa". Có lẽ, chiến tranh đã tàn phá sức khỏe của dì. Đồng thời, cướp đi vẻ đẹp tươi trẻ, cướp đi tuổi thanh xuân tràn đầy sức sống của người con gái.
Không chỉ có số phận bất hạnh, phải chịu nỗi đau về thể xác, dì Mây còn sống trong nỗi dày vò, ám ảnh về mặt tinh thần. Chiến tranh gây ra biết bao bi kịch, tước đoạt đi hạnh phúc vốn có của con người. Ngày cô y sĩ xông pha ngoài mặt trận trở về bên bến sông Châu cũng là ngày người yêu cô - chú San đi lấy người khác. Biết được tin người mình thương đi lấy vợ, dì Mây xót xa, nghẹn đắng. Ngồi nói chuyện với ông bà mà tâm trí dì đặt bên nhà chú San. Dù rất yêu San nhưng dì Mây vẫn kiên quyết đoạn tình để chú về với vợ. Tác giả đã tạo nên tình huống éo le, trớ trêu giữa hai người. Có lẽ, trong suy nghĩ của mọi người, dì Mây đã bỏ mạng nơi chiến trường. Vì thế, chú San mới quyết định đi lấy vợ sau tháng ngày dài ngóng chờ tin tức từ người thương. Tình huống oái oăm ấy cũng chính là hiện thực trần trụi khi chiến tranh qua đi. Chiến tranh gây ra biết bao sự hiểu lầm không đáng có, là nguyên nhân sâu xa dẫn đến cảnh chia lìa. Về sau này, ta còn thấy sự xuất hiện của chú Quang. Chú Quang cũng có tình cảm đặc biệt dành cho dì Mây. Biết được điều đó nhưng dì Mây tự ti về bản thân và quyết định không đáp trả. Dường như, những khiếm khuyết trên cơ thể mà chiến tranh để lại khiến con người ta không dám đi tìm hạnh phúc của riêng mình.
Đặc biệt, chiến tranh đẩy biết bao gia đình rơi vào cảnh chia lìa, tang thương. Vì vướng bom bi trong lúc đun te nên thím Ba đã qua đời. Cái chết của Dì khiến ai nấy đều cảm thương, đau buồn không ngớt. Thằng Cún - con dì từ ấy cũng trở thành trẻ mồ côi.
Khác với văn học thời kì trước, văn xuôi Việt nam sau năm 1975 đã có những bước chuyển mình mạnh mẽ. Con người trong văn chương không còn là con người mang vẻ đẹp toàn bích như cô Nguyệt trong "Mảnh trăng cuối rừng" của nhà văn Nguyễn Minh Châu mà hiện lên với vẻ đẹp đời thường, dung dị và dì Mây trong tác phẩm cũng như thế. Vẻ đẹp phẩm chất, tính cách của dì Mây để lại cho người đọc biết bao niềm rung cảm, khâm phục.
Trước hết, dì Mây là một người con gái vô cùng chung thủy. Dù phải tạm rời xa tình yêu của mình là chú San để lên đường làm y sĩ Trường Sơn nhưng dì Mây vẫn luôn mang theo hình bóng của chú, "trang nhật kí nào em cũng viết tên anh". Tuy nhiên, khi biết chú San đã có vợ, dì Mây nhất quyết không đồng ý trước lời đề nghị "Mây! Chúng ta sẽ làm lại", "Anh sẽ từ bỏ tất cả. Chúng ta về sống với nhau.". Thái độ của dì Mây vô cùng kiên quyết, dứt khoát. Hành động "bật dậy, chống nạng gỗ cộc cộc đi vào sân" bỏ mặc chú San lại đã minh chứng rõ nét cho điều đó. Dì Mây nhận phần thiệt về mình để người mình yêu được hạnh phúc. Câu nói "Thôi! Thôi! Lỡ rồi! Đằng nào cũng chỉ một người đàn bà khổ. Anh về đi!" khiến người đọc không khỏi cảm thấy xót xa. Dì khuyên chú San nên quay về với vợ, sống cho hạnh phúc "Sự thể đã thế, cố mà sống cho vuông tròn". Nếu dì đồng ý lời đề nghị của chú thì cả ba người sẽ đau khổ. Chính vì vậy, dì chấp nhận buông tay mối tình sâu đậm của mình để vun vén cho đôi vợ chồng mới cưới.
Mặc dù phải chịu nỗi đau cả về thể xác lẫn tinh thần nhưng chưa bao giờ ta thấy dì Mây có ý định từ bỏ sự sống. Ở dì luôn ánh lên một nghị lực sống phi thường. Mất một chân, dì vẫn chống nạng, giúp ông chèo đò, vẫn tiếp tục sống sau cú sốc đầy đau đớn.
Đặc biệt, dì Mây còn là người có tấm lòng nhân hậu, giàu tình yêu thương. Kể từ ngày chèo đò giúp ông, dì chưa bao giờ lấy tiền đò của lũ trẻ cấp ba. Nghe thấy câu nói của chúng, dì còn cười trêu "Đáng là bao, cho chúng mày nợ đến nữa có lương rồi trả". Những đêm mưa, đường đá khấp khểnh, dì vẫn miệt mài đến nhà khám bệnh cho mọi người. Thấy dì đi lại vất vả, ông trưởng trạm xá khuyên dì nên học đi xe đạp, ông sẽ rải đá mạt cho. Đáp lại lời ông, dì nói "Trạm xá còn thiếu thuốc. Tôi cố, cũng như người tập thể dục.". Câu trả lời ấy cho thấy dì rất giàu đức hi sinh, luôn đặt lợi ích của mọi người lên trên bản thân. Vào một đêm mưa, vợ chú San vượt cạn thiếu tháng. Thấy Thanh rơi vào tình thế nguy hiểm, dì không mảy may quan tâm đến những lời thím Ba nói, sẵn sàng giúp vợ chú San sinh con. Ở trong hoàn cảnh của dì, việc đó không hề dễ dàng nhưng dì vẫn ân cần giúp đỡ. Đặc biệt, khi thím Ba không may qua đời do bom nổ, dì dang rộng vòng tay, chăm sóc, yêu thương thằng Cún. Dì Mây hội tụ nhiều phẩm chất tốt đẹp, vừa kiên cường, mạnh mẽ, vừa bao dung, vị tha.
Với nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật đặc sắc cùng tình huống truyện độc đáo, lôi cuốn người đọc, tác giả Sương Nguyệt Minh đã tái hiện lại bức tranh đầy sống động về con người sau cuộc chiến. Bước ra khỏi đống đổ nát, tro tàn của chiến tranh, con người phải đối mặt, chịu đựng với biết bao giày vò, khổ sở. Tác phẩm cho thấy nỗi đau khổ, bất hạnh của con người kể từ khi đất nước thống nhất. Đồng thời, gửi gắm bài học về lòng biết ơn đến các thế hệ cha ông đã không tiếc tuổi thanh xuân cho nền độc lập, tự do của Tổ quốc.
Hiểu về tác phẩm, ta càng thêm đồng cảm, thương xót với người lính. Từ đó, biết trân trọng cuộc sống hạnh phúc, ấm êm ngày hôm nay. Có thể nói, tác phẩm đã chạm đến trái tim người đọc bởi giá trị nhân văn, ý nghĩa.
3. Phân tích Người ở bến sông Châu mẫu 2
Chiến tranh xảy ra giúp cho dân tộc ta có một nền độc lập, hòa bình như ngày hôm nay cũng để lại rất nhiều hệ lụy, đau thương, chia rẽ với số phận con người. Câu chuyện “Người ở bến sông Châu” của tác giả Sương Nguyệt Minh nói về nỗi đau của người phụ nữ thời kì chiến tranh kết thúc, mất đi đôi chân, mất đi bạn đời và đồng đội, đó chính là cô ý tá Mây dũng cảm, nhân hậu.
Bên cạnh đó cũng nói lên dấu vết bi thương lên số phận của mỗi con người. Mở đầu câu chuyện là cảnh dì Mây khoác ba lô về Làng với một chân bị mất khi gia đình đã nhận được giấy báo tử của cô. Ngày cô trở về cũng chính là ngày chú San, người tình năm nao của cô đi lấy vợ. Anh xin cô nối lại tình xưa vì anh tưởng cô đã hi sinh trên chiến trường nên mới đi lấy vợ nhưng Mây không đồng ý vì cô thương cho số phận của mình, chiến tranh đã lấy đi tuổi trẻ, nhân sắc, còn nhẫn tâm lấy đi cả tình yêu của cuộc đời cô.
Những ngày sau đó, trái ngược với niềm vui vô bờ bến của ra đình và mọi người khi Mây trở về, tâm trạng của cô lúc nào cũng nghèn nghẹn. Khi vợ chú San đẻ cạn nước ối, chính dì Mây đã là người đỡ đẻ, xong xuôi mọi thứ Mây gục ngã xuống bàn khóc nức nở. Cô không chấp nhận lời đề nghị sẽ bù đắp cho cô suốt quãng đời còn lại của trinh sát Quang mà cô gặp trên chiến trường đã tìm về tận quê của cô. Cô chọn chăm sóc cho con của thằng Cún vì thím Ba mẹ của nó vì đun te vướng bom bi nên qua đời.
Với bút pháp miêu tả tài tình cùng cách xây dựng cốt chuyện thú vị, tác giả để lại ấn tượng mạnh cho người đọc thấu hiểu được vết thương lòng của người con gái thời chinh chiến xoay quanh cuộc đời của dì Mây cũng như hiện thực về làng quê, từ đó nói lên nỗi niềm cảm thông với người phụ nữ như dì Mây hi sinh tuổi trẻ để bảo vệ tổ quốc và tinh thần đoàn kết gắn bó, yêu nước, yêu dân tộc giữa người với người.
4. Phân tích Người ở bến sông Châu mẫu 3
Khi nhắc đến chiến tranh, người ta vẫn thường mường tượng đến cảnh chiến trường khốc liệt với mưa bom bão đạn, sự hy sinh anh dũng của biết bao nhiêu chiến sĩ cách mạng. Thế nhưng, những hậu quả mà chiến tranh để lại còn đau đớn, xót xa hơn biết bao nhiêu. Sau khi trận chiến kết thúc, trả về cho cuộc đời những con người với những chấn thương cả về thể xác và tâm hồn. Để hiểu rõ hơn về số phận của con người thời hậu chiến phải nhắc đến tác phẩm "Người ở bến sông Châu" của tác giả Sương Nguyệt Minh.
Truyện ngắn "Người ở bến sông Châu" được viết vào tháng 6 năm 1997, khi đất nước đã giành được độc lập. Chiến tranh kết thúc nhưng con người vẫn phải gánh chịu những đau thương cả về thể xác và tâm hồn. Thông qua câu chuyện về cuộc đời dì Mây, tác giả đã mang đến cho người đọc cảm nhận sâu sắc về số phận của những con người bước ra từ chiến tranh.
Tác giả đã miêu tả chân thực số phận bất hạnh của con người sau chiến tranh thông qua việc khắc họa nhân vật dì Mây. Tham gia cách mạng với cơ thể lành lạnh, nhưng ngày trở về dì Mây lại đi khập khiễng vì bị "mảnh đạn phạt một chân". Trước kia, dì Mây là một cô gái với mái tóc đen óng mượt. Nhưng từ khi trở về từ chiến trường, tóc dì rụng, xơ và thưa. Chiến tranh đã cướp đi vẻ đẹp tươi trẻ của dì. Có lẽ sẽ không có phép màu nào giúp cho những thương tích của cuộc chiến trở lại lành lặn như trước trên cơ thể dì Mây. Hẳn là, dì Mây sẽ phải mang theo mình chiếc nạng gỗ mãi mãi và những vết thương lòng vẫn sẽ còn hằn sâu trong tâm trí.
Đau đớn thay cái ngày mà dì Mây từ chiến trường về, lại là ngày chú San - người yêu dì đi lấy vợ. Khi vừa trở về giọng của dì nghèn nghẹn, dì "im lặng, tập tễnh" theo sau ông về xóm trại. Khi nói chuyện với chú San dì đã nuốt nước mắt vào trong để từ chối tình cảm của chú. Tác giả xây dựng tình huống bất ngờ, éo le, nan giản để làm nổi bật nỗi lòng của nhân vật. Cảm xúc của dì Mây ban đầu là ngổn ngang, xúc động, sau đó là đau khổ, uất ức, xót xa. Dì Mây vẫn còn yêu chú San nhưng dì hiểu rõ nhất hoàn cảnh hiện tại để dứt khoát buông tay. Người phụ nữ đó nguyện hi sinh tình cảm cá nhân để người mình yêu được hạnh phúc. Qua việc xây dựng tình huống đầy trớ trêu, tác giả đã giúp người đọc cảm nhận được nỗi lòng đầy đau khổ của dì Mây. Chiến tranh không chỉ in hằn lên con người nỗi đau về thể xác mà còn cả đau đớn về mặt tinh thần.
Bước ra từ cuộc chiến với biết bao đau khổ, nhưng dì Mây vẫn hiện lên với những phẩm chất đáng quý. Trước hết, đây là người phụ nữ mang tấm lòng yêu nước, dũng cảm. Dì Mây nguyện hi sinh quãng thời gian thanh xuân tươi đẹp nhất để tham gia cách mạng. Chỉ bằng vài chi tiết cũng đủ cho người đọc cảm nhận được tinh thần chiến đấu kiên cường của dì.
Không chỉ vậy, dì còn là người phụ nữ với tấm lòng thủy chung. Suốt những ngày ở Trường Sơn, trang nhật kí nào dì cũng viết tên người yêu. Tình yêu, nỗi nhớ chú San luôn thường trực trong lòng người phụ nữ. Cứ ngỡ sau khi kết thúc chiến tranh, trở về sẽ được đoàn tụ với người mình yêu nhưng hiện thực lại khiến cho dì đau đớn đến tột cùng. Mặc dù chọn dứt khoát tình cảm với chú San nhưng những ngày sau đó dì vẫn luôn buồn, lòng đầy tâm sự "Dì ngồi rất lâu trước ngọn đèn dầu tù mù [...] Dì ngồi như tượng", "Dì thở dài, nuối tiếc. Đôi mắt nhìn xa xăm". Dường như trong lòng dì Mây vẫn còn những kỉ niệm thân thương với người yêu mà chưa thể xóa nhòa được.
Ngoài ra, dì Mây còn là người giàu tình yêu thương, biết quan tâm đến những người xung quanh. Những ngày chèo đò giúp ông, dì không lấy tiền của lũ bạn Mai. Còn khi hay tin trạm xá thiếu người, dì đã đồng ý làm y tá. Vào những đêm mưa, dì không quản ngại vất vả đến tận nhà khám chữa bệnh cho mọi người. Bước đi có khó khăn do bị mảnh đạn "phạt một chân", cũng không thể ngăn nổi tấm lòng của dì. Đặc biệt, khi hay tin vợ chú San vượt cạn thiếu tháng, dì Mây không ngần ngại cứu giúp. Ở trong hoàn cảnh trớ trêu đó thật khó xử cho dì. Nhưng vượt qua những cảm xúc cá nhân, với tình yêu thương, tấm lòng của người y sĩ dì đã giúp vợ chú San vượt cạn thành công. Ngoài ra, khi hay tin thím Ba không may qua đời, dì đã nhận chăm sóc thằng Cún. Khép lại câu chuyện là việc dì Mây ru thằng Cún ngủ thật khiến cho người ta cảm động. m thanh vang vọng ấy vừa chất chứa nỗi lòng đầy tâm sự, vừa thể hiện tình yêu dì dành cho đứa nhỏ. Qua đây, ta thấy được dì Mây là người phụ nữ với biết bao phẩm chất tốt đẹp.
Bằng việc sử dụng điểm nhìn linh hoạt, Sương Nguyệt Minh đã thành công mang đến cho độc giả câu chuyện về số phận con người thời hậu chiến. Truyện ngắn như phơi bày hiện thực đau đớn do chiến tranh để lại. Con người không chỉ phải chịu những mất mát về thể xác mà còn phải gánh chịu những đau đớn về mặt tinh thần. Thế nhưng dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, tình yêu thương giữa người với người vẫn luôn gắn bó. Đó chính là truyền thống, niềm tự hào của dân tộc Việt Nam muôn đời.
Câu chuyện xúc động mà Sương Nguyệt Minh mang đến cho người đọc sẽ còn nguyên những giá trị tốt đẹp ở bất cứ thời đại nào. Nhắc nhở mỗi người cần trân trọng, biết ơn sự hi sinh của thế hệ cha ông đi trước cho chúng ta có cuộc sống như ngày hôm nay.
5. Phân tích Người ở bến sông Châu mẫu 4
Cuộc chiến tranh giúp dân tộc Việt Nam có được độc lập, tự do như ngày hôm nay cũng để lại quá nhiều mất mát, đau thương và chia lìa số phận con người. Truyện Người ở bến sông Châu của tác giả Sương Nguyệt Minh kể về nỗi đau của một người phụ nữ trong chiến tranh bị mất đi đôi chân, mất chồng và con, tức là cô y tá Mây dũng cảm, tốt bụng.
Ngoài ra, nó còn nói lên nỗi đau về số phận của mỗi người. Mở đầu câu chuyện là cảnh dì Mây xách ba lô trở về làng với chiếc chân bị cụt khi gia đình nhận được cáo phó. Ngày cô trở về cũng là ngày chú San, người tình lâu năm của cô kết hôn. Anh van xin cô nối lại tình xưa vì cho rằng cô đã hy sinh nơi chiến trường rồi mới tính đến chuyện kết hôn, nhưng Mây từ chối vì tiếc cho số phận khi chiến tranh đã lấy đi tuổi trẻ và sắc đẹp của cô, và nhẫn tâm lấy đi cuộc đời mình.
Vài ngày sau, trái ngược với niềm hạnh phúc vô bờ bến của mẹ chồng và mọi người khi Mây trở về, tâm trạng cô vẫn nặng trĩu. Khi vợ chú San cạn nước ối, dì Mây đỡ đẻ, sau cùng, dì Mây gục mặt xuống bàn khóc nức nở. Cô đã không nhận lời hứa chăm sóc mẹ suốt đời của trinh sát Quang khi gặp trên đường và tìm đến nhà. Cô chọn cách chăm sóc con chó và dì, mẹ cô đi lấy nước và phải nằm.
Bằng bút pháp miêu tả tài tình, cốt truyện lôi cuốn, tác giả để lại ấn tượng mạnh khi người xem thấu hiểu được những vết thương lòng của người con gái trong chiến tranh xoay quanh cuộc đời dì Mây cũng như hiện thực làng quê, qua đó bày tỏ sự đồng cảm với những người phụ nữ như Dì Mây người đã hy sinh tuổi thanh xuân của mình cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc và tình đoàn kết, yêu quê hương đất nước giữa các dân tộc anh em.
6. Phân tích Người ở bến sông Châu mẫu 5
Sương Nguyệt Minh là một nhà văn quân đội, đến với sự nghiệp văn chương khá muộn. Tiêu biểu cho sáng tác của ông phải kể đến truyện "Người ở bến sông Châu". Tác phẩm đã tái hiện chân thực cuộc sống và số phận con người hậu chiến tranh, đồng thời ngợi ca vẻ đẹp của nhân vật dì Mây - một người phụ nữ thủy chung, nhân hậu.
Cứ tưởng rằng sau chiến tranh, con người sẽ được hạnh phúc trọn vẹn nhất. Thế nhưng, sau khi được hưởng tự do, vẫn có những nỗi đau đớn về thể xác và cả tinh thần hiện hữu trong cuộc sống. Câu chuyện về cuộc đời và số phận của dì Mây đã cho người đọc có cái nhìn sâu sắc về con người thời hậu chiến.
Chiến tranh đã cướp đi tuổi trẻ, thanh xuân tươi đẹp của dì Mây. Trước khi tham gia cách mạng, dì có mái tóc đen, mượt, nước da trắng hồng. Dì rất xinh đẹp khiến cho nhiều chàng trai để ý. Nhưng sau khi cuộc chiến kết thúc, dì trở về, tóc dì xơ, rụng nhiều. Thậm chí còn bước đi khó khăn do mảnh đạn "phạt một chân". Chiến tranh khốc liệt không chỉ cướp đi tuổi trẻ, sắc đẹp mà đau đớn hơn còn cướp đi cả tình yêu của dì. Ngày trở về, cũng là lúc chú San - người yêu dì đi lấy vợ. Mặc dù còn yêu nhưng dì vẫn dứt khoát từ chối "Thôi! Thôi! Lỡ rồi! Đằng nào cũng chỉ một người đàn bà khổ". Câu nói đó chất chứa bao nhiêu nỗi lòng đau đớn, xót xa, tủi cực cho chính số phận mình của dì.
Ở dì Mây, ta thấy ánh lên nghị lực sống phi thường. Bước ra khỏi cuộc chiến, với những đau thương, mất mát cả về thể xác và tinh thần nhưng dì chưa bao giờ bi quan với cuộc đời. Đặc biệt dì luôn cố gắng sống có ý nghĩa, mang lại hạnh phúc cho mọi người. Dù bị đạn phạt mất một bên chân nhưng hàng ngày vẫn giúp ông chèo đò, khám chữa bệnh cho người dân.
Không chỉ vậy, dì Mây còn là người phụ nữ thủy chung son sắt. Những ngày ở Trường Sơn, trang nhật kí nào dì cũng viết tên chú San. Điều đó như chất chứa bao nỗi nhớ nhung, yêu thương của người con gái khi phải xa người yêu. Với dì Mây, hình ảnh người yêu luôn thường trực trong tâm trí, là động lực giúp dì cố gắng hoàn thành nhiệm vụ chiến đấu. Khi biết tin người yêu đi lấy vợ, dì ngỡ ngàng, đau đớn vô cùng. Tuy vậy, khi chú San muốn nối lại tình xưa thì dì dứt khoát từ chối "Không!", "Dì bật dậy, chống nạng gỗ cộc cộc đi vào sân". Không phải dì không còn tình cảm với chú San, mà bởi vì dì đang nhận phần thiệt thòi về mình. Dì nguyện hi sinh hạnh phúc cá nhân để người mình yêu được hạnh phúc.
Không chỉ thủy chung, dì còn có tấm lòng yêu thương với tất cả mọi người. Những ngày chèo đò giúp ông, dì không bao giờ lấy tiền của lũ trẻ vì thương chúng đi học vất vả. Đặc biệt khi hay tin trạm xá thiếu người, dì đã đồng ý giúp đỡ. Những đêm mưa, đường đi khó khăn vô cùng dì vẫn đến tận nhà cứu chữa cho mọi người. Điều đáng cảm phục ở đây đó là người phụ nữ ấy bị mất một bên chân. Thế nhưng, dì luôn đặt lợi ích của mọi người lên trên mà quên đi nỗi đau của chính mình. Ngay cả khi biết tin vợ chú San vượt cạn thiếu tháng đang nguy hiểm. Không nghĩ đến lời nói của thím Ba, dì vẫn cố gắng giúp cho cô Thanh vượt cạn. Khi thím Ba không may qua đời, dì đã đón thằng Cún bằng tất cả yêu thương về nuôi như con đẻ của mình. Thế mới thấy tấm lòng nhân hậu của dì thật rộng lớn.
Bằng bút pháp miêu tả tâm lí nhân vật sống động, tác giả đã mang đến cho người đọc câu chuyện ý nghĩa. Bước ra từ chiến tranh khốc liệt, mang trong mình những nỗi đau không thể xóa mờ, nhưng họ vẫn luôn ánh lên những phẩm chất cao đẹp. Tác phẩm chính là lời nhắc nhở mỗi người cần biết ơn, trân trọng đối với những thế hệ đi trước.
Truyện ngắn "Người ở bến sông Châu" giúp người đọc hiểu hơn về cuộc đời con người thời hậu chiến. Vẻ đẹp của dì Mây cũng chính là vẻ đẹp chung của người phụ nữ Việt Nam muôn đời. Qua tác phẩm, ta thấy thêm yêu, thêm trân trọng cuộc sống hòa bình như ngày hôm nay.
7. Phân tích Người ở bến sông Châu mẫu 6
Nhà phê bình văn học nổi tiếng Belinski từng tâm đắc: “Cái đẹp là điều kiện không thể thiếu được của nghệ thuật, nếu thiếu cái đẹp thì không có và không thể có nghệ thuật, đó là một định lý”. Âm thanh vang lên từ chiếc piano với những phím đàn chỉ với hai màu đen và trắng tưởng chừng như khô khan, rệu rã.
Nhưng người nghệ sĩ đã tìm ra cái hay, cái đẹp của những phím đàn mà tạo nên những bản nhạc mang âm hưởng tuyệt vời. Văn học cũng vậy, phản ánh hiện thực và đời sống con người nghe như đơn giản nhưng thật ra là phức tạp và đa chiều vô cùng. Trên hành trình khám phá và sáng tạo nghệ thuật, sứ mệnh của mỗi nhà văn là phát hiện được cái đẹp ở bề sâu cuộc sống.
Nhà văn Sương Nguyệt Minh thực sự đã hoàn thành sứ mệnh ấy với hình ảnh nhân vật dì Mây-một người phụ nữ giàu đức hi sinh nhưng không cam chịu và nhu nhược trong truyện ngắn “Người ở bến sông Châu”
Nhắc đến nhà văn Sương Nguyệt Minh người ta nhớ ngay đến hình ảnh một người lính với tính cách vừa hổ lửa vừa hồn nhiên, lại có khi lạnh lùng, phớt đời.
Ta sẽ thấy được trong các sáng tác của ông, hình ảnh làng quê với những gốc nhìn hiện thực, vừa lãng mạn đan cài, soi chiếu vào nhau chính vì vậy cảm hứng mà người đọc nhận thấy trong các sáng tác của ông vừa nồng nàn, vừa thâm trầm, nét duy mỹ và lạng mạn để hướng chiều sâu tâm hồn và kí ức. Điều đó góp phần làm nên phong cách lịch lãm, tài hoa, tinh tế trên mỗi trang văn của tác giả.
“Nếu như có thể nếm được, thì các truyện ngắn của Sương Nguyệt Minh đều có vị ngọt và cay. Đó là vị ngọt của phong cảnh làng quê của trăng nước, tình người, vị cay xót của số phận con người” (Nguyễn Hữu Đại). Sương Nguyệt Minh hiện nay được đánh giá là một trong những nhà văn quân đội tiêu biểu. Chính vì ông từng là một người lính cho nên ông viết văn bằng sự trải nghiệm và thể nghiệm của một con người đi ra từ cuộc chiến. Với ông, chiến tranh không chỉ là sự đổ máu hi sinh. Mà chiến tranh còn gắn với bi kịch, nỗi đau dai dẳng, âm ỉ, lặng thầm nhưng không kém phần dữ dội ở từng số phận, từng cuộc đời.
Cảm xúc của Sương Nguyệt Minh được dồn nén chân thực, xúc động qua những mảnh đời, những thân phận éo le, ngang trái, những tình cảm trớ trêu , nghiệt ngã sau trận chiến.
Nhà văn chú ý khai thác thân phận, trách nhiệm, tình yêu, bi kịch thời hậu chiến… thông qua những trang viết đầy ám ảnh và lôi cuốn, gửi đến độc giả những bức thông điệp thấm thía, sâu sắc về bài ca sức sống mãnh liệt của con người, về lòng nhân ái, niềm tin yêu và khát vọng sống trong an bình.
Xuất hiện trên văn đàn vào những năm đầu thập niên chín mươi của thế kỉ XX, cho đến nay với niềm đam mê và tinh thần lao động nghệ thuật nghiêm túc Sương Nguyệt Minh đã cho ra đời sáu tập truyện ngắn cùng với đó là rất nhiều bài bút kí, tuỳ bút.
Gây ấn tượng mạnh mẽ trong lòng người đọc nhất có lẽ vẫn là cô gái tên Mây trong truyện ngắn “Người ở bến sông Châu” được nhà văn sáng tác vào năm 1997. Câu truyện là những khoảng đời trớ trêu bất hạnh mà những người phụ nữ Việt Nam phải gánh chịu sau năm 1975, đi qua những năm tháng chiến tranh gian khổ, chịu đựng vết thương từ chiến trường, dì Mây-một nữ chiến sĩ đường Trường Sơn nhận thêm những thương tổn trong cuộc sống mới. Mây sống lặng lẽ trong nỗi cô đơn trên chính bến đò quê hương.
“Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước
Mà lòng phơi phới dậy tương lai”
Đó là tinh thần nhiệt huyết của những năm kháng chiến chống Mĩ của dân tộc ta, hoà mình vào tinh thần ấy dì Mây-cô gái đại diện cho một thế hệ thanh niên đã dâng hiến quãng đời thanh xuân tươi đẹp nhất cho cách mạng. Tuổi trẻ của cô là những ngày tháng lăn lộn trên khắp các nẻo đường Trường Sơn. Hình ảnh của Mây làm ta nhớ đến cô “hoa hậu” trong lòng bom đạn - Trương Định cũng dành cả thanh xuân mình cho chiến trường, cống hiến cho đất nước.
Dì Mây là người duy nhất sống sót của tiểu đội quân y. Trở về từ trong bom đạn, về nhà khi gia đình đã nhận được tin báo tử của cô, trong tiềm thức của gia đình và người yêu cô đã đi dẫn vào quên lãng. Dì Mây về làng vào đúng ngày mà chú San-người yêu cô kết hôn vì tưởng rằng cô đã hi sinh trên chiến trường khốc liệt.
Ngày cô về, quê hương như rực màu đỏ, phải chăng là ăn mừng ngày cô trở về? Hoặc có thể là chúc mừng cho đôi uyên ương hôm ấy. Dù là thế nào đi nữa ngày hôm ấy trong mắt Mây “nước sông Châu đỏ quạch”, “màu hoàng hôn đỏ ối”. Trong cái màu đỏ ấy có một đám rước dâu và có một cô gái lỡ đò. Lần lỡ đò ấy như lỡ cả một đời hạnh phúc của dì Mây, chú San đã cưới cô Thanh là giáo viên ở xóm bãi bên kia sông và đoạn nhân duyên giữa dì Mây và chú San đến đây cũng đã đi về hai ngả.
Dì Mây về nhà, cỗ cưới vẫn chưa tàn nhưng không hiểu sao lại nghe thấy tiếng quát tắt nhạc bên nhà Chú San. Sau vài câu thì thầm của thím Ba, chú san bỗng dưng suy sụp mà “ngồi phịch xuống ghế ôm đầu”. Tiếng ồn ào khi trước không còn mà chỉ còn lại tiếng cất dọn bát đĩa. Một lúc sau, chú San rẽ lối hàng râm bụt đi sang. Trong cái không khí ngượng ngùng, gượng gạo chẳng ai nói lên lời, Bố mẹ Mai lờ đi, ông cũng vậy. Chú San luôn nhận lỗi về phía mình, và cùng dì Mây nhắc về những kỉ niệm cũ. Khi đang chìm trong hồi ức ngọt ngào thì tiếng gầu nước Mai kéo đập vào giếng đã đánh thức hai người.
Chú San xin dì Mây để hai đứa làm lại từ đầu, câu nói khiến bầu không khí lúc ấy trở nên ngột ngạt, vợ chú San cũng ở bên kia hàng râm bụt cũng đi lại, dứt lá râm bụt. Với tấm lòng cao thượng, hơn hết cũng là phụ nữ dì Mây thấu hiểu nỗi thống khổ khi bị tổn thương, là người tổn thương dì Mây không muốn làm tổn thương thêm người khác và lời từ chối cất lên: “Thôi! thôi! Lỡ rồi! Đằng nào cũng chỉ một người đàn bà khổ! Anh về đi!” Trong mối quan hệ rối như bòng bong ấy sau tất cả đều sẽ có một người phụ nữ đau khổ, dì đã chịu đủ những đau đớn ngoài chiến trường cùng với đức hi sinh cao cả dì Mây đã để cho mình đau và để cho cô Thanh hạnh phúc. Trước sự hi sinh ấy cô Thanh cũng nức nở mà biết ơn dì. Trong phân đoạn này bút pháp tả cảnh và diễn biến tâm lí các nhân vật của tác giả trong truyện ngắn Người ở bến sông Châu đã cho ta thấy được niềm say mê khẳng định cái tốt, cái tích cực; phủ nhận những điều xấu xa giả dối sẽ đem lại cho tác phẩm một luồng sinh khí, biến những tư tưởng khô khan thành các hình tượng sinh động, tạo ra một bầu khí quyển nóng bỏng, biến tác phẩm trở thành một sợi dây truyền tình cảm của tác giả đến người tiếp nhận. Sự nhiệt thành trong việc bộc lộ cảm xúc của nhà văn, nhà thơ sẽ khiến “cảm hứng chủ đạo của tác phẩm chi phối sự thống nhất cảm xúc của hình tượng, chi phối hệ thống nghệ thuật biểu cảm của tác phẩm”. Đặc biệt trong thể loại truyện ngắn – một thể loại có dung lượng khiêm tốn, thường lấy cái “khoảnh khắc”, cái “lát cắt” cuộc sống làm căn cốt – thì vai trò của cảm hứng nghệ thuật càng quan trọng. Truyện càng ngắn thì sự dồn nén của tình tiết và sự mãnh liệt trong tình cảm càng đòi hỏi cao. Những xúc cảm tâm lý thường bộc lộ một cách cao độ hơn, thể hiện nội dung tư tưởng một cách nổi bật, tập trung vào một vấn đề nhân sinh trọng tâm chứ không dàn trải như ở thể loại tiểu thuyết.
Cuộc sống về sau của dì cũng thật đau khổ, từ ngày hôm ấy, cuộc sống của vợ chồng chú San, Thanh và dì ở nhà bên, cách nhau có hàng rào tre, diễn ra hết sức trớ trêu và đau khổ. Dì quyết ra bến sông ở, nhưng từ ngày chuyển ra đó dì lúc nào cũng buồn buồn, cứ thẫn tha thẫn thờ, lúc ngắm trời nhìn nước, lúc lụi cụi nấu cơm.
Cuộc sống quẩn quanh ấy thật giống với cái khung cảnh ở phố huyện Cẩm Giàng trong “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam. Nhớ trước kia dì là một cô gái trẻ trung, yêu đời, tóc dì dài đến gót chân, xinh đẹp nhất làng nhưng đã dũng cảm xung phong ra chiến trường để rồi khi trở về tóc dì rụng đi nhiều và xơ, cô trở về trong sự lãng quên của gia đình, của người thân và cả của người yêu.
Cuộc sống sau đó của dì Mây hết sức bình bị với cái chân lành còn lại, dì đưa đám bạn của Mai qua sông đi học và đặc biết gì trở về làm một nữ quân y khi xây trạm xá mới. Nhà văn Pautopxki từng nói: “Chi tiết làm nên bụi vàng của tác phẩm” thật vây, từ những chi tiết được tác giả chắt lọc và xây dựng lên tình huống truyện giúp bộc lộ tính cách nhân vật dì Mây một cách rõ nét.
Tác giả đã đặt dì Mây vào một tình huống thực sự đặc biệt khi vợ chú San vượt cạn thiếu tháng, thai ngôi ngược lại tràng hoa quấn cổ. Thím Ba đã loay hoay đỡ mãi nhưng không được, cô Thanh cũng đuối dần, nguy cơ tử vong khá cao. Trong cái đêm mưa gió bão bùng, đường lên huyện quá xa, đò ngang cách trở dì đã khoác áo mưa đến và đỡ đẻ thành công cho cô Thanh không màng đến lời thím Ba nói.
Trong trường hợp này tác giả đã xây dựng tình huống rất hay để làm nổi bật phẩm chất và nhân cách của nhân vật dì Mây. Bởi, chú San là người đã phản bội tình cảm của dì Mây nhưng dì không chút thù oán, không vì chuyện cá nhân mà ngó lơ tình thế nguy hiểm của vợ chồng chú. Từ đó, người đọc cảm nhận rõ dì Mây luôn quan tâm đến người khác, bao dung, vị tha, có trách nhiệm trong công việc của mình. Cũng chính từ tình huống ấy đã khiến một cô gái mạnh mẽ như dì phải trào nước mắt. Sau khi đỡ đẻ thành công cho cô Thanh – vợ chú San, dì Mây đã gục luôn xuống bàn đỡ đẻ và khóc tức tưởi. Dì Mây khóc như vậy bởi lẽ người được hưởng hạnh phúc ấy đúng ra là dì. Nhưng giờ đây, khi dì trở về, chú San đã lấy vợ. Đó cũng là lúc những hi vọng, chờ mong, niềm ao ước về một cuộc sống hạnh phúc cùng nhau đã bị dập tắt.
Dì Mây khóc cho chính số phận mình, có lẽ giây phút đó, dì đã quá tủi thân và bởi những nỗi đau mà dì chịu đựng, dồn nén trong lòng quá lâu, chỉ trực chờ một khoảnh khắc nào đó, khoảnh khắc mà người con gái ấy không thể gồng mình lên chống đỡ được nữa thì giọt nước mắt ấy sẽ tuôn rơi.
Chiến tranh đã đi qua nhưng đã lấy đi rất nhiều thứ của nhân dân và cũng để lại biết bao hệ luỵ không đáng có. Bến sông Châu vẫn đầy bom bi chưa nổ và thím Ba vì đun te vướng bom bi nên đã qua đời, thằng Cún đã mất mẹ. Khi ấy có chú lính trinh sát Quang mà dì Mây gặp ở chiến trường tìm về tận quê. Dù dì trốn chạy và lảng tránh nhưng chú quyết định ở lại bến sông Châu nguyện chăm sóc và bù đắp cho dì suốt quãng đời còn lại.
Nhưng dì lại không chấp nhận mà chọn chăm sóc con của thím Ba Dì nuôi thằng cún và mỗi đêm tiếng ru nó ngủ của dì lại vang lên trên bến sông Châu. Tiếng ru của dì hòa với cảnh đêm của miền sông nước và sự cảm nhận lắng nghe của những chú lính làm cầu. Sự thay đổi trong tiếng ru của dì Mây dường như cũng là sự thay đổi trong tâm trạng.
Có lẽ, tâm trạng lúc đầu của dì Mây vẫn còn chất chứa sự tủi thân, nỗi buồn từ những chuyện chẳng vui nhưng dần dần, dì đã chấp nhận được sự thật và cùng chung sống với nó. Dì Mây không giống như những hình ảnh người phụ nữ xưa mà mang theo hơi thở hiện đại, cô là người luôn hy sinh và sống cho người khác nhưng tuyệt đối không phải là một người cam chịu, nhu nhược.
Chiến tranh đã lấy đi tuổi trẻ, nhan sắc và cả tình yêu của dì Mây. Vết thương trên người mỗi khi trái gió là lại đau nhức. Dì trở về chỉ còn một mình cô bên chiếc nạn gỗ, bên con búp bê không biết nói. Nếu như trước kia dì năng động, hoạt bát, xinh đẹp phơi phới sắc xuân thì giờ đây cô lại mang trong mình sự buồn tẻ, đượm buồn trong thân thể người phụ nữ.
Dưới ngòi bút của tác giả cốt truyện m tuy giản dị nhưng lại gây ấn tượng mạnh đến độc giả, tạo cho người đọc thấu hiểu được từng lớp văn chương. Từ không gian đến thời gian chỉ xoay quanh nhân vật Dì Mây nhưng được lồng ghép vào xen kẽ rất đặc biệt, nói về làng quê với cái nhìn hiện thực, vừa lãng mạn đan xen vào nhau và vốn am hiểu, cảm thông với người phụ nữ đã làm rung động tâm hồn độc giả.
Dì Mây trong truyện ngắn đã cho chúng ta thấy được những thứ được và mất sau chiến tranh, những góc khuất trong đời sống thường ngày. Với tâm lòng am hiểu, thông cảm sâu sắc đến thân phận người phụ nữ qua những chi tiết đã phần nào được phản ánh tích cực.
8. Phân tích Người ở bến sông Châu mẫu 7
Đề tài viết về người lính sau chiến tranh là mảnh đất màu mỡ của các nhà văn nhà thơ khai thác như Nguyễn Huy Thiệp, Ma Văn Kháng, Lê Lựu,... Một trong số đó không thể không nhắc đến nhà văn quân đội Sương Nguyệt Minh với tác phẩm Người ở bến sông Châu và nhân vật nổi bật là Dì Mây.
Mây - đại diện cho một thế hệ thanh niên đã dâng hiến quãng đời thanh xuân tươi đẹp nhất cho cách mạng. Tuổi trẻ của cô là những ngày tháng lăn lộn trên khắp các nẻo đường Trường Sơn. Mây là người duy nhất sống sót của tiểu đội quân y. Mây trở về làng khi gia đình đã nhận được tin báo tử của cô. Và ngày cô trở về quê cũng là ngày người yêu – San đi lấy vợ vì tưởng cô hy sinh. Ngay đêm tân hôn, biết tin Mây còn sống quay về, San đã tìm gặp Mây. Anh xin cô được bỏ vợ để cả hai làm lại từ đầu. Mây khóc, từ chối vì cho rằng: “Một người phụ nữ đau khổ và lỡ dở đã là quá đủ”. Vậy là từ đó, cuộc sống của đôi vợ chồng San – Thanh và Mây ở nhà bên, cách nhau có hàng rào tre, diễn ra hết sức trớ trêu và đau khổ. Trước đây tóc cô dài đến gót chân, xinh đẹp nhất làng đã dũng cảm xung phong ra chiến trường để rồi khi trở về tóc cô rụng đi nhiều và xơ, cô trở về trong sự lãng quên của gia đình, của người thân và cả của người yêu. Chiến tranh đã lấy của cô đi tuổi trẻ, nhan sắc và cả tình yêu. Vết thương trên người mỗi khi trái gió là lại đau nhức. Cô trở về chỉ còn một mình cô bên chiếc nạn gỗ, bên con búp bê không biết nói. Nếu như trước kia cô năng động, hoạt bát, xinh đẹp phơi phới sắc xuân thì giờ đây cô lại mang trong mình sự buồn tẻ, đượm buồn trong thân thể người phụ nữ. Mây không giống như những hình ảnh người phụ nữ xưa mà mang theo hơi thở hiện đại, cô là người luôn hy sinh và sống cho người khác nhưng tuyệt đối không phải là một người cam chịu, nhu nhược. Cô luôn đưa ra những quyết định quan trọng vào những thời điểm quan trọng trong sự tỉnh táo, sáng suốt và tự chủ ngay cả lời chia tay. Không chịu được cảnh trớ trêu ấy, Mây đã bỏ ra căn chòi bên bờ để ở, sống với những nỗi buồn thầm lặng không biết bao giờ nguôi ngoai. Sau một thời gian mọi thứ quay lại về với cuộc hàng ngày, tóc của Mây cũng dài thêm đôi chút, da dẻ hồng hào nhưng có lẽ vết thương sâu bên trong, độ tuổi xuân thì thì đã không còn. Trong khi đó, anh lính trinh sát Quang mà Mây gặp ở chiến trường tìm về tận quê cô. Dù cô trốn chạy và lảng tránh nhưng Quang quyết định ở lại bến sông Châu nguyện chăm sóc và bù đắp cho Mây suốt quãng đời còn lại. Nhưng cô lại không chấp nhận mà chọn chăm sóc con của thím Ba, tiếng ru của cô hòa với cảnh đêm của miền sông nước và sự cảm nhận lắng nghe của những chú lính làm cầu. Có thể thấy chiến tranh không chỉ để lại những vết thương thể xác cho người lính, mà còn làm thay đổi số phận, gây ra những trái ngang đau khổ cho họ ngay cả khi họ trở về với thời bình khi chiến tranh đã kết thúc. Và những “người trở về” đó với sự kiên cường và lòng nhân ái họ đã vượt qua được nghịch cảnh để sống tốt, khẳng định phẩm chất của bộ đội Cụ Hồ.
Dì Mây trong truyện ngắn Người ở bến sông Châu đã cho chúng ta thấy được những thứ được và mất sau chiến tranh, những góc khuất trong đời sống thường ngày. Với tâm lòng am hiểu, thông cảm sâu sắc đến thân phận người phụ nữ qua những chi tiết đã phần nào được phản ánh tích cực.
9. Phân tích Người ở bến sông Châu mẫu 8
Nhà phê bình văn học nổi tiếng Belinski rất tâm đắc: “Cái đẹp là yếu tố không thể thiếu trong của nghệ thuật, nếu thiếu vẻ đẹp sẽ không có tác phẩm không thể có nghệ thuật, đó là một định lý”. Âm thanh vang lên từ cây piano với các đoạn nhạc dài với hai màu đen và trắng tưởng rằng khô cứng, nhàm chán.
Nhưng người nghệ sỹ đã tìm thấy nét hay là, vẻ đẹp của từng phím nhạc để sáng tạo ra các tác phẩm có giá trị cao. Đàn bà cũng thế, phản ánh xã hội và cuộc sống con người tưởng rằng giản đơn nhưng thực ra là sâu sắc và đa diện hơn bao giờ hết. Trên đường nghiên cứu và sáng tác nghệ thuật, sứ mệnh của các nhà văn là tìm thấy vẻ đẹp ở chiều sâu đời sống.
Nhà văn Sương Nguyệt Minh thực sự đã hoàn thành nhiệm vụ đó với hình ảnh nhân vật dì Mây-một người phụ nữ giàu đức hy sinh nhưng không yếu đuối và uỷ mị của truyện “Người ở bến sông Châu”.
Nhắc đến nhà văn Sương Nguyệt Minh người đọc nghĩ ngay đến hình ảnh một người lính với cá tính vừa mạnh mẽ vừa dịu dàng, cũng có khi lạnh lùng, thủ đoạn.
Ta sẽ thấy được trong nhiều truyện ngắn của ông, hình ảnh miền quê với những ánh nhìn xa xăm, sự cô đơn đan xen, soi bóng vào nhau luôn là cảm hứng khiến người đọc tìm gặp trong các tác phẩm của ông vừa mãnh liệt, lại trầm lắng, đầy tinh tế và lạng mạn nhằm hướng một chiều sâu nội tâm và ký ức. Điều ấy góp phần tạo dựng phong thái lịch thiệp, hào hoa và lãng mạn trên từng trang viết của nhà văn.
“Nếu có thể nếm thử, thấy trong truyện ngắn của Sương Nguyệt Minh còn có vị ngọt và mặn. Đó là vị ngọt ngào của khung cảnh miền thôn quê của trời sáng, lòng người và vị chát đắng của số phận con người “(Nguyễn Hữu Đại
Sương Nguyệt Minh hiện nay được coi là một trong các nhà văn việt nam xuất sắc. Cũng bởi ông vốn là một người lính nên ông viết bằng những cảm nhận và thể nghiệm của một con người bước ra từ chiến trận. Với ông, chiến tranh không chỉ là cuộc đổ máu hy sinh. Mà chiến tranh cũng gắn với bất hạnh và cái chết dai dẳng, âm thầm, lặng lẽ nhưng không thiếu sự khốc liệt ở mỗi con người, từng số phận.
Tác giả đã đặt dì Mây vào một tình huống thực sự đặc biệt khi vợ chú San sinh thiếu tháng và thai ngôi ngược tràng hoa quấn cổ. Thím Ba đã loay hoay đỡ lên nhưng không được, cô Thanh cũng đuối sức và nguy cơ chết rất cao. Trong cái đêm mưa gió tầm tã, đường lên huyện lại xa xôi, đò ngang cách trở dì đã khoác áo mưa đến và đỡ đẻ thành công cho cô Thanh không cần nghe lời thím Ba nói.
Trong trường hợp này tác giả đã xây dựng tình huống khá tốt để làm nổi bật phẩm chất và nhân cách của nhân vật dì Mây. Bởi, chú San là người đã lừa dối tình cảm của dì Mây nhưng dì không hề oán trách, không vì việc riêng mà bỏ mặc sự nguy cấp của vợ chồng chú. Từ đó, người xem cảm nhận rõ dì Mây rất biết nghĩ cho người khác, khoan dung, độ lượng và có trách nhiệm đối với công việc của mình.
Cũng chính vì tình huống đó đã khiến một cô gái mạnh mẽ như dì mây rơi lệ. Sau khi đỡ đẻ thành công cho cô Thanh – vợ chú San thì dì Mây đã gục ngay xuống bàn đỡ đẻ rồi khóc nức nở. Dì Mây khóc như vậy bởi lẽ người được hưởng hạnh phúc ấy chính là dì. Nhưng bây giờ sau khi dì trở về thì chú San đã lấy vợ. Đó cũng là lúc những hi vọng, đợi chờ và sự ước ao về một cuộc sống hạnh phúc cùng nhau đã bị dập tắt.
Dì Mây khóc cho chính cuộc đời mình, có lẽ giây phút đó, dì đã quá mệt mỏi và bởi bao nỗi đau đớn mà dì chịu đựng, kìm nén trong lòng rất lâu, chỉ trực đợi một khoảnh khắc nào đó, khoảnh khắc mà người con gái ấy không thể gồng mình lên nổi được nữa thì giọt nước mắt ấy sẽ tuôn rơi.
Chiến tranh đã đi qua nhưng đã lấy đi quá nhiều xương máu của người dân và cũng để lại bao hậu quả không đáng có. Bến sông Châu còn đầy mìn chưa nổ và thím Ba vì làm te vướng bom mà đã chết, thằng Cún đã mồ côi mẹ. Khi đó có chú bộ đội trinh sát Quang mà dì Mây quen biết ở chiến trường đã xuống tận quê. Đã trốn chạy và lẩn tránh nhưng chú quyết bám trụ lại bến sông Châu để chăm sóc và che chở cho dì suốt quãng đời còn lại.
Người dì đã không chấp nhận lời khuyên chăm con của thím Ba Dì nuôi thằng cún và mỗi đêm tiếng ru nó ngủ của dì vẫn cất lên trên bến sông Châu. Tếng ru của dì hoà với cảnh đêm của miền sông nước và cả cảm nhận âm thanh của các chú lính làm cầu. Sự thay đổi trong lời ru của dì Mây có lẽ cũng là sự thay đổi về cảm xúc.
Có lẽ, tâm trạng lúc đầu của dì Mây vẫn còn chất chứa sự buồn tủi, nỗi đau từ những câu chuyện không vui nhưng dần dần, dì đã chấp nhận được tất cả và quyết định chung sống với nó. Dì Mây không còn như những hình tượng người phụ nữ ngày xưa mà mang theo hơi thở thời đại, cô là người biết hi sinh và nghĩ đến người khác chứ hoàn toàn không phải là một người yếu đuối hay nhu nhược.
Chiến tranh đã lấy mất thanh xuân, sắc đẹp và cả tương lai của dì Mây. Vết thương trên người mỗi khi trái gió là lại ngứa ngáy. Dì trở về chỉ còn mình cô bên chiếc giường cũ, bên con búp bê không biết nói. Nếu như trước kia dì năng động, trẻ trung, xinh đẹp phơi phới sắc xuân thì giờ đây cô đang mang trong mình nét ảm đạm, đượm buồn trong cơ thể người phụ nữ.
Dưới ngòi bút của tác giả cốt truyện tuy giản dị nhưng đã gây xúc động mạnh mẽ với độc giả, làm cho người ta cảm nhận được từng lớp văn học. Từ không gian đến thời gian đều xoay quanh nhân vật Dì Mây nhưng được lồng vào một cách rất khác, nói về làng quê với góc nhìn chân thực, vừa lãng mạn đan xen vào đó và sự thấu hiểu, đồng cảm với người phụ nữ đã làm rung động tâm hồn bạn đọc.
Dì Mây trong truyện đã cho chúng ta biết được nhiều điều được và mất sau chiến tranh, những góc khuất của cuộc sống đời thường. Với tâm lòng hiểu biết và cảm thông sâu sắc đến số phận người phụ nữ nên những chi tiết đã phần nào được thể hiện đầy đủ.