Giao diện mới của VnDoc Pro: Dễ sử dụng hơn - chỉ tập trung vào lớp bạn quan tâm. Vui lòng chọn lớp mà bạn quan tâm: Lưu và trải nghiệm

Phân tích một tác phẩm văn học thơ trào phúng Ngắn gọn lớp 8

Bản quyền tài liệu thuộc về VnDoc.
Nghiêm cấm mọi hành vi sao chép với mục đích thương mại.

Phân tích một tác phẩm văn học thơ trào phúng Ngắn nhất: Tiến sĩ giấy

“Tiễn sĩ giấy” là một áng thơ trào phúng đặc sắc của Nguyễn Khuyến. Tác phẩm thơ này vừa phê phán trước hiện thực, thói xấu ở đời, vừa là lời tự trào chua chát của chính tác giả - một nho sĩ rơi vào tình cảnh bất lực trước cuộc đời.

Xuyên suốt bài thơ là hai lớp nghĩa tồn tại song với nhau. Lớp nghĩa đen được hiểu trực tiếp từ từng câu từng chữ là hình tượng ông tiến sĩ bằng giấy - một món đồ chơi quen thuộc của trẻ em thời xưa. Còn lớp lớp nghĩa thứ hai chính là hình ảnh ẩn dụ ướm chỉ những ông tiến sĩ bằng xương bằng thịt, nhưng hữu danh vô thực. Rõ là có danh tiến sĩ, nhưng một bụng rỗng tuếch, không có chữ nghĩa, tri thức gì ở bên trong. Ở hai câu thơ đầu, tác giả sử dụng điệp từ “cũng” để nhấn mạnh sự đầy đủ của ông tiến sĩ giấy, nhưng chỉ ở các trang bị bên ngoài như mũ áo, cờ biển, cân đai, cùng danh xưng ông nghè. Nhưng chính điệp từ “cũng đó” kết hợp với cặp hình ảnh đối lập ở hai câu thơ sau, lại góp phần làm sâu sắc hơn thái độ ỡm ờ, coi nhẹ, coi khinh của tác giả với những ông tiến sĩ đấy. Bởi những thứ quan trọng nhất với một tiến sĩ là kho tàng tri thức thì họ đều chẳng có. Thứ họ có chỉ là những lớp vỏ hào nhoáng ở bên ngoài, rực rỡ, chói lọi để che lấp sự mục rỗng ở bên trong. Họ cũng như những món đồ chơi tiến sĩ làm từ giấy, đẹp thì có đẹp, nhưng chỉ là những món đồ chơi vô dụng, chẳng giúp ích gì được cho đời. Và giá trị của họ cũng chỉ đem ra đong đếm bằng những đồng tiền, như những món hàng bình thường khác. Thái độ khinh thị, chê bai ấy của tác giả được thể hiện trực tiếp qua câu thơ cuối “Nghĩ rằng đồ thật, hoá đồ chơi!”. Đó không chỉ là sự xem thường, mỉa mai, trào phúng những kẻ bỏ tiền ra mua danh mua tước, mà còn lại sự tự trào của chính nhà thơ dành cho mình. Bởi Nguyễn Khuyến cũng là một bậc nho sĩ nổi tiếng, bụng đầy kinh thư. Nhưng khi đất nước rơi vào cảnh rối ren, lại chẳng thể giúp gì được cả. Sự tự trách trước cái bất lực của bản thân ông, gói lại trong sự tiếng tự trào ngậm ngùi chua xót.

Có thể nói, “Tiến sĩ giấy” là một áng thơ nổi bật trong chùm thơ trào phúng của Nguyễn Khuyến. Bởi nó không chỉ tái hiện rõ rệt hoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ mà còn khắc họa sâu sắc thế giới nội tâm đầy bất lực của những nhà Nho học trước thời thế rối loạn đương thời.

Phân tích một tác phẩm văn học thơ trào phúng Ngắn nhất: Lai Tân

Lai Tân của nhà thơ Hồ Chí Minh là một tác phẩm thơ trào phúng xuất sắc trong tập Nhật kí trong tù.

Với thể thơ thất ngôn tứ tuyệt quen thuộc, nhà thơ khéo léo khắc họa cuộc sống của các nhà cầm quyền tại Lai Tân nồng đậm sự châm biếm:

“Giam phòng Ban trưởng thiên thiên đổ,
Cảnh trưởng tham thôn giải phạm tiền;
Huyện trưởng thiêu đăng biện công sự”

Từ “trưởng” được lặp lại liên tiếp ba lần, nhấn mạnh tầm quan trọng của ba chức vụ được nhắc đến. Lần lượt ban trưởng, cảnh trưởng và huyện trưởng đều là những vị quan đứng đầu của huyện Lai Tân. Họ có chức trách bảo vệ và chăm lo cho cuộc sống của người dân. Ấy thế mà giữa ban ngày, ban trưởng thì thì đánh bạc, cảnh trưởng thì ăn hối lộ. Họ ngang nhiên làm điều vi phạm pháp luật mà chẳng phải sợ hãi hay lén lút. Cấp trên của họ là huyện trưởng, dù rất chăm chỉ làm việc công nhưng lại chăng hề phát hiện ra. Kể cũng phải, bởi huyện trưởng chỉ làm việc ban đêm, còn ban ngày ông ta làm gì, đi đâu thì chẳng ai biết được. Việc công, việc dân phải đêm khuya thanh vắng ông mới đem ra làm. Sự đối lập thú vị khi người thực thi pháp luật lại là kẻ phạm luật, khi việc sai trái thì làm vào ban ngày còn việc công chính thì lại làm vào ban đêm. Đã tạo nên tiếng cười trào phúng cho bài thơ. Tiếng cười ấy còn bật lên giòn giã hơn khi tác giả châm biếm vô cùng sâu cay ở câu thơ cuối:

“Lai Tân y cựu thái bình thiên”

Các vị quan cầm quyền tham ô, cờ bạc như vậy mà trời đấy Lai Tân vẫn được xem là “thái bình”. Đã vậy sự “thái bình” đó vẫn được duy trì đều đặn bấy lâu nay. Hóa ra, ở vùng đất này cái trì trệ, thối nát, mục rỗng vẫn được duy trì bền vững như vậy sao? Từ “thái bình” như một nhát kéo rạch ngang bộ mặt giả dối của giới cầm quyền nơi đây. Cưởi chê trực diện vào vẻ giả tạo bên ngoài của chúng.

Từ tiếng cười châm biếm về hiện thực giả dối của vùng đất Lai Tân, nhà thơ Hồ Chí minh đã thể hiện sự phê phán, chê trách về giai cấp thống trị, chính quyền ở nơi đây. Từ đó thể hiện sự thương xót cho những người dân bất hạnh phải sống dưới bầu trời u ám đó.

Phân tích một tác phẩm văn học thơ trào phúng Ngắn gọn: Tự trào

Một trong những cảnh giới cao nhất của thơ trào phúng, chính là giọng thơ tự trào. Trong đó, Nguyễn Khuyến là một cây bút tự trào nổi bật trong làng thơ ca Việt Nam. Nổi bật trong các tác phẩm của ông, là bài thơ Tự trào.

Vốn là một vị tiến sĩ với trí tuệ hơn người được dân chúng, vua quan kính trọng, nhưng do thời cuộc run rủi, cuối cùng Nguyễn Khuyến đã lựa chọn lui về ở ẩn. Tự trào chính là lời thơ mà ông tự cười chê chính bản thân mình, khi chẳng thể đem tài cán ra để giúp đỡ giang sơn:

“Ta cũng chẳng giàu, cũng chẳng sang,
Chẳng gầy chẳng béo, chỉ làng nhàng.
Cờ đương dở cuộc không còn nước,
Bạc chửa thâu canh đã chạy làng.”

Bốn câu thơ đầu gợi lên sự dở dang, vỡ lở của những đặc điểm mà Nguyễn Khuyến tự tả về mình. Chẳng giàu, chẳng sang, chẳng gầy, chẳng béo. Điệp từ “chẳng” khắc họa một chàng trai không có gì. Ông tự cho mình là một kẻ “làng nhàng”, không có gì đặc sắc. Tự chê bai, hạ thấp mình như vậy, là để giải thích cho hành động rời bỏ chốn kinh thành khi đất nước rối loạn về ở ẩn của chính Nguyễn Khuyến. Từ “chạy làng” là hành động chỉ kẻ vô trách nhiệm, chối bỏ việc phải làm. Đó là cách mà nhà thơ nghĩ về bản thân. Ông thấy mình là một nam tử hán tầm thường, hèn nhát, không thể cáng đáng được việc nước.

“Nghĩ mình lại gớm cho mình nhỉ,
Thế cũng bia xanh, cũng bảng vàng.”

Câu thơ là lời tự đối thoại với chính mình của Nguyễn Khuyến. Ông tự trào với chính mình. Rằng dù có bia xanh, có bảng vàng được người đời kính trọng thì có sao chứ? Để bây giờ lại sống ẩn dật, hèn nhát như một kẻ gàn dở. Bởi giờ đây ông chỉ nói ra “gàn bát sách”, chứ chẳng đóng góp được gì cho cuộc đời. Sự tự giễu cợt bản thân ấy, cho thấy nhà thơ vô cùng day dứt khi chẳng thể làm tròn phận sự của một đấng nam nhi, khi chẳng thể cống hiến cho đất nước xứng với chức Tiến Sĩ năm đó đỗ đạt. Giây phút Nguyễn Khuyến từ quan về ở ẩn để giữ sự trong sạch cho bản thân, cũng là lúc ông chối bỏ trách nhiệm của mình với vua, với nước, với dân. Điều đó khiến ông đau khổ, dằn vặt đến đau đớn khôn nguôi.

Tự trào là sự trào phúng, giễu cợt của Nguyễn Khuyến dành cho chính mình. Nhưng cũng là lời châm biếm cho những kẻ chỉ biết giữ mình, không chịu đem tài sức ra cống hiến cho đất nước trong bối cảnh triều chính rối ren lúc bấy giờ.

Chia sẻ, đánh giá bài viết
127
Chỉ thành viên VnDoc PRO tải được nội dung này! VnDoc PRO - Tải nhanh, làm toàn bộ Trắc nghiệm, website không quảng cáo! Tìm hiểu thêm
Sắp xếp theo
    🖼️

    Gợi ý cho bạn

    Xem thêm
    🖼️

    Văn mẫu lớp 8 Sách mới

    Xem thêm