Giao diện mới của VnDoc Pro: Dễ sử dụng hơn - chỉ tập trung vào lớp bạn quan tâm. Vui lòng chọn lớp mà bạn quan tâm: Lưu và trải nghiệm
Đóng
Điểm danh hàng ngày
  • Hôm nay +3
  • Ngày 2 +3
  • Ngày 3 +3
  • Ngày 4 +3
  • Ngày 5 +3
  • Ngày 6 +3
  • Ngày 7 +5
Bạn đã điểm danh Hôm nay và nhận 3 điểm!
Nhắn tin Zalo VNDOC để nhận tư vấn mua gói Thành viên hoặc tải tài liệu Hotline hỗ trợ: 0936 120 169

Bộ đề thi kì 1 Văn 12 Kết nối tri thức - Số 1

Lớp: Lớp 12
Môn: Ngữ Văn
Dạng tài liệu: Đề thi
Bộ sách: Kết nối tri thức với cuộc sống
Loại: Bộ tài liệu
Loại File: ZIP
Phân loại: Tài liệu Cao cấp

Bộ đề thi kì 1 Văn 12 Kết nối tri thức - Số 1 được VnDoc.com tổng hợp và xin gửi tới bạn đọc cùng tham khảo. Bài viết được tổng hợp gồm có 4 mã đề thi. Mỗi đề thi gồm có 2 phần đọc hiểu và làm văn. Thí sinh làm bài trong thời gian 90 phút. Đề có đáp án và lời giải chi tiết kèm theo. Mời các bạn cùng theo dõi chi tiết đề thi dưới đây để có thêm tài liệu ôn thi kì thi cuối học kì 1 lớp 12 nhé.

1. Đề thi học kì 1 môn Văn - Đề 1

I. ĐỌC HIỂU (4đ)

THUỶ THỦ TÀU VIỄN DƯƠNG (*)

(Bệnh sĩ, Lưu Quang Vũ)

Đôi nét về hài kịch Bệnh sĩ

Nội dung vở kịch lấy bối cảnh ở một vùng làng quê nông thôn, kể về ông chủ tịch xã Toàn Nha và những xã viên của xã Hùng Tâm. Họ đều là những người dân hiền lành, chân chất, thật thà,... nhưng vì tính háo danh, tính “sĩ” mà ai cũng cố gắng phấn đấu cho mình có một cái mác thật sang trọng và hiện đại... Và từ căn bệnh đó mà xảy ra bao chuyện dở khóc, dở cười.

Bệnh sĩ của cổ tác giả Lưu Quang Vũ đề cập đến “bệnh tưng bừng dối trá, tưng bừng phô trương, tưng bừng thành tích”.

Nhân vật

- Ông Nha

- Cô Nhàn: Con gái ông Nha

- Long: Em trai Nhàn

- Ông Thịnh

- Hưng: Cháu ông Thịnh

- Văn Sửu

- Ông Độp: Tức Mạnh Tuấn

- Bà Độp: Vợ ông Độp

- Tiến: Thợ xà lan, bạn Hưng

- 2 phóng viên truyền hình

- “Nhà văn”

- Anh Tỵ

- Ông Ruộng

- Cô Xoan

- Bà Thủ

- Võ sĩ Đại Dương

Các quan khách, các diễn viên đội văn nghệ và những xã viên của “Liên đoàn tổ

hợp xã Công nông thương tín Hùng Tâm”.

Sau đây là cảnh III của vở kịch

Nhà Ông Thình

Ông Thình và Hưng. Hưng vừa từ ngoài vào, tay xách túi, mặc áo xanh bảo hộ lao động, bên trong là áo sọc thuỷ thủ.

Hưng: Chú.

Ông Thình: Hưng, cháu về đấy à? Trời ơi, xem nào: to khoẻ lên, rắn rỏi hẳn... thuỷ thủ có khác... Chà chà, mọi người đang mong đợi cháu. Nhận được điện, chú đã báo tin. Gặp ai chưa? Gặp cái Nhàn chưa?

Hưng: Chưa, từ bến sông cháu về thẳng nhà.

Ông Thình: Hay lắm! Thế là cháu đã trưởng thành, đã hiển đạt, chú mừng vô cùng. Vinh dự, mát mặt về cháu. Nhưng sao... cháu ăn mặc xuềnh xoàng thế này, đồng chí thuyền trưởng viễn dương?

Hưng: Viễn dương nào ạ?

Ông Thình: Viễn dương hàng hải Vốt-xcô. Cháu là thuyền trưởng.

Hưng: Ai bảo chú thế?

Ông Thình: Cô Nhàn. cô Nhàn kể, mọi người ai cũng trầm trồ thán phục cháu. Họ bảo cháu nay Nhật, mai Pháp, ngày kia Hồng Kông,... Cả xã ta giờ mới có một người làm thuyền trưởng.

Hưng: Thế đấy, cô Nhàn kể... Chết thật.

Ông Thình: Ông Nha, bố cô Nhàn, thì quý cháu, tự hào về cháu vô cùng. Nhưng sao lại chết? Cháu vẫn là thuyền trưởng chứ?

Hưng: Vâng... Nhưng thế này chú ạ... Chuyện này cháu cũng đang bối rối khó xử quá đây... số là... ngày chia tay Nhàn, cháu đã hứa với Nhàn là sẽ trở thành một nhà hàng hải. Cô gái lãng mạn ấy cứ một hai đòi cháu phải thành một nhà hàng hải, một thuyền trưởng... Nhưng cháu... quả giờ cũng đã là thuyền trưởng thật, nhưng không phải thuyền trưởng tàu biển đâu, mà chỉ là phụ trách một con tàu cũ kĩ nhỏ xíu, một con tàu kéo xà lan chuyên chạy đường sông, tàu chỉ có cháu với một anh thợ máy...

Ông Thình: Sao? Thế mày không vào hàng hải à?

Hưng: Có chứ ạ, nhưng cháu không được học tàu biển, người ta phân cháu học vận tải đường sông. Ra trường, họ cử cháu về làm việc ở một công ty vận tải của tỉnh nhà... Lúc mới vào học, viết thư cho Nhàn cháu đã không dám nói sự thật sợ cô ấy thất vọng. Cô ấy chỉ mong cháu trở thành thuyền trưởng đi biển, và cháu đã hứa, đã thề thốt, nên cháu đành nói dối cô ấy... Cháu thật tồi... Cháu sĩ, cháu sợ cô ấy sẽ không yêu cháu nữa...

Ông Thình: Mày thật là.. Mày giết tao, mày giết tao rồi, Hưng ạ.

Hưng: Cháu chỉ là một thằng thợ tàu đường sông, nhưng cháu yêu công việc của cháu. Cháu đã quyết định rồi: lần này về cháu sẽ nói thật hết với cô ấy, rồi muốn ra sao thì ra...

Ông Thình: Mày giết tạo rồi, có phải mình cái Nhàn đâu, mà còn ông Nha, bố nó. Mày còn lạ gì ông ấy, ông ấy chúa thích danh tiếng oai vệ, cạnh ông ấy lại có thằng Sửu. Họ đã tán đủ thứ về mày, nào là tài giỏi, nào là sang trọng, giàu có, biết đâu mày lại xơ xác thất thểu thế kia. Cũng chính vì vậy mà ông ấy ưng chuyện mày với cái Nhàn, đã định lần này mày về sẽ ăn hỏi... Ông Nha lại là chủ tịch, là chủ nhiệm, giờ họ gọi là giám đốc Liên hợp xã, chú là cấp dưới của ông ấy...

Hưng: Cháu sẽ thú thật với bác Nha.

Ông Thình: Không được, mày không biết tính khí ông ta đâu. Sẽ hỏng hết. Đừng hòng ông ấy gả con gái cho mày, mà ông ấy cũng sẽ cạch mặt tao, mất hết ông ấy mất thôi. Giời ạ, tao cứ đinh ninh mày là thuyền trưởng.

Hưng: Thì cháu cũng là thuyền trưởng thật đấy thôi, nhưng mà là thuyền trưởng tàu đường sông. Con tàu đang đỗ ngoài bến Nhang xã ta ấy, chúng cháu chở phân đạm cho xã ta đấy.

Ông Thình: Lại thế nữa. Giời ơi, tưởng mày nên danh nên tướng gì, viễn dương hàng hải, hơn cả phi công, hơn cả lái tàu vũ trụ, nào ngờ... mày lái tàu chở cứt hả cháu?

Hưng: Sao lại cứt? Phân lân, phân đạm.

Ông Thình: Thì cũng thế. Cứt hoá học. Chú thì chẳng sao đâu, chở phân cũng được. Chú là nhà nông chú biết chứ: “Nhất nước, nhì phân”. Không có thứ bón ruộng lấy gì mà ăn? Nhưng họ có nghĩ như thế đâu. Họ thích Vốt-xcô vốt cậu cơ. Không không được. Hưng, đã ai thấy mày ở trên cái tàu chở phân ấy xuống chưa?

Hưng: Cháu không để ý, hình như chưa.

Ông Thình: Thế này Hưng ạ, mày tuyệt nhiên không được lộ ra, không được nói gì cả. Cứ nhận mày là thuyền trưởng viễn dương đi. Mày về ít hôm rồi lại đi cơ mà. Cốt xong việc ăn hỏi đã. Mà cũng để thư thư để ông ấy khỏi xỉ vả tạo. Đối với ông này thì không gì tai hại bằng làm ông ấy tẽn, ông ấy mất danh tiếng. Nên mày đừng nói gì cả, cứ nhận mày là thuyền trưởng viễn dương đi!

Hưng: Cháu lại phải tiếp tục nói dối Nhàn ư? Lại nói dối cả bác Nha?

Ông Thình: Thì đã sao? Chính họ cũng luôn dối dá. Chính ông Nha đang bắt tao đi mượn lợn các nhà về bỏ vào chuồng chung để cho khách tham quan tới quay vô tuyến. Mày cứ nhận là thuyền trưởng viễn dương đi. Chú xin mày, đừng làm chú bẽ. Mà mày cũng rất yêu cái Nhàn kia mà, mày có muốn mất vợ không có muốn mất cái Nhàn không?

Hưng: Không. Nhưng cháu không muốn nói dối nữa.

Ông Thình: Một thời gian nữa thôi, rồi sau này mày muốn nói gì thì nói. Sông hay biển thì cũng thế, lúc đó họ giết được mày à? Nhưng bây giờ thì chớ... Nghe chú, có phải mình ăn cắp ăn trộm hay gián điệp phản động gì đâu mà sợ.

Hưng: Viết thư nói bốc phét còn dễ, đằng này, mình phải đóng kịch... cháu ngượng lắm, cháu chưa đi biển một ngày... đi biển không phải nghề của cháu.

Ông Thình: Thì ngay tao đây này, có biết nghề làm pháo bao giờ đâu. Ông ấy bắt tao phải phụ trách việc làm pháo, Ông ấy đang lên cơn mê pháo, để ra khẩu hiệu. Cả xã làm pháo, nhà nhà làm pháo... Bao nhiêu tiền của ông ấy đổ ra mua thuốc nổ về chất ở trụ sở. Mà pháo thì đã bán được đâu. Quả nổ, quả xịt. Tao đến khổ vì ông ấy. Kiểu này cuối năm tao cũng xin nghỉ thôi. Nhưng bây giờ thì không được. Mai lại là ngày họ đón khách về, rồi viết báo, rồi quay phim...

Không, chú lạy mày đấy ! Mày cứ nhận là Vốt-xcô cho chú ! Mày có muốn cả hai chú cháu mình ê mặt không? Không chứ gì, thế thì phải nghe chú. Có điều... mày phải kiếm đâu ra bộ quần áo cho nó có vẻ thuyền trưởng viễn dương để ra mắt họ, chứ không được ăn mặc tuềnh toàng thế kia.

Hưng: Kiếm đâu ra? Thôi được, cháu nghe chú. Anh bạn cùng tàu với cháu có mấy bộ quần áo hàng hải đẹp lắm. Anh ấy đi học thợ máy tàu biển về, cháu sẽ nhờ anh ấy giúp.

Ông Thình: Đúng rồi, bạn bè phải giúp nhau lúc hoạn nạn. Cháu về tàu ngay đi. Nhớ đừng để ai trông thấy. Chuẩn bị thật kĩ càng rồi mai hẵng về đây. Nhớ cháu nhé. Nhớ là thuyền trưởng hàng hải Vốt-xcô, chết cũng phải là Vốt-xcô, không thì hỏng hết!

Hưng: Chỉ tại cháu thôi, chỉ tại cháu đã không dám nói thật từ đầu với Nhàn... thế là hôm nay cháu lại chưa được gặp cô ấy.

Ông Thình: Mai. Mai họ sẽ đón cháu rất trọng thể đấy. Đi đi, rồi mai về. Nhớ là thuyền trưởng viễn dương nhá. Đi đi, đừng để ai nhìn thấy cháu xuống tàu chở phân. Đi lối này này! Giời ạ, có khổ thân tôi không cơ chứ!

(Hưng nhìn trước nhìn sau rồi chạy vụt đi. Ông Thình vò đầu bứt tại nhìn theo)

(Lưu Quang Vũ và Xuân Quỳnh gửi lại, Hội Văn học Nghệ thuật Đà Nẵng, 1989)

(*) Tên văn bản do nhóm tác giả đặt.

* Lưu Quang Vũ (1948 – 1988) là một nhà soạn kịch, nhà đạo diễn sân khấu. Từ năm 1978 đến 1988, Lưu Quang Vũ làm biên tập viên ở Tạp chí Sân khấu, bắt đầu sáng tác kịch nói với vở kịch đầu tay Sống mãi tuổi 17 viết lại theo kịch bản của Vũ Duy Kì.

Câu hỏi

Câu 1. Hãy xác định 3 đặc điểm tiêu biểu của hài kịch trong văn bản Thuỷ thủ tàu viễn dương. (0.5 điểm)

Câu 2. Xác định một số xung đột, mâu thuẫn chủ yếu trong văn bản hài kịch Thuỷ thủ tàu viễn dương và phân tích đôi nét về tác dụng của chúng. (0.5 điểm)

Câu 3. Đoạn trích hài kịch trên đã sử dụng những thủ pháp gây cười nào?(1.0 điểm)

..............................

2. Đề thi học kì 1 môn Văn - Đề 2

I. ĐỌC HIỂU (4đ)

MỘT ĐÁM VÀO NGÔI

(Việc làng, Ngô Tất Tố)

Nhà bác Cả Mão mọi ngày thường im phăng phắc, hôm nay bỗng nhiên linh đình như đám giỗ nhỏ. Dưới cầu ao, hai người đàn ông lực lưỡng đang châu đầu trên chiếc rổ thưa, tỉ mỉ nhổ từng sợi lông tơ cho một con gà trong rổ. Trên bờ con chó xóm bị trói bốn chân, nhe răng nằm trên vũng máu lênh láng. Cạnh nó, một nồi nước sôi khói bốc nghi ngút và bốn năm người, cũng hạng đàn ông lực lưỡng, kẻ cầm gáo múc nước, người cầm dao sắp sửa cạo lông. Từ cổng đến thềm, tập nập những người đi lại. Tôi mới nhô vào đến sân, bác Cả lật đật chạy ra đón lên nhà trên với một bộ điệu vui vẻ. Ở gian bên kia, độ bảy tám ông ngôn ngang nằm vây một chiếc khay đèn thuốc phiện. Với những cặp môi thâm xịt và dài vều, và những chiếc quần cháo lòng, áo ba-đờ-xúa rách lòi khố tải, các ông ấy như muốn bảo cho tôi biết đây toàn là hạng kì dịch kiêm tín đồ của đức chúa Phù dung. Dãy phản bên này, hai bàn tổ tôm kế nhau. Bàn trong vang những tiếng ăn, tiếng phỗng, bàn ngoài đương ỏm tỏi cãi nhau về sự đánh thấp đánh cao. Chủ nhân lễ phép mời tôi vào ngôi trong chiếc tràng kỉ kê ở gian giữa, đối mặt với toà bàn thờ hương khói vắng tanh. Mấy ông trong bàn tổ tôm thi nhau nhìn tôi bằng nửa con mắt trong nghiêng giữa khi vài ông ở bàn thuốc phiện lần lượt ngóc cổ như đàn rắn lửa. Rồi thì ai nấy lại cùng theo đuổi công việc của họ, người hút cứ hút, người đánh bài cử đánh bài.

- Ông có lòng đến đây mừng cho nhà cháu, thật là quý hoá! Xin mời ông xơi tạm chén nước.

Bác Cả Mão đương một tay gãi tai, một tay bưng chén chè nụ đặt trước mặt tôi, bên bàn tổ tôm bỗng có tiếng gọi:

- Anh Cả đâu! Cho mượn hai đồng đánh thêm hội nữa. Đen quá, cả hội chẳng ù ván nào!

Bằng một tiếng vâng đầy giọng thành tâm, bác Cả Mão nhanh nhẩu chạy xuống nhà dưới, để tôi ngồi đó với bác Hai Thìn, một người em ruột bác ấy. Thơ thần chưa biết nên nói chuyện gì, tôi có dịp nghĩ đến cái câu của bác Cả Mão mới nói. Với bác, tôi chỉ là người trọ học ở nhà láng giềng. Vì năng gặp bác, thành ra quen biết. Hôm nay là ngày “vào ngôi” cho thằng con bác mới đẻ được ba tháng nay, bác vẫn mến tôi nên cố mời tôi sang chơi. Ở làng khác, vào ngôi chỉ là một lệ rất thường, người ta phí tổn độ vài ba chục, hay vài ba trăm quả cau là xong. Sao trong đám này lại có cỗ bàn linh đình, và sao ở trước mặt khách, ông chủ lại nói đến câu “mừng cho nhà cháu”?

Hay là riêng với làng này, vào ngôi là một việc hỉ? Nếu vậy, có lẽ mình phải mất một món tiền mừng. Óc tôi còn đương vẩn vơ, bác Cả Mão đã ở nhà dưới chạy lên. Cung kính trao hai đồng bạc cho một ông trong bàn tổ tôm, bác ấy tung tăng ra sân, khiến tôi không kịp nói chuyện. Dưới bếp, có tiếng dao thớt kí cốc, mùi xôi ngào ngạt đưa lên nhà trên. Một ông trong đám thuốc phiện dõng dạc cất cái giọng khàn khàn

- Anh Cả đâu! Lên đây tôi bảo!

Một tiếng dạ lớn, bác Cả Mão từ sân vào thềm, rồi khoanh tay đứng tựa vào cột:

- Bẩm cụ dạy gì con ạ?

- Trưa lắm rồi đấy! Liệu mà giục bảo chúng nó sắp đồ lễ mau lên! Rồi anh phải thân hành đến mời cụ Điền lại chơi, kẻo cụ lại ăn cơm nhà

Lại một tiếng “dạ” rất lễ phép, bác Cả rón rén lui ra. Tiện dịp, tôi bảo bác ngồi xuống chỗ tôi ngồi và móc ví lấy một đồng bạc mừng bác. Nhưng bác khăng khăng từ chối, nói rằng việc này không có lệ mừng. Ngoài thềm có tiếng lẻng kẻng. Một người xách chiếc mâm đồng sáng choang đặt lên cái bàn ở trước mặt tôi. Rồi một người khác để luôn thúng xôi vào đó. Bác Cả Mão núc hai bàn tay như thầy phù thuỷ bắt quyết và nói với tôi:

- Bên này chật quá, mời ông sang nhà chú cháu. Ông nhạc tôi cũng ở bên ấy. May quá, tôi đang muốn tránh cái bầu không khí khó chịu.

Nghe lời chủ nhân, tôi liền theo bác Hai Thìn đi luôn. Nhà này cũng thấy lố nhố những người, nhưng toàn là người tôi quen. Qua một tuần trà, bác Hai Thìn nhìn tôi và nói bằng giọng sung sướng:

- Anh tôi lo công việc này cho cháu tất cả cũng hết đến trăm rưỡi bạc. Ấy là chúng tôi khôn khéo, xoay xở thì việc mới xong, người khác ở vào địa vị chúng tôi, dù có mấy trăm, vị tất đã lo nổi!

Câu nói của bác khiến tôi hết sức ngạc nhiên:

- Sao nhà các ông hoang quá như vậy? Tôi thấy người ta “vào ngôi” cho con chỉ tốn độ vài đồng bạc là cùng!

Bác Hai xua tay và nói bằng giọng thì thầm:

- Nào có phải hoang! Ông tính ở đời ai muốn mất tiền! Đó là sự bất đắc dĩ. Nói giấu gì ông, nhà tôi không phải gốc gác ở làng này. Ông thân chúng tôi ở vùng Nam lên đây sinh cơ lập nghiệp, rồi mới đẻ ra anh tôi và tôi. Thế là tới ở làng này, nhà tôi mới ở có hai đời. Theo lệ nhà quê, những người ngụ cư ba đời mới được “thành tổ”. Nghĩa là được ngang hàng với mọi người khác. Làng này lại ngặt hơn nữa, từ xưa đến giờ họ không cho một người ngoài nào nhập bạ. Vì thế, anh tôi và tôi cũng như ông thân chúng tôi, đều không có ngôi ở đình. Chắc ông cũng biết ở làng mà không có ngôi, thật là một sự nhục nhã.

- Người ta không nhận thì càng khỏi mất. Việc gì mà cực!

Tôi mỉm cười và đáp một câu khôi hài như vậy. Bác Hai vẫn nói một cách thật thà:

– Thế được còn nói gì nữa! Anh em chúng tôi, trời cho trong nhà cũng đủ bát ăn, mỗi người cũng có được con trâu cày và dăm mẫu ruộng. Thế mà không thể nộp được lệ làng cho cha và mẹ, tức là tiếng xấu để đời... Mỗi khi nghĩ lại những nông nỗi ấy, anh tôi và tôi tức chết người đi được. Trước đây, chúng tôi đã cố luồn lọt mấy ông đàn anh, để xin nhập bạ, nhưng mà bấy giờ hãy còn cụ Bá, cụ ấy nghiệt lắm, nhất định bảo nhà tôi đến ở làng này chưa được ba đời, không thể nhận lời. Chúng tôi đành phải cắn răng mà chịu. Bởi vậy lần này anh tôi sinh được mụn cháu, lại may gặp lúc cụ Bá đã mất, chúng tôi phải cố vào ngôi cho nó.

- Nhưng mà các ông tiêu những món gì mà hết đến hơn trăm bạc

Bác Hai càng hạ giọng xuống, sau khi liếc mắt ngó qua những người chung quanh:

- Ông bảo những công việc ấy, nói bằng miệng không được ư? Phải mất tiền cả đấy! Cụ chưởng lễ ba chục, ông chánh hội hai chục, cụ lí trưởng mười lăm đồng, ông phó lí và ông phó hội mỗi người mười hai đồng, thư kí, trưởng bạ, mỗi người mươi đồng, hương trưởng, lí cựu, tộc biểu, trương tuần mỗi người năm đồng. Những số tiền ấy hết ngoài trăm đồng rồi. Lại còn ăn uống từ chiều hôm qua đến giờ...

- Nếu đã mất tiền cho họ thì thôi bữa ăn uống được không? Bày vẽ làm gì cho tốn

Bác Hai lắc đầu:

- Không được ông ạ! Ở chốn thôn quê, ăn uống là sự đầu tiên, hễ không có ăn thì việc không thành. Lúc trước, anh tôi cũng nghĩ như ông, đã định chước sự ăn uống vì đã rắc tiền khắp mặt chức dịch. Nhưng ông chánh hội không nghe. Ông ấy nói rằng thế nào cũng phải đấm miệng cho các bô lão, và bọn trai đinh bò bướu một bữa. Nếu không họ sẽ phá ngang, tất nhiên sẽ có cản trở.

Bác Hai ngừng lại một lát chờ cho một người ấy đi qua, rồi tiếp:

- Một bữa ăn này, ít ra anh tôi cũng phải tiêu đến năm, sáu chục đồng. Vì kiêng tiếng làm thịt lợn, sợ rằng làng nước cho là hứng mỡ, nên mới đi chợ mua thịt. Sự thực, mua thịt lại quá giết lợn. Sáng ngày đi lấy vừa lòng lợn vừa thịt lợn tất cả mười một đồng bạc, đáng lẽ cũng đủ chan chát, nhưng cụ chưởng lễ thích ăn thịt cầy, nên ông lí trưởng bắt phải giết thêm con cầy. Chẳng nhẽ mời dẫn mời làng ăn uống trong nhà, ngoài đình lại khổng có gì. Bởi thế chúng tôi phải sửa cỗ xôi, con gà để ra lễ thờ.

Bấy nhiêu món hết ngót hai chục rồi. Còn tiền rượu, tiền thuốc phiện, còn tiền cung đốn họ đánh tổ tôm. Ông đã biết rõ, mọi khi làng tôi có ai dám đánh “góp một”? Lớn lắm chỉ “góp năm hào”. Hôm nay vì tiền nhà chủ bỏ ra, được thì ăn, thua không phải trả, nên họ hò nhau đánh góp hai đồng. Rồi đấy ông xem, đến lúc đứng dậy, ai cũng thu hết, anh tôi đưa ra bao nhiêu mất hút bấy nhiêu, chẳng lấy lại được đồng nào hết... Lúc nãy tôi nói trăm rưỡi, còn là hà tiện, xong việc có lẽ hết hơn, chứ bấy nhiêu tiền không thể nào đủ.

Bác Hai còn muốn nói nữa. Bên nhà bác Cả chợt nghe có tiếng ầm ầm, bác ấy lật đật xin lỗi đứng dậy:

- Mời ông ngồi chơi với các cụ tôi. Tôi phải chạy sang bên kia. Làng đã vào rồi! Tiếng ầm ầm bên nhà bác Cả mỗi lúc một to, trước còn cười nói, sau đến quát tháo, cuối cùng thì đến những tiếng mách tục mách qué. Lâu lâu cuộc xô xát lại dữ dội thêm, bác Hai Thìn hốt hoảng chạy về, vừa thở vừa nói:

- Khổ quá, mấy ông bô lão lại còn bẻ vành bẻ vẻ, nhất định nói rằng: hương ước không có chỗ nào nói cho người ngoài vào ngôi. Cụ Điền hết sức dàn xếp không được. Ông chánh hội và ông lí trưởng bảo anh tôi phải chồng hai chục đồng bạc – tiền ngay cốc cốc – để cúng vào nóc các lão, thì việc mới yên. Thôi thế cũng còn là may.

Cuộc ăn uống kéo dài mãi đến gần tối, nhưng không xảy ra sự gì nữa. Cách ba bữa sau, bác Cả Mão sang nhà tôi trọ, dạm bán cho ông chủ nhà một mẫu hai ruộng, lấy trăm đồng bạc để trang công nợ. Vui vẻ bác khoe với tôi:

- Tất cả, tôi lo hết gần hai trăm. Của nhà có non một trăm, còn thì đều phải đi vay. Nhưng tôi cũng lấy làm hả. Từ nay trở đi, cháu đã có ngôi đình, chúng tôi sẽ được ăn miếng thịt phần việc làng của nó....

(Ngô Tất Tố, Tuyển tập. NXB Văn học 2016)

* Ngô Tất Tố (1893 – 1954) là một nhà văn, nhà báo, nhà nho học, dịch giả và nhà nghiên cứu có ảnh hưởng lớn ở Việt Nam giai đoạn trước 1954. Ngô Tất Tố viết nhiều thể loại báo chí, trong đó tiểu phẩm và phóng sự là hai thể loại đã giúp ông thành danh. Di sản báo chí của Ngô Tất Tố trở thành những tư liệu phong phú, chi tiết, phản ánh toán diện và trung thực xã hội Việt Nam đầu thế kỉ XX, tiêu biểu là tiểu thuyết Tắt đèn, Lều chõng và phóng sự Việc làng.

Câu hỏi

Câu 1. Nhan đề Một đám vào ngôi của văn bản có thể gợi lên những suy luận, phán đoán gì về những khía cạnh nào của bài phóng sự? (1.0 điểm)

Câu 2. Liệt kê các sự việc chính theo trình tự được thuật lại trong văn bản. Từ đó nhận xét về nghệ thuật viết phóng sự của tác giả (sử dụng ngôi kể, điểm nhìn, thủ pháp miêu tả, trần thuật, cách sắp xếp sự kiện chi tiết, ngôn ngữ,..) trong việc thể hiện chủ đề, tư tưởng, thông điệp của văn bản. (1.0 điểm)

Câu 3. Qua văn bản Một đám vào ngôi, tác giả đã nêu vấn đề gì? Thái độ của tác giả trước vấn đề đó như thế nào? (1.0 điểm)

........................

Mời bạn đọc cùng tải về bản ZIP để xem đầy đủ nội dung

Chọn file muốn tải về:

Có thể bạn quan tâm

Xác thực tài khoản!

Theo Nghị định 147/2024/ND-CP, bạn cần xác thực tài khoản trước khi sử dụng tính năng này. Chúng tôi sẽ gửi mã xác thực qua SMS hoặc Zalo tới số điện thoại mà bạn nhập dưới đây:

Số điện thoại chưa đúng định dạng!
Số điện thoại này đã được xác thực!
Bạn có thể dùng Sđt này đăng nhập tại đây!
Lỗi gửi SMS, liên hệ Admin
Sắp xếp theo
🖼️

Đề thi học kì 1 lớp 12

Xem thêm
🖼️

Gợi ý cho bạn

Xem thêm
Hỗ trợ Zalo