Soạn bài Hoàng Lê nhất thống chí

Soạn bài Hoàng Lê nhất thống chí thuộc môn ngữ văn lớp 9, học kì 1 do Ngô gia văn phái sáng tác. Soạn bài mẫu môn ngữ văn lớp 9 này được VnDoc sưu tầm và giới thiệu với các bạn để tham khảo để hiểu rõ hơn về nội dung và ý nghĩa của hồi thứ mười bốn Hoàng Lê nhất thống chí để chuẩn bị tốt kiến thức để học tốt môn Ngữ văn lớp 9 một cách dễ dàng nhất.

Soạn bài Hoàng Lê nhất thống chí mẫu 1

Câu 1 SGK:

Đại ý của đoạn trích: Bài văn trích Hồi thứ mười bốn (Đánh Ngọc Hồi, quận Thanh bị thua trận - bỏ Thăng Long Chiêu Thống trốn ra ngoài) trong Hoàng Lê nhất thống chí. Sau khi Lê Chiêu Thống chạy sang Tàu cầu viện, quận Thanh kéo sang xâm lược nước ta, đóng ở Thăng Long. Hay tin này, Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế, điều quân ra Bắc, đánh tan quân Thanh.

- Bố cục: 3 phần

“Nhắc lại, Ngô Văn Sở... Nhằm vào ngày 25 tháng chạp năm Mậu Thân (1788): Được tin báo quân Thanh tiến chiếm Thăng Long, Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đẻ, tập hợp tưởng sĩ, tiến quân ra Bắc.

“Vua Quang Trung tự mình đốc suất đại binh... rồi kéo vào thành”: cuộc hành quân thần tốc của vua Quang Trung: đánh tan quân Thanh, giải phóng Thăng Long.

“Lại nói, Tôn Sĩ Nghị và vua Lê ở Thăng Long... Tôn Sĩ Nghị cũng lấy làm xấu hổ”: Sự đại bại của quân tướng nhà Thanh và tình trạng thảm hại của vua tôi Lê Chiêu Thống.

Câu 2 SGK:

Qua đoạn trích tác phẩm, Quang Trung Nguyễn Huệ hiện lên với những nét phẩm chất:

  • Con người hành động mạnh mẽ, quyết đoán.
  • Trí tuệ sáng suốt nhạy bén.
  • Có ý chí quyết thắng và tầm nhìn xa trông rộng.
  • Tài dùng binh như thần.
  • Trong trận chiến hiện lên thật lẫm liệt.
  • Là người tổ chức và là linh hồn của chiến công vĩ đại.

- Nguồn cảm hứng chi phối ngòi bút của tác giả khi tạo dựng hình ảnh người anh hùng này là tôn trọng sự thực lịch sử và ý thức dân tộc. Các tác giả Ngô gia văn phái là những cựu thần, chịu ơn sâu nghĩa nặng của nhà Lê, nhưng họ đã không thể bỏ qua sự thực là ông vua nhà Lê hèn yếu đã cõng rắn cắn gà nhà và chiến công lừng lẫy của Quang Trung là niềm tự hào lớn lao của cả dân tộc.

Câu 3 SGK:

Đoạn trích đã miêu tả rõ sự thảm bại của quân tướng nhà Thanh và số phận bi đát của vua tôi Lê Chiêu Thống phản nước, hại dân và trong đó tiêu biểu là Tôn Sĩ Nghị:

- Quân tướng nhà Thanh lúc ra đi thì “binh hùng tướng mạnh”. Số quân Thanh đông hơn rất nhiều so với quân Tây Sơn, vậy mà chưa đánh trận đã tan tác, hỗn loạn, nhục nhã trở về nước trước sức mạnh như vũ bão của quân Tây Sơn. Hình ảnh tướng Tôn Sĩ Nghị bất tài, hèn nhát nhưng lại kiêu căng tự mãn, khi quân Tây Sơn đánh đến thì “sợ mất mật, ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc áo giáp, dẫn bọn lính kị mã của minh chuồn trước qua cầu phao, rồi nhăm hướng bắc mà chạy”, sầm Nghi Đống thì thắt cổ chết,...

- Vua tôi Lê Chiêu Thống:

Vì lợi ích của dòng họ, vị thế nhà Lê mà trở thành những kẻ phản động, cõng rắn cắn gà nhà, đi ngược lại quyền lợi của dân tộc; đớn hèn, nhục nhã trước quân Thanh.

Tháo chạy thục mạng, cướp cả thuyền của dân mà qua sông, khi đuổi kịp Tôn Sĩ Nghị thì “nhìn nhau than thở, oán giận chảy nước mắt”, rồi chấp nhận phận vong quốc, sau này phải cạo đầu tết tóc như người Mãn Thanh…

Câu 4 SGK:

Tuy cùng miêu tả cuộc tháo chạy, các chi tiết đều là tả thực nhưng âm hưởng khác nhau:

- Đoạn văn miêu tả cuộc tháo chạy của quân tướng nhà Thanh có nhịp điệu nhanh, mạnh, hối hả, ngòi bút miêu tả khách quan nhưng vẫn hàm chứa tâm trạng hả hê, sung sướng trước sự thảm bại của lũ cướp nước.

- Đoạn văn miêu tả cuộc tháo chạy của vua tôi Lê Chiêu Thống có nhịp điệu chậm rãi hơn, tác giả miêu tả tỉ mỉ những giọt nước mắt thương cảm của người thổ hào, nước mắt tủi hổ của vua tôi Lê Chiêu Thống, âm hưởng có phần ngậm ngùi, chua xót.

→ Các tác giả là những cựu thần của nhà Lê, trước sự sụp đổ của một vương triều mình từng phụng thờ nay đã sụp đổ, dù biết đây là kết cục không thể tránh khỏi nhưng cũng không tránh khỏi sự mủi lòng, thương cảm.

Soạn bài Hoàng Lê nhất thống chí mẫu 2

I. Kiến thức cơ bản

1. Hồi thứ mười bốn là một trong những phần hay nhất của tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí. Qua hồi này, tác giả đã dựng lên hình ảnh người anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ và sự thất bại thảm hại tất yếu của bọn xâm lược và lũ vua quan phản nước, hại dân một cách chân thực, sinh động. Nội dung này được cụ thể bằng những ý chính trong ba đoạn sau:

  • Đoạn từ đầu đến "hôm ấy nhằm vào ngày 25 tháng chạp năm Mậu Thân (1788).": Được tin báo quân Thanh đã chiếm Thăng Long, vua Lê thụ phong, Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế, tự mình đốc suất đại binh ra Bắc dẹp giặc.
  • Đoạn từ "Vua Quang Trung tự mình đốc suất đại binh" cho đến "vua Quang Trung tiến binh đến Thăng Long, rồi kéo vào thành...": cuộc hành quân thần tốc và chiến thắng lẫy lừng của vua Quang Trung đối với quân Thanh.
  • Đoạn từ "Lại nói, Tôn Sĩ Nghị và vua Lê" cho đến hết: Thất bại thảm hại của quân Tôn Sĩ Nghị và sự thảm hại của vua tôi Lê Chiêu Thống.

2. Hình tượng Quang Trung - Nguyễn Huệ được xây dựng chân thực, sinh động với hành động, trí tuệ, tài điều binh khiển tướng, mưu lược... của một vị anh hùng dân tộc:

Hành động mạnh mẽ, quyết đoán:

  • Tiếp được tin báo quân Thanh chiếm đóng Thăng Long, liền họp các tướng sĩ, định thân chinh cầm quân đi ngay;
  • Lên ngôi hoàng đế, đốc suất đại binh ra Bắc dẹp giặc;
  • Gặp Nguyễn Thiếp để hỏi cơ mưu;
  • Tuyển mộ quân lính ở Nghệ An, duyệt binh, phủ dụ quân sĩ, lên kế hoạch tiến quân đánh giặc;

Trí tuệ sáng suốt, mẫn cán, điều binh khiển tướng tài tình:

  • Phân tích tình hình, quyết định tiến quân tiêu diệt giặc;
  • Lời lẽ sắc bén, chặt chẽ, kích thích được tinh thần tự tôn dân tộc của tướng sĩ: lời phủ dụ;
  • Vạch kế hoạch đánh giặc, sử dụng chiến lược, chiến thuật hợp lí, độc đáo (cách hành quân thần tốc, cách chống lại súng của giặc, chiến thuật nghi binh...);
  • Biết dùng người đúng sở trường, ở đoản, đối đãi công bằng.

Ý chí quyết chiến quyết thắng, tầm nhìn xa trông rộng: mạnh bạo, tự tin trong kế sách đánh giặc, tính toán trước sau chu toàn (trước khi đánh giặc đã tính đến cả đối sách với giặc sau khi chiến thắng)...

Hình tượng vua Quang Trung đã được miêu tả với đầy đủ những phẩm chất của một vị anh hùng, mang vẻ đẹp oai phong lẫm liệt. Tác giả Ngô gia văn phái vốn trung thành với nhà Lê mà vẫn viết về vua Quang Trung đầy tinh thần ngợi ca như vậy là vì họ đứng trên tinh thần dân tộc mà phản ánh. Nhờ vậy, càng tạo ra cho tác phẩm sức thuyết phục, tính chân thực cao, chứng tỏ tinh thần tôn trọng sự thật lịch sử. Đây cũng là điểm đặc sắc của thể loại tiểu thuyết lịch sử.

3. Sự thảm bại của quân tướng nhà Thanh và số phận bi đát của vua tôi Lê Chiêu Thống phản nước, hại dân:

Quân tướng nhà Thanh:

  • Tôn Sĩ Nghị bất tài, không nắm được tình hình thực tế, kiêu căng tự mãn, trễ nải quân cơ: "chỉ chăm chú vào yến tiệc, vui mừng, không hề lo chi đến việc bất trắc; khi quân Tây Sơn đánh đến thì "sợ mất mật, ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc áo giáp, dẫn bọn lính kị mã của mình chuồn trước qua cầu phao"...
  • Quân tướng hèn nhát, thảm bại: khi nghe tiếng quân Tây Sơn, quân Thanh ở trong đồn Hạ Hồi "ai nấy rụng rời sợ hãi, liền xin ra hàng"; ở đồn Ngọc Hồi quân thì "bỏ chạy toán loạn, giày xéo lên nhau mà chết", tướng thì tự thắt cổ chết; thấy nghi binh thì "đều hết hồn hết vía, vội trốn"; khi nghe tin Tôn Sĩ Nghị bỏ chạy "đều hoảng hồn, tan tác bỏ chạy, tranh nhau qua cầu sang sông, xô đẩy nhau rơi xuống mà chết rất nhiều. Lát sau cầu lại bị đứt, quân lính đều rơi xuống nước, đến nỗi nước sông Nhị Hà vì thế mà tắc nghẽn không chảy được nữa."...

Vua tôi Lê Chiêu Thống:

  • Vì lợi ích của dòng họ, vị thế nhà Lê mà trở thành những kẻ phản động, cõng rắn cắn gà nhà, đi ngược lại quyền lợi của dân tộc;
  • Đớn hèn, nhục nhã trước quân Thanh;
  • Tháo chạy thục mạng, cướp cả thuyền của dân mà qua sông, khi đuổi kịp Tôn Sĩ Nghị thì "nhìn nhau than thở, oán giận chảy nước mắt", rồi chấp nhận phận vong quốc, sau này phải cạo đầu tết tóc như người Mãn Thanh...

4. Về bút pháp của tác giả khi miêu tả hai cuộc tháo chạy (một của quân tướng nhà Thanh, một của vua tôi Lê Chiêu Thống):

Cảnh tháo chạy của quân tướng nhà Thanh được miêu tả dưới cái nhìn hả hê, mãn nguyện của người thắng trận trước sự thất bại thảm hại của kẻ thù cướp nước: âm hưởng nhanh, gợi tả sự tán loạn, tan tác...

Cảnh bỏ chạy của vua tôi Lê Chiêu Thống được miêu tả dài hơn, âm hưởng chậm hơn, toát lên vẻ chua xót, ngậm ngùi.

Sở dĩ có sự khác biệt đó là vì: mặc dù tôn trọng tính khách quan trong phản ánh, song không thể chối bỏ được thái độ chủ quan khi quan sát, nhìn nhận; đối với quân tướng nhà Thanh, tác giả miêu tả với một tâm thế khác với khi miêu tả cuộc tháo chạy của vua tôi Lê Chiêu Thống - dẫu sao thì cũng là vương triều mình đã từng phụng thờ.

II. Rèn luyện kĩ năng

Văn bản này được trích từ Hồi 14 - tiểu thuyết chương hồi của Ngô gia văn phái - tái hiện lại những diễn biến quan trọng trong cuộc đại phá quân Thanh của vua Quang Trung - Nguyễn Huệ. Mặc dù là một tiểu thuyết lịch sử nhưng Hoàng Lê nhất thống chí (biểu hiện cụ thể ở đoạn trích này) không chỉ ghi chép lại các sự việc, sự kiện mà đã tái hiện khá sinh động hình ảnh của vị anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ, sự thảm bại của quân xâm lược cùng với số phận bi đát của đám vua tôi nhà Lê phản dân, hại nước.

Khi đọc, chú ý giọng đối thoại và giọng của tiểu thuyết chương hồi.

------------------------------

Mời các bạn tham khảo tài liệu liên quan

Dưới đây là bài soạn Hoàng Lê nhất thống chí (Hồi thứ mười bốn) bản rút gọn nếu bạn muốn xem hãy kích vào đây Soạn bài Hoàng Lê nhất thống chí (Hồi thứ mười bốn) ngắn gọn

Ngoài đề cương ôn tập chúng tôi còn sưu tập rất nhiều tài liệu học kì 1 lớp 9 từ tất cả các trường THCS trên toàn quốc của tất cả các môn Toán, Văn, Anh, Lý, Hóa, Sinh. Hy vọng rằng tài liệu lớp 9 này sẽ giúp ích trong việc ôn tập và rèn luyện thêm kiến thức ở nhà. Chúc các bạn học tốt và đạt kết quả cao trong kì thi sắp tới

Đánh giá bài viết
18 10.025
Sắp xếp theo

    Lớp 9

    Xem thêm