Giao diện mới của VnDoc Pro: Dễ sử dụng hơn - chỉ tập trung vào lớp bạn quan tâm. Vui lòng chọn lớp mà bạn quan tâm: Lưu và trải nghiệm

Phân tích hình tượng vua Quang Trung lớp 8 Mới nhất

A. Lập dàn ý phân tích hình tượng vua Quang Trung lớp 8

Dàn ý phân tích hình tượng vua Quang Trung - Mẫu 1

1. Mở bài: Giới thiệu văn bản Hoàng Lê nhất thống chí và hình tượng vua Quang Trung.

2. Thân bài

a. Quang Trung là người có hành động mạnh mẽ, quyết đoán, trí tuệ sáng suốt, nhạy bén.

  • Ngay khi nghe tin giặc đã chiếm một vùng đất lớn của ta, Quang Trung không hề sợ hãi, định cầm quân đi ngay.
  • Nghe lời khuyên từ quần thần, Quang Trung quyết định lên ngôi vua → quyết định hết sức sáng suốt, có ý nghĩa quan trọng.
  • Đối với mỗi đối tượng ông đều có khen chê rõ ràng để mỗi cá nhân nhận ra khuyết điểm của mình → thu phục nhân tâm, ai nấy đều phải tâm phục, khẩu phục.

b. Quang Trung còn là người có tư tưởng quyết chiến, quyết thắng và có tầm nhìn xa, trông rộng

  • Ngay khi khởi binh Quang Trung đã kiên quyết khẳng định chỉ trong vòng mười ngày có thể lấy lại kinh thành Thăng Long.
  • Ông nhận ra bản chất thâm độc của kẻ thù, vì vậy, ông đã tính sẵn kế hoạch ngoại giao sau chiến thắng, để đảm bảo cho dân ta có cuộc sống yên ổn, bình phục lại sau chiến tranh.

→ Quang Trung quả là một vị vua tài trí, tâm sáng, không chỉ lo giành độc lập mà còn lo đến đời sống nhân dân, đến việc xây dựng đất nước sau này.

c. Tài mưu lược và tài dụng binh

  • Trước khi xuất quân ra Bắc ông đã mở tiệc khao quân và hẹn mùng bảy sẽ gặp lại ở thành Thăng Long: lời tiên đoán thần kì dựa trên sự tính toàn tài tình và phương lược có sẵn của vua Quang Trung.
  • Chớp thời cơ vào đúng ngày tết Nguyên Đán để tiến đánh quân Thanh, ông đã tạo ra một cuộc hành quân thần tốc có một không hai trong lịch sử.
  • Ông tổ chức trận đánh hết sức linh hoạt, sáng tạo, kết hợp nhuần nhuyễn nhiều cánh quân, cách đánh.
  • Trong từng trận đánh Quang Trung vận dụng hết sức linh hoạt các binh pháp khác nhau, chỉ đến ngày mùng năm tết ông đã dẹp sạch bóng quân thù trên bờ cõi nước ta, sớm hơn cả những gì ông đã dự tính từ trước.

→ Xây dựng nhân vật Quang Trung, tác giả đã có sự kết hợp nhuần nhuyễn, hài hòa, kết hợp tự sự, miêu tả một cách hợp lí, chân thực, sinh động. Khắc họa chân dung vị anh hùng rõ nét với tính cách quả cảm, dũng mãnh, tài dùng binh như thần.

3. Kết bài: Khái quát lại vẻ đẹp của nhân vật Quang Trung đồng thời nêu ý nghĩa của văn bản.

Dàn ý phân tích hình tượng vua Quang Trung - Mẫu 2

1. Mở bài: Giới thiệu về hình ảnh Quang Trung trong Hoàng Lê nhất thống chí

Ví dụ:

Lịch sử Việt Nam trải qua bao nhiêu đời và có bao nhiêu thăng trầm lịch sử, trải qua nhiều vị vua tài ba lãnh đạo. một trong những vị vua tài ba ấy có hình ảnh lỗi lạc của vua Quang Trung. Hình ảnh vua Quang Trung được thể hiện rõ qua tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí. Tác phẩm ghi chép lại sự thống nhất của vương triều Lê. Tác phẩm đã tái hiện một lịch sử hào hùng và oanh liệt của dân tộc Việt Nam xưa.

2. Thân bài: Phân tích hình ảnh Quang Trung trong Hoàng Lê nhất thống chí

a. Hình ảnh một người quyết đoán, mạnh mẽ

  • Giận, liền họp các tướng sĩ, tự mình cầm quân để đuổi bọn giặc
  • Nghe lời tướng sĩ đứng ra làm vua và tiến quân ra Bắc
  • Tổ chức hành quân hỏa tốc
  • Tổ chức duyệt binh, tuyển binh
  • Lập kế hoạch hành quân đánh giặc

b. Là một con người sáng suốt, có tầm nhìn xa và trông rộng:

  • Phân tích rất đúng và sáng suốt sự tương quan giữa quân ta và quân địch
  • Rất giỏi trong việc phán xét và dùng người
  • Mở tiệc khao quân

c. Tài giỏi trong việc dùng binh:

  • Vị tướng mưu lược tài ba
  • Có sự tính toán trong việc hành quân và đánh giặc
  • Có những mưu tính rất chính xác

d. Có cách đánh giặc độc đáo:

  • Bắt gọn bọn nghe thám
  • Đánh nghi binh
  • Là một vị vua tài ba, có tài cầm quân và mưu lược rất chính xác

3. Kết bài: Nêu cảm nghĩ của em về hình ảnh Quang Trung trong Hoàng Lê nhất thống chí.

B. Phân tích hình tượng vua Quang Trung Ngắn gọn

Trong văn bản “Hoàng Lê nhất thống chí”, vua Quang Trung đã được tác giả xây dựng như một bức tượng đài về hình tượng người anh hùng, đồng thời là một vị tướng lĩnh, một vị vua tài giỏi.

Là người lãnh đạo một đội quân hùng mạnh, vua Quang Trung hành động mạnh mẽ, quyết đoán. Khi vừa nghe tin quân giặc chiếm đóng một vùng lớn của nước ta, ngay lập tức ông đã cầm quân đi ngay để vảo vệ đất nước. Nhưng khi nghe quần thần khuyên rằng nên lên ngôi vua trước rồi hẵng ra quân, ông liền nghe theo. Điều đó chứng tỏ Quang Trung là một vị vua thông minh, sáng suốt và nhạy bén, biết lắng nghe lời khuyên của quần thần. Khi quyết định dùng người, ông cũng luôn đưa ra các nhận xét xác thực, xác định được ưu nhược điểm của họ để dùng đúng việc cần dùng. Do đó, quần thần ai cũng tin phục ông.

Không chỉ vậy, Quang Trung còn là người có tính cách mạnh mẽ, phong thái mạnh bạo của một đại tướng quân. Luôn tham chiến với tinh thần quyết chiến, quyết thắng. Nhưng chớ vì thế mà nghĩ rằng ông là người nóng vội, bộp chộp. Trái lại, Quang Trung là một vị tướng có tầm nhìn xa trông rộng, đồng thời có tài mưu lược, dụng binh thần sầu. Ông sớm nhận ra mưu kế thâm độc của giặc nên đã chuẩn bị kế hoạch ngoại giao sau trận chiến để dân ta có lợi hơn. Trong chiến đấu, ông vận dụng linh hoạt nhiều binh pháp, cách đánh nên dành được chiến thắng liên tục và nhanh chóng. Chính bởi biết mình biết ta như vậy, nên Quang Trung mới dám tự tin công khai ngày tổ chức tiệc khao quân đại thắng khi còn chưa khởi hành. Hành động đó thể hiện sự tự tin và nét “ngông” của một bậc đại tướng tài khí ngút trời.

Có thể nói, “Hoàng Lê nhất thống chí” đã tái hiện lại trước mắt người đọc hình ảnh một vị vua, một vị tướng quân tài giỏi, dũng mãnh, thông minh, tự tin và khéo léo. Vốn xuất thân áo vải, cờ đào, nhưng với những phẩm chất đó, Quang Trung đã trở thành một vị vua xuất chúng, ghi tên mình vào một trong những trang sử vàng chói lọi nhất của dân tộc Việt Nam ta.

Phân tích hình tượng vua Quang Trung lớp 9

C. Phân tích hình tượng vua Quang Trung lớp 8

Phân tích hình tượng vua Quang Trung - Mẫu 1

"Hoàng Lê Nhất thống chí" là tiểu thuyết chương hồi nổi tiếng của nhóm tác giả Ngô Gia Văn Phái. Những sự kiện lịch sử được ghi chép lại một cách đầy chi tiết và đảm bảo tính chân thực. Ngoài các sự kiện đã xảy ra trong cuộc chiến tranh chấp quyền lực giữa nhà Lê và phong trào Tây Sơn, tác phẩm còn tập trung phác họa, tái hiện chân dung anh hùng Quang Trung - Nguyễn Huệ. Điều này được thể hiện rõ nét trong hồi thứ 14.

Trước hết, ta có thể thấy Quang Trung là một con người đầy quyết đoán. Mỗi việc làm của mình, nhà vua đều suy nghĩ rất thấu đáo, biết được mục đích cần phải làm và quyết tâm hành động. Điều đó được chứng minh bằng các sự kiện cụ thể. Khi biết rằng giặc Thanh đang đánh chiếm thành Thăng Long - vị trí quân sự quan trọng của quân ta, ông không hề tỏ ra sợ hãi hay nao núng mà họp bàn các tướng lĩnh để đề ra những kế sách, sau đó đích thân cầm quân lên đường. Phải có lòng căm thù giặc sâu sắc và ý chí lớn thì vừa Quang Trung mới có hành động tức thời và quả quyết đến như vậy. Khi nghe những lời phải của các trọng thần, ông không hề do dự mà lập tức " đắp đàn trên núi Bân", làm lễ tố cáo trời đất và các thần sông núi, tạo ra áo mũ vừa mà lên ngôi hoàng đế. Quang Trung lên ngôi vua cũng là lúc nhận về mình trọng trách lớn lao với dân, với nước. Vì vậy mà khi vừa lên ngôi, lễ xong liến cấp tốc xuất quân vào ngày 25 tháng Chạp năm Mậu Thân.

Không chỉ là người tướng lính quyết đoán, giàu mưu lược mà Quang Trung Nguyễn Huệ còn biết trọng dụng người tài. Trước sự kiện quân Thanh kéo đánh nước ta, Nguyễn Huệ đã hỏi ý kiến của La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp nhằm đề ra kế sách vẹn toàn nhất. Sau khi đưa đại binh cả thủy lẫn bộ tới Nghệ An, nghe được lời khuyên khi gặp người cống sĩ Nguyễn Thiếp ông liền tổ chức ngày việc kén lính, chiêu mộ quân sĩ. Khi hoàn thành thì mở ngày cuộc duyệt binh và chia quân thành tiền, hậu, tả, trung để đối phó với địch. Sau khi ban bố lời phủ dụ binh lính và tướng sĩ, Quang Trung quyết hạ lệnh tiến cống, chỉ ra kế hoạch, phương hướng đối phó với bè lũ nhà Thanh trong chớp mắt. Những hành động thần tốc, ý nghĩ mạnh mẽ và kiên quyết ấy cho thấy một bản lĩnh hơn người của vị vua dân tộc.

Ở vua Quang Trung, không chỉ có sự cương trực, quyết đoán mà còn là một người có trí tuệ anh minh, nhãn quan tỏ tường. Ông biết phân tích những điểm yếu, điểm mạnh giữa ta và địch, biết nhận định đúng sai và đưa những quyết định đúng thời điểm. Đó là điều mà làm nên những chiến thắng khi thực hiện các chiến lược mà ông đã vạch ra. Những lời phủ dụ vừa thâm sâu vừa ân tình đó ông truyền đạt đã tác động vào ý chí, kích thích sự chiến đấu của nghĩa quân. "Quân Thanh sang xâm lấn nước ta....chớ bảo là ta không nói trước". Những lời lẽ đầy sức thuyết phục như vậy phát ra từ một người tài năng và nhiệt huyết càng khiến quân sĩ nể phục mà vâng lệnh: "Xin vâng lệnh, không dám hai lòng".

Sự thông minh xuất chúng ấy còn được thể hiện ở khả năng dùng người tài ba của ông. Biết chọn Ngô Thì Nhậm, một người giỏi lý lẽ lại khéo lời làm tướng dẹp loạn đao binh đưa lại phúc cho muôn dân thiên hạ. "Lần này ta ra, thân hành cầm quân.....bấy giờ nước giàu quân mạnh, thì ta có sợ gì chúng?". Đặc biệt, trong cách xử trí Sở và Lân trên núi Tam Điệp cũng khiến người người phải nể phục.

Nhờ vậy mà cuộc chiến do Nguyễn Huệ thân chính đã mang lại những chiến thắng thần tốc, vàng dội non sông. Đó là những cuộc hành binh nhanh chóng từ Huế đến Tam Điệp chỉ trong vòng một tuần. Tới Thăng Long vào 30 tháng chạp để lên đường, ngày mồng 5 năm sau đã hoàn thành nhiệm vụ. Tại huyện Phú Xuân, bắt sống được hàng loạt quân Thanh trên đường trốn chạy. Tại làng Hà Hồi, quân ta vây kín khiến giặc sợ hãi, xin hàng và giao nộp toàn bộ khí giới, lương thực cho quân Nam. Trận chiến tại đồn Ngọc Hồi quyết liệt, quân Thanh sau khi tự làm hại mình thì không chống cự nổi, giày xéo lên nhau mà chạy tán loạn. Quân ta thắng lớn, quân Thanh đại bại trong nhục nhã, tướng Sầm Nghi Đống thắt cổ chết tại trận.

Người anh hùng Nguyễn Huệ, một người tướng lĩnh tài ba, vị minh quân của dân tộc qua từng trang viết được khắc hoạ thật rõ nét. Qua đó, ta thêm tự hào về truyền thống yêu nước, về những danh nhân của thời đại xưa. Từ đó, cố gắng học tập, rèn luyện và hoàn thiện để bản thân mỗi ngày thật mạnh mẽ, trưởng thành, sống với lý tưởng yêu nước mà ông cha đã gìn giữ, phát huy.

Phân tích hình tượng vua Quang Trung - Mẫu 2

"Mà nay áo vải cờ đào
Giúp dân dựng nước, xiết bao công trình"

Ấy là những lời thơ mà Ngọc Hân Công chúa viết để ca ngợi người anh hùng Nguyễn Huệ. Hình ảnh vua Quang Trung oai phong, lẫm liệt đã được các tác giả Ngô gia văn phái cũng đã tái hiện chân thực qua chiến công thần tốc đại phá quân Thanh trong hồi thứ mười bốn của “Hoàng Lê nhất thống chí”.

Quang Trung hiện lên là một con người hành động mạnh mẽ quyết đoán. Ngay từ đầu tác phẩm, ông đã hành động một cách xông xáo, nhanh gọn có chủ đích và rất quả quyết. Khi hay tin giặc đã đánh chiếm đến tận Thăng Long, mất cả một vùng rộng lớn, ông không hề nao núng định thân chinh cầm quân đi ngay. Nguyễn Huệ còn làm được biết bao việc lớn như tế cáo trời đất, lên ngôi vua, hành quân đánh giặc… trong vòng một tháng trời. Chỉ vừa mới khởi binh mà ông đã hẹn ngày mừng chiến thắng.

Không chỉ vậy, Quang Trung còn hiện lên với vẻ đẹp trí tuệ. Ông vừa sáng suốt, vừa nhạy bén. Khi quân Thanh hùng hổ xâm chiếm đất nước, tạo nên tình huống khẩn cấp và vận mệnh đất nước bị đặt trên tình thế nguy cấp, ông đã quyết định lên ngôi hoàng đế và đặt niên hiệu là Quang Trung. Việc lên ngôi đã được ông lên kế hoạch kỹ lưỡng với mục đích hội tụ các phái nội bộ, tập hợp những hiền tài và quan trọng hơn là “để yên kẻ phản trắc và giữ lấy lòng người”, được dân ủng hộ.

Qua lời dụ tướng sĩ trước lúc lên đường ở Nghệ An, Quang Trung đã chỉ rõ “Đất nào sao ấy” người phương Bắc không phải nòi giống nước ta, bụng dạ ắt khác. Ông còn vạch rõ tội ác của chúng đối với nhân dân ta: “Từ đời nhà Hán đến nay, chúng đã mấy phen cướp bóc nước ta, giết hại dân ta, vơ vét của cải, người mình không thể chịu nổi, ai cũng muốn đuổi chúng đi”. Nhờ sự sáng suốt nhận định tình hình địch và ta, Quang Trung đã khích lệ các tướng sĩ dưới quyền bằng những tấm gương chiến đấu dũng cảm từ ngàn xưa như Trưng Nữ Vương, Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành,... Chính lời dụ của Quang Trung đã thuyết phục được biết bao người tài. Quang Trung đã dự kiến được việc Lê Chiêu Thống về nước có thể làm cho một số người thay lòng đổi dạ nên ông đã có lời với quân lính chí tình đầy nghiêm khắc: “Các người đều là những người có lương tri, hãy nên cùng ta đồng tâm hiệp lực để dựng lên công lớn. Chớ có quen thói cũ, ăn ở hai lòng, nếu như việc phát giác ra sẽ bị giết chết ngay tức khắc, không tha một ai”.

Những chuyện xảy ra ở triều đình cũng đều không nằm ngoài sự dự liệu sáng suốt của Quang Trung. Trong dịp hội quân ở Tam Điệp, ông rất hiểu việc rút quân của hai vị tướng Sở và Lân. Do quân ta còn ít không địch nổi đội quân hùng tướng hổ nhà Thanh nên đành phải bỏ thành Thăng Long rút về Tam Điệp để tập hợp lực lượng. Nhờ vây, Sở và Lân không bị trừng phạt mà còn được ngợi khen. Ông còn đánh giá rất cao Ngô Thì Nhậm và sử dụng Nhậm như một vị quân sĩ đa mưu túc trí. Ông cài Ngô thì Nhậm làm việc với Sở và Lân.

Quang Trung còn là người có tầm nhìn xa trông rộng. Mới khởi binh đánh giặc, chưa giành được tấc đất nào vậy mà vua Quang Trung vẫn chắc nịch như đinh đóng cột. Ông không chỉ tính sẵn phương lược tiến đánh mà còn tính sẵn cả kế hoạch ngoại giao. Ông được xem trọng như một vị tướng có tài thao lược hơn người. Cuộc hành quân thần tốc do Quang Trung chỉ huy khiến chúng ta không khỏi kinh ngạc khi vừa hành quân, vừa đánh giặc, thậm chí thực tế còn vượt mức hai ngày. Dù hành quân xa xôi, liên tục như vậy, nhưng nhờ tính kỷ luật, quy định chặt chẽ đối với nghĩa quân, đội quân vẫn chỉnh tề, hành quân triền miên không ngừng.

Vua Quang Trung còn hiện lên với những hành động quyết liệt, mạnh mẽ trong chiến trận. Ông thân chinh cầm quân không phải chỉ trên danh nghĩa mà với vị trí của một tổng chỉ huy chiến dịch thực sự. Dưới sự lãnh đạo tài tình ông, nghĩa quân Tây Sơn đã có những trận đánh thật đẹp, áp đảo kẻ thù dưới sức mạnh quyết liệt ấy. Trong cảnh khói tỏa mù trời, hình ảnh nhà vua cưỡi voi đi đốc thúc với tấm áo bào đã sạm đen khói súng hiện lên sáng ngời giữa trận mạc. Tất cả những nét đẹp như hội tụ và tỏa sáng giữa chiến trường mù mịt khói súng.

Đoạn trích khắc họa sinh động, ấn tượng hình tượng vua Quang Trung qua ngôn ngữ, hành động, cử chỉ dứt khoát và mạnh mẽ. Bối cảnh chiến trường hùng tráng đã trở thành phông nền hoàn hảo để người anh hùng xuất hiện. Tác giả sử dụng ngôi kể thứ ba làm tăng tính chân thực, khách quan cho câu chuyện.

Các tác giả Ngô gia văn phái với ngòi bút thần của mình đã làm nổi bật hình ảnh vua Quang Trung - một niềm tự hào lớn của cả dân tộc, tiêu biểu cho sức mạnh quật cường của dân tộc ta. Người anh hùng Nguyễn Huệ đã trở thành niềm tự hào của nhân dân muôn đời, biểu tượng cho ruyền thống đấu tranh bất khuất chống ngoại xâm của con người Việt Nam.

Phân tích hình tượng vua Quang Trung - Mẫu 3

Được biết đến như một trong những anh hùng lớn nhất trong lịch sử Việt Nam, vua Quang Trung là niềm tự hào của dân tộc. Với tài năng quân sự phi thường, Nguyễn Huệ đã thất thủ đánh lại và đánh tan hai mươi chín vạn quân Thanh xâm lược, đem lại chiến thắng cho dân tộc. Tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí của nhóm Ngô gia văn phái đã phản ánh đầy đủ chân dung của vua Quang Trung. Khám phá sự xuất chúng của người anh hùng áo vải đất Tây Sơn, chúng ta không thể không cảm thấy ngưỡng mộ và kính phục. Đó là một vị tướng với tài năng, nghị lực và trí tuệ phi thường, đem lại niềm tự hào cho dân tộc Việt Nam.

Quang Trung - anh hùng áo vải của Tây Sơn, có nhiều phẩm chất đáng kính nể và học tập. Hành động của ông khi đốc suất đại binh tiến vào Thăng Long vào dịp Tết Nguyên đán cũng cho thấy tài năng quân sự tài ba của ông. Khi đó, kẻ thù ít đề phòng nhất, dễ lơ là cảnh giác nhất, và vua Quang Trung cũng hiểu rằng sức mạnh tinh thần là vũ khí quan trọng nhất. Không chỉ có tài cầm quân, ông còn có tài hùng biện. Trong lời dụ của mình, ông đã khích lệ một cách mạnh mẽ, làm dấy lên lòng yêu nước, căm thù giặc và truyền thống chống ngoại xâm cho tướng sĩ. Quang Trung đã sử dụng sự thuyết phục một cách khéo léo trong lời dụ của mình, không kém phần sức mạnh so với hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn. Ông đã lấy những nhân vật anh hùng của dân tộc như Trưng Nữ Vương, Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, Trần Hưng Đạo và Lê Thái Tổ để khơi gợi lòng tự hào của quân đội. Ông cũng biết cách sử dụng người tài, như việc cài Ngô Thời Nhậm ở lại làm việc với các tướng Sở và Lân. Sự việc diễn ra đúng như dự đoán của ông, khi Ngô Thời Nhậm đã phát huy vai trò của mình để kích thích lòng quân bên trong và làm cho giặc kiêu căng bên ngoài. Các tác giả của Hoàng Lê nhất thống chí đã hết sức khâm phục Nguyễn Huệ vì tài dùng người của ông.

Không những thế, vua Quang Trung còn là người đã có khả năng dự đoán và tính toán chính xác những sự kiện sắp xảy ra trong trận đánh. Ông là một người tự tin trong chiến thắng, nhưng cũng luôn cẩn trọng với hậu quả của cuộc chiến. Nguyễn Huệ đã chọn Ngô Thời Nhậm để giải quyết vấn đề binh đao. Trong quân đội, ông đã chọn cách giảm thiểu thiệt hại bằng cách sử dụng tấm ván và rơm để tạo thành một màn che bảo vệ quân sĩ. Điều đó cho thấy tài năng cũng như tâm huyết của vua Quang Trung với việc bảo vệ dân và giảm thiểu thiệt hại trong cuộc chiến.

Nhóm Ngô gia văn phái đã thuật lại chi tiết về chiến thắng của Quang Trung trước quân Thanh trong Hồi thứ mười bốn của Hoàng Lê nhất thống chí. Nhờ cách thuật lại sinh động, người đọc có thể hình dung được chân dung của người anh hùng áo vải Quang Trung. Ông không chỉ là một nhà quân sự thiên tài "xuất quỷ nhập thần", mà còn là một tướng quân giàu lòng yêu nước và có ý thức dân tộc sâu sắc. Quang Trung là hình ảnh đối lập với những tên vua bán nước, hèn nhát, và sự tôn kính, yêu mến của mọi người đối với ông sẽ kéo dài mãi mãi.

Phân tích hình tượng vua Quang Trung - Mẫu 4

Vua Quang Trung là một nhân vật lịch sử vô cùng đáng ngưỡng mộ. Hình ảnh vĩ đại của ông đã phần nào được tái hiện lại chân thực trong Hoàng Lê nhất thống chí, đặc biệt là hồi thứ 14.

Vua Quang Trung là một vị vua có xuất thân “áo vải”. Nhưng điều đó chỉ khiến ông càng thêm được nhân dân tin tưởng, kính ngưỡng, chứ chẳng thể chút nào che đậy được tài hoa của ông.

Ở vua Quang Trung, chúng ta thấy được sự mạnh mẽ và quyết liệt của một bậc nam nhi đại trượng phu đầu đội trời chân đạp đất. Ngay khi biết tin quân Thanh ào sang nước ta, ông đã theo lời binh sĩ, tự lên ngôi vua, tự mình tuyển lính, cầm quân để đánh giặc. Cả việc hành quân ra Bắc cũng được tiến hành nhanh chóng, khiến địch trở tay không kịp. Chính sự quyết liệt ấy của ngài mà trận đánh đã chiến thắng vang dội.

Không chỉ vậy, vua Quang Trung còn khiến em ngưỡng phục bởi trí tuệ của mình. Ngài có một bộ óc sáng suốt với tầm nhìn xa, rộng. Chỉ trong thời gian ngắn, ngài đã tính ra đường đi nước bước của giặc, và có kế hoạch cụ thể. Từ cách hành quân thần tốc, đến việc tổ chức tiệc nâng cao sĩ khí toàn quân.

Sự tài giỏi, mưu lược trong cách dùng người của Quang Trung còn được thể hiện qua việc ngài biết nhìn ra những người tài giỏi thực sự, và sẵn sàng đề cử họ lên chức vị cao hơn. Ngô Thì Nhậm chính là một minh chứng cho điều đó. Nhờ vậy mà sự tin tưởng của quân dân dành cho ngài càng tăng cao. Đồng thời, vua Quang Trung còn thuyết phục toàn quân với những kế sách, mưu lược tài tình. Như bắt bọn nghe thám, chặn đánh nghi binh…

Tất cả đã tạo nên hình tượng một vị vua vừa mạnh mẽ, quyết liệt lại thông minh, sáng suốt. Vị vua áo vải cờ đào Quang Trung sẽ mãi lưu danh sử sách, là bức tượng vàng chói lọi trong dòng chảy lịch sử hào hùng của dân tộc ta.

Phân tích hình tượng vua Quang Trung - Mẫu 5

Quang Trung – Nguyễn Huệ là một thiên tài quân sự, một vị anh hùng dân tộc kiệt xuất. Hình ảnh vua Quang Trung tiêu biểu cho tinh thần quật cường, bất khuất của dân tộc Việt Nam. Chỉ với 39 tuổi xuân, Quang Trung đã có 22 năm đánh Nam dẹp Bắc – tạo cơ sở cho quá trình thống nhất đất nước; đuổi Xiêm diệt Thanh – góp phần bảo vệ vững chắc nền độc lập nước nhà. Mỗi chiến công trong cuộc đời Quang Trung đánh dấu một mốc son trong lịch sử hào hùng của cả dân tộc.

Nói đến vua Quang Trung, trước hết nói đến một anh hùng với tính cách mạnh mẽ quyết đoán mỗi lần ông hành động. Nghe tin giặc đã kéo đến tận Thăng Long ông đã rất tức giận, đã họp các tướng sĩ, "định thân chinh cầm quân đi ngay". Rồi trong vòng chỉ một tháng, Nguyễn Huệ đã làm bao nhiêu việc lớn: "Tế cáo trời đất", "lên ngôi hoàng đế", "đốc suất đại binh'' ra Bắc, gặp gỡ "người cống sĩ ở huyện La Sơn", tuyển mộ quân lính và mở các cuộc duyệt binh lớn ở Nghệ An, phủ dụ tướng sĩ, định kế hoạch hành quân, đánh giặc và kế hoạch đối phó với nhà Thanh sau chiến thắng. Là con người hành động liên tục, không ngừng làm việc, có tính cách xông xáo, mọi quyết định đều nhanh gọn và rất dứt khoát, xứng đáng là vị chủ tướng trên vạn quân.

Vua Quang Trung còn nổi tiếng là con người có trí tuệ sáng suốt, rất nhạy bén trong mọi trường hợp. Ông có một tầm nhìn xa trông rộng, mưu cao trí lược, hơn nữa cái nhìn khái quát ấy còn giúp ông định hình về tình thế và về thời cuộc ông lên ngôi với mục đích có thể " để yên kẻ phản trắc và giữ lấy lòng người". Vì vậy, ông đưa ra mọi quyết định đều cân nhắc trước hết, làm thế nào để yên bề tình hình, giúp cho mục đích cuối cùng. Ông phân tích tình hình quân địch, nhận định được thế lực hai bên để phán đoán trong từng bước đi của mình. Ông đưa vào trong bài hịch những tội ác của giặc, chúng đã gây nên tội ác với nhân dân ta, phá huỷ nhiều nếp nhà, khiến cho quân sĩ được khích lệ tinh thần, đồng thời ông cũng nhắc đến nhiều tên tuổi anh hùng bảo vệ dân tộc như: Hai Bà Trưng, Đinh Tiên Hoàng…Ông dùng những lời lẽ mềm mỏng để thuyết phục những kẻ "mềm lòng" dễ thay lòng đổi dạ, lạt mềm buộc chặt, nhưng vẫn không mất cái uy. Quang Trung hiểu rõ sở trường và sở đoản các tướng lĩnh dưới trướng mình bởi vậy ông vẫn trách mắng để họ nhận ra khuyết điểm đồng thời tha cho họ. Việc làm của ông là hành động sáng suốt, giúp thu phục nhân tâm, ai nấy đều phải tâm phục, khẩu phục.

Với Quang Trung, tư tưởng quyết chiến, quyết thắng, tầm nhìn xa, trông rộng rất quan trọng. Ông đã kiên quyết khẳng định chỉ trong vòng mười ngày có thể lấy lại kinh thành Thăng Long, nói được làm được, đây chính là một trong những trận chiến anh hùng nhất trong suốt những năm tháng chống quân xâm lăng của dân tộc ta. Ông đã mềm mỏng dùng ngoại giao để giữ hoà bình và cuộc sống cho nhân dân. Trên chiến trường, ông tổ chức trận đánh hết sức linh hoạt, sáng tạo, với nhiều kế binh hiểm hóc kết hợp nhuần nhuyễn nhiều cánh quân, cách đánh luôn giữ thế chủ động, lúc cần thì phòng thủ, luôn lợi dụng được điểm yếu của quân địch khiến kẻ địch không kịp trở tay. Tài dùng trận thì khỏi bàn cãi: trận Hà Hồi, trống rong cờ mở bắc loa đàn áp tinh thần quân giặc, trận Ngọc Hồi bện rơm tránh lửa, dùng kế gậy ông đập lưng ông, đồng thời đánh chặn chốt giặc khiến chúng hồn xiêu phách lạc.

Xây dựng hình tượng vua Quang Trung với vẻ đẹp dũng mãnh, tài trí, có tài có đức, đại diện cho hình ảnh dân tộc Việt Nam anh hùng, bất khuất.

Phân tích hình tượng vua Quang Trung - Mẫu 6

Nguyễn Huệ - người anh hùng áo vải ở đất Tây Sơn là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam. Người anh hùng áo vải ấy với thiên tài quân sự của mình đã đánh tan hai mươi chín vạn quân Thanh xâm lược, khiến cho bọn bán nước cầu vinh ê chề nhục nhã. Có thể nói Hồi thứ mười bốn trong tác phẩm Hoàng Lê nhất thống chí của nhóm Ngô gia văn phái đã phản ánh khá đầy đủ chân dung người anh hùng Nguyễn Huệ. Càng đọc chúng ta càng khâm phục tài năng xuất chúng của người anh hùng áo vải đất Tây Sơn ấy.

Chân dung người anh hùng Nguyễn Huệ, trước hết được miêu tả gián tiếp qua lời người con gái hầu hạ trong cung vua, tâu với bà hoàng thái hậu. Mặc dù vẫn xem Nguyễn Huệ là “giặc”, gọi Nguyễn Huệ bằng “hắn”' nhưng người cung nhân ấy cũng không giấu được sự thán phục của mình trước tài năng xuất chúng của Nguyễn Huệ. Đây là một đoạn trong lời tâu của cung nhân:" Nguyễn Huệ là một tay anh hùng lão luyện dũng mãnh và có tài cầm quân. Xem hắn ra Bắc vào Nam ẩn hiện như quỷ thần không ai có thể lường hết. Hắn bắt Hữu Chỉnh như bắt trẻ con, giết Văn Nhậm như giết con lợn...". Trong khi nói những lời ấy chắc người cung nhân đã chọn lời lẽ vừa phải, thích hợp, chưa dám bộc lộ hết ý nghĩ của mình về Nguyễn Huệ, nhưng một người vốn xem Nguyễn Huệ là “giặc" thán phục đến như thế đủ biết Nguyễn Huệ tài năng đến mức nào.

Ngay những người thuộc nhóm Ngô gia văn phái vốn theo “chính thống” phần nào bị quan điểm “chính thống” chi phối, trước thiên tài của Nguyễn Huệ vẫn phải ca ngợi Nguyễn Huệ một cách trung thực, khách quan. Qua việc miêu tả trực tiếp cuộc hành quân thần tốc, tác giả đã cho mọi người thấy tài năng quân sự xuất chúng của người anh hùng áo vải Tây Sơn. Được tin quân Thanh kéo vào Thăng Long, Nguyễn Huệ giận lắm, định cầm quân đi ngay. Nhưng Nguyễn Huệ đã biết nghe theo lời khuyên của mọi người, cho đắp đàn ở núi Bân tế cáo trời đất cùng các thần sông, thần núi lên ngôi hoàng đế lấy niên hiệu Quang Trung. Lễ xong mới hạ lệnh xuất quân. Điều này chứng tỏ mặc dù tài năng hơn người nhưng Nguyễn Huệ rất biết lắng nghe và tôn trọng ý kiến người khác.

Riêng phẩm chất ấy của ông cũng đáng để chúng ta kính nể, học tập. Việc Nguyễn Huệ tự mình đốc suất đại binh tiến ra Thăng Long vào đúng thời điểm Tết Nguyên đán cũng chứng tỏ phần nào tài năng quân sự của ông. Bời vì đó là thời điểm kẻ thù ít đề phòng nhất, dễ lơ là cảnh giác nhất. Nguyễn Huệ rất hiểu sức mạnh tinh thần, ông không chỉ có tài cầm quân mà còn có tài hùng biện. Trong lời dụ của mình, ông đã khích lệ được lòng yêu nước, căm thù giặc, truyền thống chống ngoại xâm cho tướng sĩ:" Quân Thanh sang xâm lược nước ta, hiện ở Thăng Long các ngươi đã biết chưa?... Người phương Bắc không phải giống nòi nước ta bụng dạ ắt khác. Từ đời nhà Hán đến nay, chúng đã mấy phen cướp bóc nước ta, giết hại nhân dân ta, vơ vét của cải người mình không thể chịu nổi, ai cũng muốn đuổi chúng đi.

Đời Hán có Trưng Nữ Vương, đời Tống có Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, đời Nguyên có Trần Hưng Đạo, đời Minh có Lê Thái Tổ, các ngài không nỡ ngồi nhìn chúng làm điều tàn bạo nên đã thuận lòng người, dấy nghĩa quân đều chỉ đánh một trận là thắng và đuổi được chúng về phương Bắc...". Lời dụ của Quang Trung có sức thuyết phục không kém Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn. Một điều mà các tác giả Hoàng Lê nhất thống chí hết sức khâm phục Nguyễn Huệ là tài dùng người. Tiêu biểu là việc cài Ngô Thời Nhậm ở lại làm việc với các tướng Sở và Lân. Sự việc diễn ra đúng như dự đoán của Nguyễn Huệ. Ngô Thời Nhậm đã phát huy vai trò của mình "Biết nín nhịn để tránh mũi nhọn", "bên trong thì kích thích lòng quân, bên ngoài thì làm cho giặc kiêu căng’ .

Nguyễn Huệ còn dự đoán chính xác những sự việc sắp xảy ra. Ông là một người đầy tự tin: "Lần này ta ra, thân hành cầm quân, phương lược tiến đánh đã có tính sẵn, chẳng qua mười ngày có thể đuổi được người Thanh". Nhưng ông cũng luôn luôn để phòng hậu hoạ: “ Quân Thanh thua trận ắt lấy làm thẹn mà lo mưu báo thù. Như thế việc binh đao không bao giờ dứt". Và ông đã dự định chọn người “khéo lời lẽ' để "dẹp việc binh đao” đó cũng là Ngô Thời Nhậm. Qua cách nghĩ của vua Quang Trung thấy ông không chỉ nhìn xa trông rộng mà còn hết lòng vì dân. Ông không muốn dân phải luôn luôn chịu cảnh binh đao xương rơi máu chảy. Trong khi tiến quân ông cũng chọn cách tránh cho quân sĩ đỡ phải tổn thất: “Vua truyền lấy sáu chục tấm ván, cứ ghép liền ba tấm làm một bức, bên ngoài lấy rơm dấp nước phủ kín. Quân thanh nổ súng bắn ra chẳng trúng người nào cả". Đó là cái giỏi cũng là cái tâm của người cầm quân.

Đoạn thuật lại việc Quang Trung đại phá quân Thanh trong Hồi thứ mười bốn (Hoàng Lê nhất thống chí) của nhóm Ngô gia văn phái hết sức sinh động. Qua đó người đọc có thể hình dung được chân dung của người anh hùng áo vải Quang Trung không chỉ là nhà quân sự thiên tài “xuất quỷ, nhập thần" mà còn là một tướng quân giàu lòng yêu nước, có ý thức dân tộc hết sức sâu sắc. Ông là hình ảnh đối lập với những tên vua bán nước, hèn nhát. Quang Trung mãi mãi được mọi người kính phục, yêu mến.

Phân tích hình tượng vua Quang Trung - Mẫu 7

Quang Trung vị tướng tài, vị anh hùng của dân tộc. Dưới sự lãnh đạo của Quang Trung dân tộc ta đã giành được thắng lợi vẻ vang trước kẻ xâm lược nhà Thanh ngang tàn, hung hãn. Tất cả những vẻ đẹp, tầm vóc của vị anh hùng đều được tái hiện một cách chân thực và đầy đủ nhất qua hồi thứ mười bốn trích “Hoàng Lê nhất thống chí”.

Đoạn trích là lời ca ngợi người anh hùng Nguyễn Huệ tài đức song toàn và sức mạnh vô song. Vẻ đẹp của vua Quang Trung được thể hiện trên nhiều mặt khác nhau, mỗi phương diện đều được miêu tả kỹ lưỡng, giọng điệu hào hùng, ngợi ca.

Trước hết người anh hùng áo vải Quang Trung là người có hành động mạnh mẽ, quyết đoán, trí tuệ sáng suốt, nhạy bén. Ngay khi nghe tin giặc đã chiếm một vùng đất lớn của ta, Quang Trung không hề sợ hãi, định cầm quân đi ngay. Với ý thức dân tộc và lòng tự tôn sâu sắc, ông không thể chần chừ chứng kiến cảnh nước nhà bị quân thù giày xéo. Nghe lời khuyên từ quần thần, ông quyết định lên ngôi vua, đây là quyết định hết sức sáng suốt, có ý nghĩa quan trọng: làm cho cương vị rõ ràng, danh chính ngôn thuận để cầm quân; không chỉ vậy còn giúp thống nhất nội bộ, tránh được sự hài lòng của binh lính. Hành động của ông không chỉ hội tụ được người tài mà còn giúp lấy lòng dân. Ông rất sáng suốt, nhanh nhạy trong việc phân tích tình hình thời cuộc, tương quan giữa ta và địch, điều đó được thể hiện rõ trong bài dụ tướng sĩ ở Nghệ An. Trong bài dụ ông khẳng định chủ quyền của dân tộc ta với phương Bắc “đất nào sao ấy, đều đã phân biệt rõ ràng”; nêu lên dã tâm xâm lược và hành động phi nghĩa của kẻ thù; đồng thời ông nêu lên lời kêu gọi binh sĩ đồng tâm hiệp lực đánh giặc. Lời dụ như một bài hịch ngắn dọn kích thích lòng căm thù giặc và lòng yêu nước của quân sĩ. Sự sáng suốt của ông còn thể hiện trong việc xét đoán và dùng người, với mỗi đối tượng ông đều có khen chê rõ ràng để mỗi cá nhân nhận ra khuyết điểm của mình. Với Ngô Thì Nhậm ông hết lòng khen ngợi, đó là kế sách thông minh, giúp quân ta tránh được mũi nhọn kẻ thù, làm cho quân địch chủ quan, tự mãn mà không phòng bị. Với Sở và Lân, Quang Trung hiểu rõ sở trường và sở đoản các tướng lĩnh dưới trướng mình bởi vậy ông vẫn trách mắng để họ nhận ra khuyết điểm đồng thời tha cho họ. Việc làm của ông là hành động sáng suốt, giúp thu phục nhân tâm, ai nấy đều phải tâm phục, khẩu phục.

Không chỉ vậy, Quang Trung còn là người có tư tưởng quyết chiến, quyết thắng và có tầm nhìn xa, trông rộng. Quân Thanh khi mới vào nước ta thế và lực rất lớn, thế nhưng ngay khi khởi binh Quang Trung đã kiên quyết khẳng định chỉ trong vòng mười ngày có thể lấy lại kinh thành Thăng Long. Là một người tài trí, có tầm nhìn xa ông còn nhận ra bản chất thâm độc của kẻ thù, khi bại trận, là một nước lớn nhất định sẽ đem quân trả thù. Vì vậy, ông đã tính sẵn kế hoạch ngoại giao sau chiến thắng, để đảm bảo cho dân ta có cuộc sống yên ổn, bình phục lại sau chiến tranh. Quang Trung quả là một vị vua tài trí, tâm sáng, không chỉ lo giành độc lập mà còn lo đến đời sống nhân dân, đến việc xây dựng đất nước sau này.

Trong quá trình chỉ huy chiến đấu, tài mưu lược và tài dụng binh như thần được thể hiện rõ hơn bao giờ hết. Trước khi xuất quân ra Bắc ông đã mở tiệc khao quân và hẹn mùng bảy sẽ gặp lại ở thành Thăng Long. Đây không chỉ là lời nói để động viên binh sĩ mà là lời tiên đoán thần kì dựa trên sự tính toàn tài tình và phương lược có sẵn của vua Quang Trung. Chớp thời cơ giặc ngủ quên trên chiến thắng, ông nhằm vào đúng ngày tết Nguyên Đán để tiến đánh quân Thanh. Ông đã tạo ra một cuộc hành quân thần tốc có một không hai trong lịch sử, từ Phú Xuân ra Thăng Long chỉ mất hơn một tuần: 25 tháng chạp ở Phú Xuân, 30 đến Tam Điệp, đêm 30 bắt đầu tiến đánh thành Thăng Long; vừa đi ông vừa tuyển thêm binh sĩ. Tiến đánh mà vẫn đảm bảo yếu tố bí mật. Ông tổ chức trận đánh hết sức linh hoạt, sáng tạo, kết hợp nhuần nhuyễn nhiều cánh quân, cách đánh luôn giữ thế chủ động, đảm bảo yếu tố bất ngờ khiến kẻ địch không kịp trở tay. Trong từng trận đánh Quang Trung ông vận dụng hết sức linh hoạt các binh pháp khác nhau: trận Hà Hồi, trống rong cờ mở bắc loa đàn áp tinh thần quân giặc, làm chúng hoảng sợ; trận Ngọc Hồi bện rơm tránh lửa, dùng kế gậy ông đập lưng ông, đồng thời đánh chặn chốt giặc khiến chúng hồn siêu phách lạc. Bởi vậy, chỉ đến ngày mùng năm tết ông đã dẹp sạch bóng quân thù trên bờ cõi nước ta, sớm hơn cả những gì ông đã dự tính từ trước.

Đẹp đẽ nhất, khắc họa rõ nét nhất hình ảnh vua Quang Trung chính là khi ông đích thân cầm quân ra trận. Dưới cảnh khói mù mịt trời, cách gang tấc không thể nhìn rõ mặt người nổi bật lên là hình ảnh vị vua lẫm liệt, mặc áo bào, cưỡi voi, anh dũng xông ra trận. Hình ảnh đó cho thấy rõ hơn tính cách mạnh mẽ, trí tuệ sáng suốt của vua Quang Trung. Ông chính là linh hồn của trận đấu, làm cho tướng sĩ tin tưởng hơn vào chiến thắng của quân ta.

Xây dựng nhân vật Quang Trung, tác giả đã có sự kết hợp nhuần nhuyễn, hài hòa, kết hợp tự sự, miêu tả một cách hợp lí, chân thực, sinh động. Khắc họa chân dung vị anh hùng rõ nét với tính cách quả cảm, dũng mãnh, tài dùng binh như thần.

Trích đoạn đã cho chúng ta thấy được toàn bộ vẻ đẹp oai hùng, dũng mãnh của vua Quang Trung trước kẻ thù xâm lược, ông là đại diện tiêu biểu cho sức mạnh và vẻ đẹp của dân tộc Việt Nam. Vị anh anh ấy mãi là niềm tự hào của dân tộc ta, là tấm gương sáng để thế hệ trẻ học tập và noi theo.

Phân tích hình tượng vua Quang Trung - Mẫu 8

Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc
Nguyễn Du viết Kiều đất nước hóa thành văn
Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi về cửa Bắc
Hưng Đạo diệt quân Nguyên trên sóng Bạch Đằng.

(Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng? – Chế Lan Viên)

Với hơn bốn năm lịch sử dựng nước và giữa nước, dân tộc Việt Nam đã trải qua biết bao nhiêu là những đau thương, mất mát trước vó ngựa xâm lăng của kẻ thù. Và truyền thống yêu nước, truyền thống anh hùng dân tộc cũng được tạo nên rồi liên tục được phát huy từ đó. Bên cạnh các anh hùng dân tộc như Lý Thường Kiệt chống Tống, Hưng Đạo vương chống quân Nguyên Mông, Nguyễn Trãi chống giặc Minh thì chúng ta phải kể đến vua Quang Trung – Nguyễn Huệ trong cuộc chiến đấu chống lại hai mươi chín vạn quân Thanh xâm lược hung hãn, khét tiếng. Hình tượng nhân vật vua Quang Trung với bao nhiêu những phẩm chất tuyệt vời của một nhà quân sự lãnh đạo tài ba, văn võ song toàn đã đi vào "Hồi thứ 14" trong "Hoàng Lê nhất thống chí" thật cụ thể, thật sống động và chân thực, gây ấn tượng đậm nét trong lòng người đọc.

Dưới ngòi bút của nhà văn, người đọc như đang sống lại những giờ phút đau thương của lịch sử dân tộc khi mà vào cuối năm Mậu Thân 1788, đầu năm Kỉ Dậu 1789, vua Lê Chiêu Thống đã rước 29 vạn quân Thanh do Tôn Sĩ Nghị cầm đầu, kéo sang xâm lược nước ta. Ngày 22 tháng 11, Tôn Sĩ Nghị chiếm được thành Thăng Long, tướng Ngô Văn Sở phải tạm thời rút lui về Tam Điệp để phòng thủ. Đứng trước vận mệnh lịch sử Việt Nam "ngàn cân treo sợi tóc", Nguyễn Huệ hiện lên như một vị cứu tinh chói lọi của dân tộc ta thời kì đó. Nhận được tin báo Nguyễn Huệ giận lắm, "định thân chinh cầm quân đi ngay". Chỉ trong vòng hơn một tháng trời, Nguyễn Huệ đã làm được rất nhiều việc: Ngày 25 lên ngôi hoàng đế, "tế cáo trời đất cùng các thần sông, thần núi", rồi đốc thúc đại quân tiến ra Bắc; ngày 29 tới Nghệ An, nhà vua cho tuyển thêm quân sĩ và mở một cuộc duyệt binh lớn, thu nạp được hơn một vạn quân tinh nhuệ; sau đó đưa ra lời phủ dụ, vạch rõ âm mưu và sự tàn độc của quân xâm lược phong kiến phương Bắc, nêu cao truyền thống yêu nước chống giặc ngoại xâm của dân tộc và đưa ra lời hiệu triệu kêu gọi các quân sĩ "đồng tâm hiệp lực, để dựng lên công lớn". Lời phủ dụ như sấm truyền bên tai, như một lời hịch mang âm hưởng vang vọng của sông núi, kích thích lòng yêu nước và truyền thống anh hùng của dân tộc. Chưa dừng lại ở đó, nhà vua còn hoạch định kế hoạch hành quân "lần này ta ra, thân hành cầm quân, phương lược tiến đánh đã có tính sẵn. Chẳng qua mươi ngày có thể đánh đuổi được người Thanh" rồi chia quân sĩ ra làm năm đạo". Hôm đó là ngày 30 tháng chạp, vua cho tổ chức mở tiệc khao quân, hẹn đến ngày mồng bảy năm mới thì vào thành Thăng Long mở tiệc ăn mừng...Qua đó, ta thấy vua Quang Trung - Nguyễn Huệ hiện lên là một con người có hành động mạnh mẽ, xông xáo, có trí tuệ sáng suốt trong nhận định tình hình địch ta và là người biết nhìn xa trông rộng, chưa thắng nhưng nhà vua đã nghĩ tới quyết sách ngoại giao, kế hoạch hòa bình trong mười năm tới.

Tác giả đã mượn lời người cung nhân cũ để làm nổi bật tính cách anh hùng phi thường của Nguyễn Huệ khi trận Ngọc Hồi chưa diễn ra: "Không biết rằng, Nguyễn Huệ là một tay anh hùng lão luyện, dũng mãnh và có tài cầm quân. Xem hắn ra Bắc vào Nam, ẩn hiện như quỷ thần, không ai có thể lường biết. Hắn bắt Hữu Chỉnh như bắt trẻ con, giết Văn Nhậm như giết con lợn không một người nào dám nhìn thẳng vào mặt hắn. Thấy hắn trở tay, đưa mắt là ai nấy đã phách lạc hồn xiêu, sợ hơn sấm sét". Lời nhận xét đó không phải là không có căn cứ. Điều này được thể hiện rất rõ, rất chân thực, cụ thể trong cuộc điều binh khiển tướng trực tiếp của nhà vua. Trong chiến trận, vua Quang Trung hiện lên oai phong, lẫm liệt, có tài thao lược hơn người. Nhà vua đích thân cầm quân, tự mình đốc suất việc quân, tổ chức chiến dịch với cuộc hành quân thần tốc nổi tiếng trong lịch sử. Ngày 25 tháng chạp xuất quân ở Phú Xuân (Huế), một tuần sau đã đến Tam Điệp, đêm 30 tháng chạp đã "lập tức lên đường", tiến ra Thăng Long. Tất cả đều là đi bộ. Từ Tam Điệp trở ra, vừa hành quân vừa đánh giặc, giữ bí mật, bất ngờ. Hành quân xa liên tục và gấp gáp nhưng đội quân của nhà vua vẫn chỉnh tề, đội quân đó không phải toàn là lính thiện chiến (có cả lính mới) nhưng dưới bàn tay chỉ huy của Quang Trung đã trở thành đội quân dũng mãnh, như "tướng ở trên trời xuống, quân chui dưới đất lên" quân đi đến đâu, giặc bị tiêu diệt tới đó. Lúc đi đến sống Gián và sông Thanh Quyết, toán quân Thanh vừa trông thấy bóng nhà vua đã "tan vỡ chạy trước"; tới làng Hà Hồi, huyện Thượng Phúc vua lặng lẽ cho vây kín làng rồi dùng mưu bắt loa truyền gọi khiến quân Thanh "ai nấy đều rụng rời sợ hãi, liền xin ra hàng, lương thực, khí giới đều bị quân Nam lấy hết"; sáng mùng 5 tết tiến sát đồn Ngọc Hồi, đề phòng trước mũi súng của giặc, vua Quang Trung đã sai quân lấy sáu chục tấm ván, cứ ghép liền ba tấm làm một, bên ngoài lấy rơm dấp nước phủ kín, cứ mười người một bức, lưng giắt dao ngắn, theo sau là hai mươi người cầm binh khí dàn thành chữ "nhất" tiến thẳng vào đồn. Vì thế, súng giặc bắn ra đều vô tác dụng. Nhân có gió bắc, quân Thanh dùng súng ống phun khói lửa ra, khói tỏa mù trời, hòng làm quân ta rối loạn, không ngờ bỗng trời trở gió nam ngược lại, thành ra quân Thanh tự hại mình. Trước tình thế nghìn năm có một ấy, nhà vua liền gấp rút sai đội khiêng ván vừa che, xông thẳng lên phía trước, gươm giáo chạm nhau thì vứt ván xuống đất cứ nấy dao ngắn thủ sẵn trong tay áo mà chém. Kết quả, quân Thanh "thây nằm đầy đống, máu chảy thành suối, quân Thanh đại bại". Thừa thắng xông lên, vua Quang trung lẫm liệt, oai phong cưỡi voi tiến vào giải phóng thành Thăng Long vào trưa ngày mùng 5 tết Kỷ Dậu – trước kế hoạch hai ngày. Giặc bỏ chạy, vua cho phục binh tại đê Yên Duyên và Đại Áng, vây quân Thanh ở Quỳnh Đô, giặc chạy xuống đầm Mực, cuối cùng bị quân Tây Sơn "lùa voi cho giày đạp, chết đến hàng vạn người". Tôn Sĩ Nghị ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc giáp, sợ mất mật, nhằm hướng bắc mà chạy. Sầm Nghi Đống thì treo cổ tự vẫn; quan quân nhà Thanh lũ lượt, kinh hoàng bạt vía tan tác bỏ chạy, tranh nhau xô đẩy mà rơi xuống sông đến nỗi nước sông Nhị Hà vì thế mà tắc nghẽn. Hình ảnh nhà vua lẫm liệt trên lưng voi chỉ huy các trận đánh, dũng mãnh, tài ba được khắc họa nổi bật và là linh hồn của chiến công vĩ đại của dân tộc. Đây là hình ảnh người anh hùng chiến trận đẹp vào bậc nhất trong văn học trung đại Việt Nam.

Tóm lại "Hoàng Lê nhất thống chí" và "Hồi thứ 14" không chỉ có giá trị lịch sử mà còn có giá trị văn học độc đáo, rất tiêu biểu cho thể loại tiểu thuyết lịch sử viết theo lối chương hồi. Với quan điểm lịch sử đúng đắn và niềm tự hào dân tộc, các tác giả "Hoàng Lê nhất thống chí" đã tái hiện chân thực hình ảnh người anh hùng áo vải Quang Trung – Nguyễn Huệ qua chiến công thần tốc đại phá hai mươi chín vạn quân Thanh. Đây chính là nghệ thuật khắc họa hình tượng nhân vật - một trong các thủ pháp nghệ thuật đặc sắc, góp phần làm nên sự thành công của tác phẩm.

Phân tích hình tượng vua Quang Trung - Mẫu 9

Hoàng Lê nhất thống chí là văn bản viết về những sự kiện lịch sử, mà nhân vật chính tiêu biểu – anh hùng Quang Trung (Nguyễn Huệ).

Hoàng Lê nhất thống chí là văn bản viết về những sự kiện lịch sử, mà nhân vật chính tiêu biểu – anh hùng Quang Trung (Nguyễn Huệ). Ông có một nét đẹp của vị anh hùng dân tộc trong chiến công đại phá quân thanh, với sự dũng mãnh, tài trí, tầm nhìn xa trông rộng thì Quang Trung quả là một hình ảnh đẹp trong lòng dân tộc Việt Nam.

Một con người có hành động mạnh mẽ và quyết đoán: Từ đầu đến cuối đoạn trích, Nguyễn Huệ luôn luôn là người hành động một cách xông xáo mạnh mẽ, nhanh gọn, có chủ đích và rất quả quyết. Nghe tin giặc đã chiếm thành Thăng Long, mất cả một vùng đất đai rộng mà ông không hề nao núng, "định thân chinh cầm quân đi ngay".

Rồi trong vòng chỉ một tháng, Nguyễn Huệ đã làm bao nhiêu việc lớn: "Tế cáo trời đất", "lên ngôi hoàng đế", " đốc suất đại binh'' ra Bắc gặp gỡ "người cống sĩ ở huyện La Sơn", tuyển mộ quân lính và mở các cuộc duyệt binh lớn ở Nghệ An, phủ dụ tướng sĩ, định kế hoạch hành quân, đánh giặc và kế hoạch đối phó với nhà Thanh sau chiến thắng.

Hơn thế nữa ông còn có một trí tuệ sáng suốt, nhạy bén:

Sáng suốt trong việc phân tích tình hình thời cuộc và thế tương quan chiến lược giữa ta và địch. Đưa ra lời phủ dụ có thể coi như bài hịch ngắn mà ý tứ thật phong phú, sâu xa, có tác động kích thích lòng người yêu nước và truyền thống quật cường của đân tộc.

Sáng suốt nhạy bén trong việc xét đoán và dùng người, thể hiện qua cách xử trí với các tướng sĩ tại Tam Điệp, khi Sở và Lân mang gươm trên lưng chịu tội. Ông rất hiểu sở trường sở đoản của các tướng sĩ, khen chê đều đúng người đúng việc,...

Cùng với ý chí quyết thắng và tầm nhìn xa trông rộng Quang Trung đã làm lên trang lịch sử hào hùng cho dân tộc. Chỉ mới khởi binh đánh giặc chưa dành lại được tấc đất nào, vậy mà mà Quang Trung đã nói chắc như đinh đóng cột "phương lược tiến đánh đã có tính sẵn", lại còn tính sẵn cả kế hoạch ngoại giao sau khi chiến thắng nước lớn gấp 10 lần nước mình, để có thể dẹp chuyện binh đao, cho nước nhà yên ổn mà nuôi dưỡng lương thực.

Tài dùng binh như thần: Cuộc hành binh thần tốc do vua Quang Trung chỉ huy đến nay vẫn còn làm chúng ta kinh ngạc. Ngày 25 tháng chạp bắt đầu xuất binh ở phú xuân (Huế), một tuần lễ sau đã ra tận Tam Điệp cách Huế 500km. Vậy mà đến đêm 30 tháng chạp hành quân ra Bắc vừa đi vừa đánh giặc vậy mà ông hoạch định là mồng 7 tháng giêng sẽ vào ăn tết ở Thăng Long, trong thực tế đã vượt mức hai ngày. Hành quân xa và đầy gian khổ như vậy nhưng cờ nào đội ấy vẫn chỉnh tề, răm rắp nghe theo chỉ huy.

Hình ảnh Quang Trung lẫm liệt trong chiến trận: Hoàng đế Quang Trung thân chinh cầm quân đánh giặc không phải chỉ trên danh nghĩa. Ông là một tổng chỉ huy chiến dịch thật sự hoạch định phương lược tiến đánh, tổ chức quân sĩ, tự mình thống lĩnh mũi tên tiến công, cưỡi voi đi đốc thúc, xông pha trước hòn tên mũi đạn, bày mưu tính kế...

Đội quân của vua Quang Trung không phải là đội quân thiện chiến, lại vừa trải qua những ngày hành quân cấp tốc, không có thì giờ nghỉ ngơi, vậy mà dưới sự lãnh đạo tài tình của vị chỉ huy này đã đánh những trận thật đẹp, thắng áp đảo kẻ thù (bắt sống hết quân do thám của địch ở phú Xuyên, giữ được bí mật để tạo thế bất ngờ, vây kín làng Hạ Hồi...) trận đánh Ngọc Hồi cho ta thấy rõ tài trí về chiến lược phong thái lẫm liệt của vua Quang Trung (khói tỏa mù trời cách gang tấc không thấy gì mà chỉ nổi bật hình ảnh của vua Quang Trung..có sách ghi chép lại áo bào đỏ của ông sạm đen khói súng..)

Từ những đoạn trích trên ta thấy hiện về trong lịch sử một nhân vật xuất chúng: Lẫm liệt oai phong, văn võ song toàn đã ghi vào trang lịch sử vẻ vang của dân tộc, làm sáng ngời truyền thống dân tộc, ngàn đời sau vẫn nhắc tên người anh hùng áo vải Quang Trung.

Phân tích hình tượng vua Quang Trung - Mẫu 10

Nguyễn Huệ, vị chiến tướng dùng kì mưu hạ thành Phú Xuân. Nguyễn Huệ, vị thống tướng đã tiêu diệt 3 vạn quân Xiêm xâm lược tại Rạch Gầm – Xoài Mút trong một trận thuỷ chiến trời long đất lở. Nguyễn Huệ, người anh hùng áo vải đã đạp đổ ngai vàng chúa Trịnh ở Đàng Ngoài rồi kết duyên cùng công chúa Ngọc Hân làm chấn động Bắc Hà. Nguyễn Huệ – vua Quang Trung đã tiêu diệt 29 vạn quân Thanh xâm lược, xây nên gò Đống Đa lịch sử bất tử.

Đọc Hồi thứ 14 Hoàng Lê nhất thống chí, hình tượng người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ đã để lại trong tâm hồn ta bao ấn tượng không phai mờ.

Những tác giả – người con ưu tú của dòng họ "Ngô Thì" ở Tả Thanh Oai đã mượn lời nói của người cung nhân cũ từ phủ Trường Yên tâu với thái hậu, rất khách quan, để giới thiệu Nguyễn Huệ với sự tâm phục và kinh sợ. Vì là người ở phía bên kia, phe đối địch, nên đại từ "hắn" mà người cung nhân này dùng để chỉ Nguyễn Huệ cũng chẳng hề làm mờ đi bức truyền thần vị chiến tướng trăm trận trăm thắng.

"Không biết rằng, Nguyễn Huệ là một tay anh hùng lão luyện, dũng mãnh và có tài cầm quân. Xem hắn ra Bắc vào Nam, ẩn hiện như quỷ thần, không ai có thể lường biết. Hắn bắt Hữu Chỉnh như bắt trẻ con, giết Ván Nhậm như giết con lợn, không một người nào dám nhìn thẳng vào mặt hắn. Thấy hắn trỏ tay, đưa mắt là ai nấy đã phách lạc hồn xiêu, sợ hắn hơn sợ sấm sét".

Nên biết lúc bấy giờ, Tôn Sĩ Nghị và 29 vạn quân Thanh đã đóng chật Thăng Long, coi nước ta chỉ là quận huyện của chúng, Lê Chiêu Thống đã được thiên triều cho làm An Nam quốc vương, nhưng với cái nhìn sắc sảo, người cung nhân cũ đã chỉ ra sự bại vong tất yếu của bọn cướp nước và bè lũ bán nước: "E rằng chẳng mấy lâu nữa, hắn lại trở ra, tổng đốc họ Tôn đem thứ quân nhớ nhà kia mà chống chọi, thì địch sao cho nổi?". Chiến thắng Ngọc Hồi – Đống Đa năm 1789 đã cho thấy lời nói ấy là một dự báo linh nghiệm, một chân lí lịch sử rất hùng hồn.

Nguyễn Huệ là một con người "biết nghe và quyết đoán". Ngày 24 tháng chạp năm Mậu Thân (1788) nhận được tin cáo cấp do Nguyễn Văn Tuyết đưa vào, Nguyễn Huệ "giận lắm" định "cầm quân đi ngay" nhưng trước lời bàn "hay chính vị hiệu", ông đã nghe theo để "giữ lấy lòng người" rồi mới xuất quân đánh dẹp cõi Bắc. Việc đắp đàn ở núi Bân, tế trời đất, thần sông, thần núi, lên ngôi hoàng đế lấy hiệu là Quang Trung chứng tỏ cái tầm nhìn chiến lược của người anh hùng áo vải khi Tổ quốc đứng trước họa xâm lăng.

Cứu nước như cứu lửa. Ngày 25 còn ở Thuận Hóa thế mà 29 đã hành quân tới Nghệ An: Gặp cống sĩ Nguyễn Thiếp, mộ thêm một vạn tinh binh, tổ chức duyệt binh lớn và truyền hịch đánh giặc cứu nước để kích thích chí khí tướng sĩ và ba quân "đồng tâm hiệp lực, để đựng nên công lớn", nghiêm khắc cảnh cáo những kẻ "ăn ở hai lòng... sẽ bị giết ngay tức khắc", (vạch trần thói tàn bạo tham tàn của người phương Bắc để kích thích lòng căm thù, kêu gọi tướng sĩ noi gương Trưng Nữ Vương, Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, Trần Hưng Đạo, Lê Thái Tổ... để quét sạch quân xâm lược ra khỏi bờ cõi....).

Chỉ hơn một ngày đêm, Nguyễn Huệ đã kéo quân tới Tam Điệp hội sư với cánh quân của Đại tư mã Ngô Văn Sở. Ông ra lệnh cho tướng sĩ ăn Tết trước, hẹn đến mùng 7 vào Thăng Long sẽ mở tiệc ăn mừng, rồi chia đại quân thành 5 đạo binh lớn "gióng trống lên đường ra Bắc".

Nguyễn Huệ thật "lão luyện, dũng mãnh và có tài cầm quân": Ông đã lấy yếu tố bất ngờ để đánh thắng giặc: Bắt sống toàn bộ quân giặc do thám ở sông Thanh Quyết và đồn Hà Hồi, bao vây tiêu diệt đồn Ngọc Hồi, hàng vạn giặc bị giết "thây nằm đầy đồng, máu chảy thành suối". Tại đầm Mực làng Quỳnh Đô, giặc Thanh bị hợp vây, "quân Tây Sơn lùa voi cho giày đạp, chết đến hàng vạn người". Trong khi đó, một trận "rồng lửa" đã diễn ra ác liệt tại Khương Thượng, xác giặc chất thành 12 gò cao như núi. Nguyễn Huệ đã tiến công như vũ bão, khác nào "Tướng ở trên trời xuống, quân chui dưới đất lên", làm cho Tôn Sĩ Nghị "sợ mất mật, ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc áo giáp... nhắm hướng bắc mà chạy". Trưa mùng 5, Nguyễn Huệ và đại quân đã kéo vào thành Thăng Long trước kế hoạch 2 ngày.

Nhãn quan quân sự – chính trị của Nguyễn Huệ vô cùng sâu rộng và sáng suốt. Trên đường tiến quân đánh giặc Thanh, ông đã giao cho Ngô Thì Nhậm "người khéo lời lẽ" để "dẹp nổi việc binh đao", đem lại "phúc cho dân".

Chiến thắng Đống Đa năm Kỉ Dậu (1789) là một trang sử chống xâm lăng vô cùng chói lọi của dân tộc ta. Nó thể hiện sức mạnh vô địch của lòng yêu nước và tinh thần quyết chiến quyết thắng giặc ngoại xâm của dân tộc ta. Nó đã dựng nên tượng đài tráng lệ, hùng vĩ người anh hùng áo vải – vua Quang Trung để dân tộc ta đời đời tự hào và ngưỡng mộ:

Mà nay áo vải cờ đào,
Giúp dân dựng nước xiết bao công trình.

(Ai tư vãn – Ngọc Hân công chúa)

Xây dựng và khắc họa hình tượng người anh hùng Nguyễn Huệ là một thành công đặc sắc. Nó làm cho trang văn Hoàng Lê nhất thống chí thấm đẫm chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa anh hùng Đại Việt.

Chia sẻ, đánh giá bài viết
133
Sắp xếp theo
    🖼️

    Gợi ý cho bạn

    Xem thêm
    🖼️

    Văn mẫu lớp 8 Sách mới

    Xem thêm