Phân tích, đánh giá Bảo kính cảnh giới (bài số 43) - Nguyễn Trãi
Phân tích, đánh giá tác phẩm Bảo kính cảnh giới (bài số 43) - Nguyễn Trãi (Ngữ văn 10, tập 2)
VnDoc.com xin gửi tới các bạn bài viết Phân tích, đánh giá tác phẩm Bảo kính cảnh giới - bài số 43 (Nguyễn Trãi). Mời các bạn cùng tham khảo.
Bản quyền tài liệu thuộc về VnDoc, nghiêm cấm hành vi sao chép với mục đích thương mại.
I. Dàn ý phân tích Bảo kính cảnh giới
1. Mở bài:
- Giới thiệu tác giả, tác phẩm.
2. Thân bài:
2.1. Bức tranh thiên nhiên ngày hè:
* Bức tranh thiên nhiên tươi đẹp, rực rỡ:
- Hình ảnh: "hòe lục", "thạch lựu hiên", "hồng liên trì" => hình ảnh gắn liền với cuộc sống thường ngày, giản dị, mộc mạc.
- Động từ "đùn", "phun" thể hiện:
+ "đùn đùn": diễn tả sự phát triển mạnh mẽ của những tán hòe => gợi ra hình ảnh những tán hòe xòe rộng, không ngừng vươn mình, tỏa rộng, bao phủ một không gian lớn.
+ "phun": sức sống mạnh mẽ, tràn đầy nhựa sống của hoa lựu => hình ảnh hoa lựu đỏ rực trước hiên nhà, đang liên tiếp bung nở nơi đầu cành lá.
- "Hồng liên trì đã tịn mùi hương": sen hồng trong ao nhà đã tỏa ngát hương thơm => hương thơm dịu nhẹ, thanh khiết.
* Bức tranh ngày hè sống động, rộn ràng: nhà thơ sử dụng biện pháp đảo ngữ cùng hệ thống từ láy tượng thanh để miêu tả âm thanh cuộc sống:
- Từ láy "lao xao": thanh âm xôn xao từ chợ cá vọng lại.
- "Dắng dỏi": tiếng kêu liên tục, không dứt, "cầm ve": âm thanh sôi nổi, vui vẻ của đàn ve giống như tiếng đàn.
2.2. Tâm trạng của nhân vật trữ tình.
- "Lẽ có" nghĩa là lẽ nên có, mong được có.
- "Ngu cầm": điển cố về vua Ngu Thuấn.
-> Ước mơ có cây đàn của vua Thuấn để gảy lên khúc "Nam Phong" -> thể hiện khát vọng được đem đến cuộc sống thanh bình, hạnh phúc cho nhân dân.
- "Dân giàu đủ khắp đòi phương": hi vọng dân chúng ở khắp mọi nơi đều sống êm ấm, đủ đầy.
=> Cốt cách cao cả của người anh hùng Nguyễn Trãi.
2.3. Đặc sắc nghệ thuật:
- Ngôn ngữ mộc mạc, dân dã; hình ảnh đời thường quen thuộc.
- Hình thức thơ lục ngôn xen lẫn thất ngôn.
- Biện pháp đảo ngữ cùng hệ thống từ láy "lao xao", "dắng dỏi" và các động từ mạnh "đùn đùn", "phun".
3. Kết bài:
- Khẳng định giá trị bài thơ.
II. Văn mẫu phân tích Bảo kính cảnh giới
1. Phân tích Bảo kính cảnh giới mẫu 1
Nguyễn Trãi là một tác giả lớn, những tác phẩm của ông chất chứa giá trị nhân nghĩa, tình yêu thiên nhiên cùng những cảm hứng về thế sự. Nói về tình yêu thiên nhiên, “Bảo kính cảnh giới” (bài số 43) được coi là một bài thơ thể hiện cảm xúc mãnh liệt của ông về cảnh vật nhưng hàm chứa bên trong là những cảm hứng thế sự sâu sắc.
“Bảo kính cảnh giới” là chùm thơ được rút ra từ tập Quốc âm thi tập bao gồm có 61 bài thơ trong tổng số 254 bài. Bố cục bài thơ số 43 gồm có 2 phần, phần 1 gồm 6 câu đầu nói về vẻ đẹp bức tranh ngày hè, phần 2 gồm 2 câu cuối thể hiện niềm tha thiết lớn của nhà thơ với đời. Bảo kính cảnh giới được viết theo thể loại thơ Nôm Đường luật. Tức là viết bằng chữ Nôm và thể Đường luật. Đây được xem là một lối thơ riêng do tác giả trung đại Việt Nam sáng tác dựa trên thể loại thơ Đường luật.
Những dòng thơ đầu thể hiện phong thái ung dung tự tại của chủ thể trữ tình:
“Rồi hóng mát thưở ngày trường”
“Rồi” tức là rảnh rỗi, thư thái, “ngày trường” là ngày dài. Nhịp thơ bất thường 1/2/3 tạo giọng điệu chậm rãi thong thả kết hợp với từ “rồi” nhấn mạnh thời gian tác giả thảnh thơi, nhàn nhã, đang dạo bước thưởng ngoạn phong cảnh. Đó là những khoảnh khắc hiếm thấy trong cuộc đời Nguyễn Trãi.
Bức tranh ngày hè được tác gia miêu tả đầy sinh động, tràn trề nhựa sống:
“Hòe lục đùn đùn tán rợp trương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tịn mùi hương”
Màu xanh của hòe, màu đỏ của lựu, màu hồng của sen, màu vàng của nắng... tạo nên bức tranh ngày hè tươi tắn, đầy màu sắc. Trạng thái sự vật được miêu tả bằng các từ láy giàu sức gợi hình: đùn đùn, giương, phun, tiễn... Cây hòe “đùn đùn tán rợp giương” - sức sống như từ bên trong hối hả trào ra bên ngoài, khiến tán cây vươn ra mạnh mẽ, che rợp cả không gian. Hoa lựu “phun thức đỏ” - động từ “phun” khiến màu đỏ như tạo thành dòng tuôn chảy, tô đậm thêm sắc đỏ của hoa. Những đóa sen đã tàn, hết mùi hương. Ngắt nhịp ¾ gây ấn tượng cùng sự chú ý cho người đọc làm nổi bật cảnh vật buổi chiều hè.
Bức tranh ngày hè không chỉ được miêu tả bằng những hình ảnh màu sắc mà còn có cả âm thanh vô cùng sôi động và quen thuộc - tiếng chợ cá “lao xao” vọng lại cùng với tiếng ve inh ỏi lúc mặt trời sắp lặn như tiếng đàn:
“Lao xao chợ cá làng ngư phủ
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương."
Những âm thanh sôi động, dân dã ấy gắn liền với cuộc sống đời thường của nhân dân. Nghệ thuật đảo ngữ đảo các tính từ, từ láy lên đầu nhằm nhấn mạnh không khí rộn rã, tươi vui trong đời sống người lao động. Dù thời gian “lầu tịch dương” là khi cuối ngày, mặt trời sắp lặn nhưng sự sống dường như không dừng lại.
Bức tranh ngày hè được miêu tả từ gần tới xa, có sự kết hợp hài hòa giữa đường nét, màu sắc, âm thanh; giữa con người và cảnh vật trở nên vô cùng rực rỡ, sinh động, tràn trề sức sống. Tất cả đều gần gũi, bình dị, tĩnh ở bên ngoài mà tràn đầy, căng tràn nhựa sống từ bên trong. Tác giả đã huy động mọi giác quan để cảm nhận về sự thay đổi của thiên nhiên từ thị giác, thính giác đến khứu giác. Qua đó, những dòng thơ đã thể hiện sự giao cảm mạnh mẽ và tinh tế của nhà thơ với cảnh vật cũng như tình yêu thiên nhiên và yêu cuộc sống tha thiết của tác gia.
Hai câu thơ cuối là niềm mong ước, khát vọng của nhà thơ: có cây đàn của vua Thuấn. Tác gia sử dụng điển cố “Ngu cầm” (cây đàn của Vua Ngu Thuấn) để gảy 1 khúc Nam Phong. Mỗi khi cây đàn ấy gảy khúc Nam Phong thì mưa thuận gió hòa, nhân dân làm ăn sung túc, no đủ. Lấy vua Nghêu, Thuấn làm “gương báu răn mình”, Nguyễn Trãi đã thể hiện khát khao, chí hướng cao cả là mang đến cuộc sống ấm no hạnh phúc cho nhân dân khắp mọi nơi. Đó là khát vọng cao đẹp thể hiện tấm lòng suốt đời vì dân vì nước. “Dân giàu đủ khắp đòi phương” - Cách ngắt nhịp 3/3 thể hiện sự dồn nén cảm xúc của cả bài đó thể hiện niềm khát vọng mong mỏi da diết cuộc sống thanh bình hạnh phúc.Hai câu lục ngôn xuất hiện ở phần đề và kết bài góp phần nhấn mạnh nội dung cần biêu đạt đồng thời góp phần tạo nhịp điệu cho bài thơ.
Bài thơ là bức tranh thiên nhiên cảnh vật ngày hè đầy màu sắc và âm thanh sống động. Ở phần đầu bài thơ, người đọc tưởng như tác giả đang đắm say với thiên nhiên, cảnh vật nhưng đến cuối bài lại bộc lộ niềm thương yêu và nỗi lo đau đáu cho nhân dân. Đây chính là biểu hiện của một trái tim lớn, một nhân cách cao cả, thân nhàn mà tâm không nhàn.
“Bảo kính cảnh giới” - bài số 43 đã được nhà thơ sử dụng một cách sáng tạo thể thơ Đường luật với sự đan xen của câu sáu chữ và câu bảy chữ. Ngôn ngữ thơ giản dị, trong sáng, gần gũi với khẩu ngữ (lời ăn tiếng nói hàng ngày của nhân dân) nhưng lại rất giàu cảm xúc và giàu sức gợi. Đồng thời, nhà thơ vận dụng bút pháp tả cảnh ngụ tình đặc trưng của văn học trung đại: Miêu tả thiên nhiên, đất trời và cảnh đời sống sinh hoạt của con người để qua đó bộc lộ một cách kín đáo tâm tư, tình cảm, nỗi lòng của mình về con người, về cuộc đời.
Tư tưởng lớn xuyên suốt sự nghiệp của Nguyễn Trãi: tư tưởng nhân nghĩa, yêu thương, thương dân đã được thể hiện qua những rung động trữ tình dạt dào trước cảnh thiên nhiên ngày hè. Thông qua bài thơ, ta càng cảm nhận sâu sắc hơn tấm lòng vì nước, vì dân của người anh hùng cứu quốc thuở “bình Ngô", danh nhân văn hóa Đại Việt.
2. Phân tích Bảo kính cảnh giới mẫu 2
"Quốc Âm thi tập" - Nguyễn Trãi được coi là đỉnh cao của thơ Nôm Đường luật, mang đến nhiều đóng góp nổi bật cho nền thơ ca trung đại. Hầu hết, những sáng tác thuộc tập thơ này đều hướng tới chủ đề quen thuộc như: tình cảm đời thường, tình yêu thiên nhiên hay tấm lòng yêu nước, thương dân. Nổi bật trong số 254 bài của tập thơ, chúng ta không thể bỏ qua thi phẩm "Bảo kính cảnh giới" (bài 43). Với những đặc sắc về nội dung và độc đáo về hình thức nghệ thuật, bài thơ đã để lại ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc.
Nguyễn Trãi vốn là một nhà quân sự, chính trị, ngoại giao. Ông dành cả một đời canh cánh nỗi lo việc nước, vì thế, thời khắc tìm về thiên nhiên chính là giây phút thư nhàn hiếm hoi. Câu thơ mở đầu đã gợi ra hoàn cảnh của thi nhân:
"Rồi hóng mát thuở ngày trường."
Câu thơ là sự phá cách táo bạo ít thấy trong thơ thất ngôn bát cú Đường luật. Phần đề hai câu nhưng chỉ có một câu là lục ngôn. Nhịp điệu thong thả với cách ngắt nhịp 1/2/3 đã gợi lên phong thái thư thái, an nhàn của con người. Từ "rồi" được đặt ở đầu câu nhấn mạnh vào hoàn cảnh sống rỗi rãi, thảnh thơi. Như vậy, trong thời khắc nhàn rỗi ấy, thi sĩ tìm về với thú vui tao nhã của các Nho sĩ khi xưa: "hóng mát thuở ngày trường".
Nhàn nhã ngồi ngắm cảnh, Nguyễn Trãi không khỏi rung động, xao xuyến trước bức tranh ngày hè đẹp đẽ, tươi tắn:
"Hòe lục đùn đùn tán rợp trương.
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ.
Hồng liên trì đã tịn mùi hương"
Không còn là hình ảnh mang tính ước lệ, tượng trưng "tùng, cúc, trúc, mai" như trong thơ cổ, Nguyễn Trãi miêu tả khung cảnh thiên nhiên bằng các hình ảnh hết sức bình dị, gần gũi. Trước hết, đó là cây hòe có hoa vàng, lá xanh đang ở độ tràn đầy sức sống. Nhà thơ cảm nhận thấy sự vận động âm thầm, mãnh liệt của cây và thể hiện điều đó qua động từ "đùn đùn". Những tán hòe không ngừng vươn mình, tạo nên tầng tầng lớp lớp, che rợp mặt đất. Cụm từ "tán rợp trương" đã gợi ra một không gian rộng lớn được bao phủ bởi sắc xanh thẫm, tươi mát của tán hòe. Tiếp đến, nhà thơ khéo léo khắc họa hình ảnh cây lựu trước hiên nhà. Bằng quan sát tinh tế, Nguyễn Trãi đã bắt trúng được thần thái riêng có của hoa lựu mùa hè. Động từ "phun" diễn tả sự sống căng tràn, không thể kìm lại của hoa. Những bông hoa đỏ rực liên tục bung nở. Bức tranh càng thêm đằm thắm, tươi đẹp nhờ sự điểm tô của sen hồng. Ngoài ao, sen đã nở rộ và tỏa ngát hương thơm. Vạn vật như đắm mình trong mùi hương dịu nhẹ, thuần khiết của loài hoa thanh cao.
Như vậy, thiên nhiên không chỉ được gợi nên từ những hình ảnh, màu sắc rực rỡ mà còn được khắc họa qua sức sống cuộn trào bên trong mỗi cảnh vật. Bức tranh ngày hè càng thêm rộn ràng nhờ bản hòa tấu âm thanh:
"Lao xao chợ cá làng ngư phủ;
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương."
Phía xa, tiếng "lao xao" của phiên chợ ở làng nghề chài lưới như vọng tới tâm hồn thi nhân. Từ láy tượng thanh "lao xao" gợi tả âm thanh rộn rã và bầu không khí tấp nập, đông vui của người dân. Trong buổi chiều tà, đàn ve cũng dạo lên bản nhạc "cầm ve". Nhà thơ tiếp tục sử dụng nghệ thuật đảo trật tự ngữ pháp cùng từ láy "dắng dỏi" để làm nổi bật thanh âm inh ỏi, trong, cao của tiếng ve. Từ đây, bức tranh thiên nhiên đã có sự hòa hợp giữa sắc màu, hình ảnh và âm thanh.
Đến với hai câu thơ cuối, ta lại thấy được tấm lòng cao cả của thi sĩ:
"Lẽ có Ngu cầm đàn một tiếng,
Dân giàu đủ khắp đòi phương."
"Lẽ có" nghĩa là lẽ nên có, mong được có. Đặt từ này ở đầu câu thơ kết hợp với điển tích "Ngu cầm", Ức Trai kín đáo thể hiện ước mơ về cuộc sống thái bình, ấm no. Ông ao ước có cây đàn của vua Ngu Thuấn, từ đó gẩy lên khúc Nam Phong để "dân ta bớt ưu phiền", "dân ta ngày thêm nhiều của cải". Câu thơ cuối với 6 tiếng ngắn gọn chính là bao tâm tư, cảm xúc dồn nén của nhà thơ. Ông tha thiết hi vọng quần chúng nhân dân ở khắp nơi đều sống êm ấm, hạnh phúc. Tưởng như tâm hồn thi sĩ chỉ lắng đọng trong cảnh sắc thiên nhiên mà không phải vậy. Sau tất cả, tấm lòng cao đẹp ấy vẫn hướng về dân tộc, đất nước. Từ đây, ta càng thêm kính phục, ngưỡng mộ người anh hùng "trung quân ái quốc", thấu hiểu thế sự, có tư tưởng tiến bộ "thân dân", "lấy dân làm gốc".
Bên cạnh chủ đề đặc sắc, bài thơ còn gây ấn tượng với độc giả bởi hình thức nghệ thuật độc đáo. Trước hết, bằng ngôn ngữ mộc mạc, dân dã, hình ảnh đời thường quen thuộc cùng hình thức thơ lục ngôn xen lẫn thất ngôn, nhà thơ đã sáng tạo nên một tác phẩm mang đặc trưng của "lối thơ Việt Nam" (Đặng Thai Mai). Biện pháp đảo ngữ cùng hệ thống từ láy "lao xao", "dắng dỏi" và các động từ mạnh "đùn đùn", "phun" cũng góp phần tô đậm vẻ đẹp cảnh sắc thiên nhiên, cuộc sống.
"Bảo kính cảnh giới" (bài 43) đã vẽ nên một bức tranh ngày hè tươi tắn, rạng ngời, đậm đà hồn quê Việt. Qua bài thơ, Nguyễn Trãi cũng khéo léo bộc lộ tấm lòng, tình yêu thiên nhiên cuộc sống và đất nước tha thiết. Theo thời gian, những giá trị, ý nghĩa nhân văn của tác phẩm sẽ luôn tỏa sáng và khắc sâu trong tâm trí bạn đọc.
3. Phân tích Bảo kính cảnh giới mẫu 3
Nguyễn Trãi là bậc vĩ nhân của đất nước ta. Trong con người ông vừa có sự chí khí, hào sảng của một bậc đại anh hùng vì dân vì nước vừa có tâm hồn lãng mạn của một thi nhân. Hai điều ấy kết hợp lại góp phần tạo nên một giọng thơ rất riêng ở Nguyễn Trãi: vừa thấm đượm chất trữ tình và cũng đau đáu nỗi lo việc nước. Ở "Bảo kính cảnh giới", bài 43 ta sẽ thấy rõ điều đó.
"Bảo kính cảnh giới" có nghĩa là "gương báu răn mình". Đây là một chùm thơ được rút ra từ tập thơ chữ Nôm nổi tiếng mang tên "Quốc âm thi tập". Ở bài thơ số 43 này, tác giả đã miêu tả khung cảnh ngày hè tươi đẹp, rực rỡ và lòng yêu nước thương dân của mình.
Ở ngay câu thơ đầu tiên, Nguyễn Trãi đã cho người đọc thấy được tâm thế của mình "Rồi hóng mát thuở ngày trường". Trạng thái "hóng mát" ung dung, tự tại cho thấy người thi sĩ đang có cuộc sống nhàn nhã, hạnh phúc. Nguyễn Trãi đã dành cả cuộc đời để lo cho đất nước, giờ đây, ông đang tận hưởng những giây phút hiếm hoi cho riêng bản thân mình, ngắm cảnh thiên nhiên mùa hè rực rỡ:
"Hòe lục đùn đùn tán rợp trương.
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ.
Hồng liên trì đã tịn mùi hương."
Tác giả bắt gặp không khí mùa hè ở cây hòe trước nhất. Cây hòe to lớn, xòe những tán lá rộng, xanh biếc. Động từ "đùn đùn" thường dùng để chỉ sự vận động to ra, cao hơn đã được nhà thơ gán cho cây hòe khiến ta cảm giác như những tán cây đang vươn lên, ngày một to ra che kín ánh mặt trời. Màu xanh của cây hòe ở câu trước được tác giả đặt cạnh màu đỏ của cây lựu khiến cho hai câu thơ tràn đầy sắc màu. Hoa lựu không những trổ bông xinh đẹp mà còn "phun" thức đỏ. Từ "phun" ấy khiến ta cảm giác sắc đỏ trên cây càng lúc càng nên đậm đà, rõ nét hơn. Những bông hoa lựu rực rỡ, căng tràn sức sống khiến cho mùa hè càng thêm kiều diễm, chói mắt. Ở một góc khác của bức tranh, tuy không rực rỡ bằng xanh, đỏ nhưng có sắc hồng của "hồng liên trì" lại rất đỗi dịu mắt, nhẹ nhàng. Bông hoa sen trong ao tỏa hương thơm ngát tràn khắp không gian. Vậy là bức tranh mùa hè của Nguyễn Trãi đã có đầy đủ màu sắc và hương thơm. Trong hai câu thơ tiếp theo, Nguyễn Trãi viết:
"Lao xao chợ cá làng ngư phủ;
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương."
Hai câu thơ này đã cho ta thấy bức tranh ngày hè sống động, rộn ràng. Nhà thơ đã sử dụng từ "lao xao" - một từ láy tượng thanh để diễn tả âm thanh từ chợ cá vọng lại. Đây là tiếng nói cười xôn xao, vui tươi của con người đang lao động. Tác giả lắng nghe những thanh âm của cuộc sống thường nhật như nghe thấy tiếng nói hạnh phúc của người dân. Ngoài tiếng nói của con người, thi nhân còn cảm nhận được tiếng ve đặc trưng của mùa hè. Tiếng "dắng dỏi" kêu liên tục không dứt như bản nhạc sôi nổi, vui vẻ của lũ ve khiến lòng người cũng tưng bừng, rộn rã.
Trong buổi hoàng hôn, con người thường chất chứa nhiều nỗi tâm sự. Thi sĩ cũng vậy, khi cảnh ngày hè dần tàn, ánh tịch dương buông xuống, ông đã nói ra tâm trạng của mình:
"Lẽ có Ngu cầm đàn một tiếng,
Dân giàu đủ khắp đòi phương."
Ở đây, tác giả đã mong ước có được "Ngu cầm" - cây đàn của vua Thuấn để gảy nên khúc nhạc Nam phong, khúc nhạc giúp cho nhân dân bớt ưu phiền và có thêm nhiều của cải. Tiếng lòng của Nguyễn Trãi có thể hiểu là khát vọng tất cả mọi người dân đều được hưởng cuộc sống thanh bình, hạnh phúc, đủ đầy. Điều này cũng được thể hiện rõ trong câu thơ cuối "Dân giàu đủ khắp đòi phương". Đây là ước muốn phi thường, chứng tỏ tấm lòng yêu nước, thương dân của người anh hùng Nguyễn Trãi.
Nghệ thuật đặc sắc của bài thơ thứ 43 trong chùm thơ "Bảo kính cảnh giới" này cũng là điều không thể không nhắc đến. Tác giả đã sử dụng các câu thơ thất ngôn xen lẫn lục ngôn để làm nên sự khác biệt ở bài thơ này. Ngoài ra, những từ láy tượng hình, tượng thanh, các động từ cũng được đặt rất đúng chỗ nhằm vẽ lên bức tranh ngày hè sống động, rực rỡ sắc màu.
"Bảo kính cảnh giới", bài số 43 là một sáng tác rất độc đáo thể hiện lối viết đặc trưng của Nguyễn Trãi. Đây không chỉ là bài thơ tả cảnh mùa hè tràn đầy sức sống mà còn nói lên niềm ao ước của con người trung quân ái quốc về cuộc sống hạnh phúc của muôn dân.
4. Phân tích Bảo kính cảnh giới mẫu 4
Nguyễn Trãi là đại thi hào dân tộc, là danh nhân văn hóa của Đại Việt, đồng thời ông còn là tác giả áng thiên cổ hùng văn "Bình ngô đại cáo". Ngoài ngòi bút sắc bén, lập luận đanh thép với dẫn chứng thuyết phục trong những áng văn chính luận, ta còn bắt gặp một Nguyễn Trãi với phong thái nhàn tản, giao cảm hòa hợp cùng thiên nhiên trong "Bảo kính cảnh giới 43". Không chỉ mang chất trữ tình sâu sắc, bài thơ chứa đựng cả nội dung mang tính giáo huấn người đời, ngời sáng tâm hồn lí tưởng của bậc thi sĩ lớn Ức Trai.
Trước hết, bài thơ thể hiện tình yêu cũng như tâm hồn tinh tế và sự giao cảm mạnh mẽ đối với thiên nhiên của tác giả Nguyễn Trãi. Nhân vật trữ tình xuất hiện trong phong thái ung dung tự tại: "Rồi hóng mát thuở ngày trường". Như chúng ta đã biết, Nguyễn Trãi là nhà thơ nặng lòng với thiên nhiên và luôn mở lòng với thiên nhiên trong mọi hoàn cảnh, nhưng khoảnh khắc rảnh rỗi vào một ngày khí trời mát mẻ, trong lành thì quả là hiếm hoi. Nếu người xưa thường thiên về vịnh cảnh thì Nguyễn Trãi lại vận dụng bút pháp tả. Và rồi bằng sự quan sát tinh tế của nhân vật trữ tình, bức tranh thiên nhiên đầy sức sống đã hiện lên:
"Rồi hóng mát thuở ngày trường
Hòe lục đùn đùn tán rợp giương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương"
Những sắc màu của cảnh vật hiện lên trong sự giao hòa: Màu lục của lá hòe cùng màu đỏ của hoa thạch lựu đan cài vào nhau trong ánh mặt trời buổi chiều. Đặc biệt hơn, cảnh vật được miêu tả trong sự chuyển động tạo nên một bức tranh căng tràn sức sống. Tác giả đã sử dụng những động từ mạnh: "đùn đùn", "trương", "phun" gợi nên sự tràn đầy và sức sống từ nội tại đang ứa căng và không kìm lại được và phải bộc phát ra bên ngoài. Đại thi hào Nguyễn Du cũng đã từng miêu tả cảnh sắc mùa hè bằng sắc hoa lựu: "Đầu tường lửa lựu lập lòe đơm bông" (trích "Truyện Kiều"). Với từ "lập lòe", tác giả Nguyễn Du đã tạo nên sự độc đáo trong việc tạo hình sắc, còn Nguyễn Trãi lại nhấn mạnh sức sống của cảnh vật, thể hiện rõ cái nhìn tinh tế đối với cảnh vật của hai thi sĩ tài ba. Thi nhân đã vận dụng nhiều giác quan: thị giác, thính giác và khứu giác kết hợp cùng trí tưởng tượng phong phú để đón nhận vẻ đẹp của thiên nhiên, cho thấy sự giao cảm mạnh mẽ nhưng vô cùng tinh tế của Ức Trai đối với cảnh vật.
Không chỉ dừng lại ở đó, bên cạnh màu sắc tác giả còn tô điểm cho bức tranh thiên nhiên âm thanh, đường nét hệt như một người họa sĩ tài ba tạo nên một kiệt tác có hồn của tạo vật. "Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ" với sự kết hợp của động từ "phun" và "thức"- màu vẻ, dáng vẻ, câu thơ đã diễn tả thành công cái hồn và thần thái của cảnh vật. Cảnh vật mùa hè còn được miêu tả qua hình ảnh rất đặc trưng: Đóa sen trong ao đã tỏa hương thơm ngát, tạo nên một bức tranh hài hòa về màu sắc và hương vị.
Bài thơ còn khắc họa bức chân dung của một con người luôn hết lòng vì dân, vì nước. Mặc dù đang hòa mình đắm say trong vẻ đẹp sinh động, đáng yêu và tràn trề sức sống của thiên nhiên nhưng tác giả vẫn hướng đôi mắt quan sát của mình đến cuộc sống của con người:
"Lao xao chợ cá làng ngư phủ
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương"
Bức tranh mùa hè được bổ sung thêm những nét vẽ về cuộc sống của con người với thanh âm của "lao xao" của chợ cá tại một làng chài ven sông cùng tiếng dắng dỏi của cầm ve. Cuộc sống yên vui, no đủ của người dân đã gợi lên trong lòng tác giả một mong ước hết sức cao đẹp:
"Dẽ có Ngu Cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ, khắp đòi phương"
Tác giả mong ước có được chiếc đàn của vua Thuấn để gảy nên khúc Nam Phong ca ngợi đời sống ấm no hạnh phúc của nhân dân. Câu thơ kết thúc bài được kiến tạo theo cách ngắt nhịp 3/3, thể hiện rõ sự rồn nén cảm xúc của bài thơ. Mở đầu bằng bức tranh thiên nhiên giàu hình ảnh, màu sắc, hình khối, đường nét nhưng kết thúc bằng câu thơ nói về con người cho thấy điểm kết mà tác giả muốn hướng đến không phải ở thiên nhiên tạo vật mà chính ở con người. Điều này đã thể hiện rõ tâm hồn hết sức cao cả và vĩ đại của Nguyễn Trãi- vị anh hùng dân tộc luôn mong muốn cho dân được ấm no, hạnh phúc.
Như vậy, thông qua bài thơ, chúng ta có thể thấy được tình yêu cùng sự giao hòa đối với thiên nhiên của tác giả, giống như ông đã từng bộc bạch: "Non nước cùng ta đã có duyên" ("Tự thán"- bài 4). Là một thi sĩ, ông đến với thiên nhiên trong mọi hoàn cảnh nhưng cuối cùng, tâm hồn của ông vẫn hướng đến nhân dân, đến đất nước. Qua lời tâm sự và mong ước về cuộc sống của nhân dân, độc giả có thể thấy được tâm hồn và lí tưởng cao đẹp của tác giả Nguyễn Trãi. Tình yêu thiên nhiên, tạo vật đã quyện hòa và làm ngời sáng hơn nữa tình yêu đối với đất nước, nhân dân.
5. Phân tích Bảo kính cảnh giới mẫu 5
Nguyễn Trãi là một danh nhân văn hóa lớn của dân tộc. Ông là người văn võ toàn tài, có cái tâm trong sáng, luôn sống ngay thẳng với phẩm cách trung thực, cao thượng. Nguyễn Trãi đã dành trọn cuộc đời mình để chiến đấu cho độc lập của dân tộc, cho sự bình yên, no ấm của nhân dân.
Cảnh ngày hè (Bảo kính cảnh giới) là một tác phẩm tiêu biểu trong tập Quốc âm thi tập - tập thơ Nôm đầu tiên trong lịch sử văn học viết Việt Nam. Bài thơ đã vẽ lên bức tranh thiên nhiên ngày hè rực rỡ và tâm hồn chan chứa tình yêu thiên nhiên, đất nước của thi nhân.
Bảo kính cảnh giới (Gương báu răn mình), thuộc phần Vô đề trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi. Bài thơ được làm theo thể thơ Đường luật thất ngôn xen lục ngôn. Những câu thơ trong Cảnh ngày hè có âm điệu du dương như những niềm vui nho nhỏ được Nguyễn Trãi chắt chiu trong cuộc đời vinh quang nhưng cũng đầy bi kịch của thi nhân. Bài thơ có thể chia thành hai phần: phần một (sáu câu thơ đầu) tái hiện cảnh ngày hè - cảnh thiên nhiên và bức tranh cuộc sống của con người; phần hai (hai câu thơ còn lại) thể hiện khát vọng cao đẹp và tầm vóc tư tưởng của Nguyễn Trãi.
Được tổ chức theo kết cấu của một bài thơ thất ngôn bát cú nhưng bài thơ Cảnh ngày hè lại được mở đầu bằng một câu thơ thất luật, ngắt nhịp 1/2/3 một cách tự do, tự nhiên như lời nói thường ngày:
Rồi hóng mát thuở ngày trường
Câu thơ thất luật với kết cấu đặc biệt vang lên như một lời kể vui vẻ, thoải mái về những giây phút rảnh rỗi hiếm hoi trong cuộc đời Nguyễn Trãi. Ông đã khởi đầu ngày mới bằng một tâm thế thư thái, an nhàn, tự do thưởng thức vẻ đẹp của thiên nhiên. Có lẽ đây là khoảng thời gian mà ông đã lui về ở ẩn, rũ sạch những xa hoa của chốn phồn hoa đô hội để sống giữa thiên nhiên. Lời thơ giản dị mà gợi lên được sự thanh thản trong tâm hồn thi nhân. Với tâm trạng ấy, bức tranh thiên nhiên ngày hè được tái hiện bằng những nét rực rỡ, tươi tắn và đầy sức sống:
Hòe lục đùn đùn tán rợp giương.
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ,
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương.
Bằng một cái nhìn trẻ trung, thi nhân đã lựa chọn những gam màu ấm và sáng để thể hiện khung cảnh thiên nhiên tươi tắn của ngày hè. Lựu đỏ, sen hồng là những gam màu nóng, khác hẳn với những sắc màu lạnh thường thấy của thơ ca trung đại. Dễ nhận thấy trong tứ thơ một bức tranh thiên nhiên tràn đầy sức sống. Tất cả mọi vật dường như đang trong tư thế trỗi dậy, muốn bộc lộ hết vẻ đẹp của mình. Cây hòe trước thềm khoe sắc với tán lá màu lục, cứ sinh sôi, nảy nở, sum suê “đùn đùn” lên mãi như muốn chiếm trọn không gian mà tỏa bóng; cây lựu bên hiên dồn hết sức của nhựa mầm non búp, bật nở ra những bông hoa đỏ rực rỡ; sen trong ao đã “tiễn” mùi hương - có nghĩa là đã ngát mùi hương - là sen đang ở độ đẹp nhất, lá xanh tươi, hoa thì tỏa hương thơm ngát, góp vào cái sức sống sôi động và mạnh mẽ của vạn vật để cùng phô diễn nhựa sông với cuộc đời. Có thể nói, qua bốn câu thơ đầu, Nguyễn Trãi đã vẽ nên một bức tranh ngày hè đẹp, tràn đầy sức sống và rực rỡ màu sắc. Cảnh thiên nhiên ở đây không tĩnh vắng như những bức tranh thiên nhiên thường thấy trong thơ trung đại, trái lại rất sống động. Nó khiến ta cảm nhận được sự cựa quậy, sinh sôi của sự sống trong từng đường nét, màu sắc. Chính điều đó đã mang lại vẻ đẹp riêng, không thể trộn lẫn của bức tranh thiên nhiên trong bài thơ này. Nó cũng thể hiện tâm trạng thư thái và tâm hồn nghệ sĩ đặc biệt tinh tế, nhạy cảm trước thiên nhiên của Nguyễn Trãi.
Ở hai câu thơ tiếp theo, bức tranh ngày hè đã trở nên trọn vẹn khi xuất hiện cảnh sinh hoạt của con người:
Lao xao chợ cá làng ngư phủ,
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương.
Để miêu tả bức tranh sinh hoạt của con người, thi nhân đã chọn lựa địa điểm nhìn là chợ. Trong văn học, chợ vốn là một không gian truyền thông biểu hiện nhịp điệu của sự sống con người. Nguyễn Trãi đã sử dụng âm thanh “lao xao” của phiên chợ cá làng chài để gợi về nhịp sống sôi động, no đủ của một miền quê trù phú. Từ láy tượng thanh “lao xao” còn cho ta thấy được cả không khí náo nức, tươi vui của người dân chài trong cuộc sống yên ả, thanh bình. Bức tranh cuộc sống con người còn được tái hiện bằng hình ảnh “lầu tịch dương”. Hình ảnh một căn lầu vắng trong buổi chiều tà, xét về cả thời gian và không gian đều gợi buồn. Vậy mà, chỉ cần thêm vào chi tiết “Dắng dỏi cầm ve”, nhà thơ đã xóa đi hoàn toàn nỗi buồn ấy. Trong buổi chiều vắng, tiếng ve ngân lên rộn rã như tiếng đàn đã trở thành lời ngợi ca cuộc sống no đủ, bình yên. Nguyễn Trãi đã từng trải qua chiến tranh loạn lạc nên lại càng thấm thía ý nghĩa của cuộc sống yên ấm, hòa bình trong hiện tại. Qua đó, người đọc thấy được Nguyễn Trãi trân trọng cuộc sống đó biết bao! Nhưng hình như ẩn sâu trong những âm thanh “lao xao” của phiên chợ cá từ xa vọng lại, tiếng cầm ve ngân lên trong buổi chiều tà vẫn thấp thoáng một chút nỗi niềm bâng khuâng trong tâm hồn nhạy cảm của thi nhân. Nỗi niềm ấy như có một chút gì khắc khoải, như là sự mong mỏi, ngóng vọng vào một hành động cụ thể, thể hiện khát vọng cao đẹp của Nguyễn Trãi:
Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng,
Dân giàu đủ khắp đòi phương.
Nguyễn Trãi ước mình có được cây đàn của vua Nghiêu Thuấn ngày trước để ca ngợi cuộc sống hôm nay. Khát vọng ấy không chỉ giới hạn ở một miền quê, một vùng đất mà nó hướng tới mọi con người, mọi miền quê trên thế gian này. Đó là khát vọng lớn nhất trong cuộc đời Nguyễn Trãi: mong ước sao cho muôn dân khắp bốn phương trời luôn được sống trong no đủ, thanh bình. Với niềm khao khát ấy, Cảnh ngày hè của Nguyễn Trãi đã có một cái kết thật bất ngờ. Hóa ra, Nguyễn Trãi không thực sự nhàn tâm để ngắm cảnh. Nỗi lo cho dân, cho nước vẫn luôn thường trực trong lòng thi nhân, đúng như lời tự bạch của nhà thơ:
Bui một tấc lòng ưu ái cũ
Đêm ngày cuồn cuộn nước triều Đông
Như thế, tinh thần chủ đạo trong Cảnh ngày hè không hoàn toàn là niềm vui rạo rực trước thiên nhiên, mà còn canh cánh một nỗi niềm thao thức muốn được khẳng định mình, muốn được đem hết sức lực, tâm huyết của mình ra để cống hiến cho dân, cho nước.
6. Phân tích Bảo kính cảnh giới mẫu 6
Nguyễn Trãi là một nhà văn, nhà thơ lớn của dân tộc song ông cũng là một nhà chính trị tài ba, lỗi lạc. Dưới thời nhà Lê ông là một vị hiền thần, đã có nhiều kế sách đúng đắn, sáng suốt giúp cho nhà Lê phát triển triều đình, ổn định phát triển cuộc sống của dân chúng. Tuy nhiên, vì bản lĩnh cứng cỏi, lại liêm khiết, quyết không chịu bắt tay với bọn nịnh thần nên Nguyễn Trãi đã trở thành đối tượng và chúng công kích và tìm mọi cách để hãm hại. Ông đã nhiều lần bị bắt vào ngục vì những trò tiểu nhân của chúng. Sau những thăng trầm chốn quan trường, ông đã quyết định từ chốn quan trường để trở về quê sống cuộc sống ẩn dật, giản dị của một Nho sĩ. Và ở quê nhà Côn Sơn, Chí Linh, Nguyễn Trãi đã cho ra đời rất nhiều những sáng tác hay, viết về cuộc sống dân dã nhưng đầy niềm vui và ý nghĩa. Bài thơ bảo kính cảnh giới số 43 cũng được sáng tác trong thời gian Nguyễn Trãi lui về ở ẩn đấy.
Bài thơ bảo kính cảnh giới số 43 viết về cuộc sống bình dị nơi thôn dã của Nguyễn Trãi, cũng thể hiện được tác phong ung dung, bình tĩnh, tự tại của nhà thơ trước những nhịp sống, nhịp vận động của thiên nhiên, đất trời. Bài thơ vừa thể hiện được những nét đẹp trong tâm hồn của nhà thơ, đó là một thi nhân đầy nhạy cảm với tình yêu thiên nhiên da diết. Song đó cũng là một con người nhập thế, bởi dù đã trở về ở ẩn nơi núi rừng Côn Sơn thì Nguyễn Trãi vẫn một lòng hướng về thế sự, một lòng mong mỏi người dân có cuộc sống bình yên, êm ấm, no đủ. Ở câu thơ đầu tiên, nhà thơ Nguyễn Trãi đã vẽ ra khung cảnh bình yên, tươi đẹp của cuộc sống dân dã, đồng thời cũng cho thấy được tâm trạng cũng như tư thế tự tại của nhà thơ trong khung cảnh tươi đẹp đó:
“Rồi hóng mát thuở ngày trường
Hòe lục đùn đùn tán rợp giương”
Ở trong hai câu thơ này phần nào đã hé mở bức tranh ngày hè đầy rực rỡ và tâm hồn đầy thư thái của thi nhân. Từ “rồi” mà Nguyễn Trãi sử dụng ở đây không phải từ chỉ thời gian sau này, không phải sự dự báo cuộc sống an nhàn, thảnh thơi của mình sau đó. Bởi lúc này thì Nguyễn Trãi đã từ quan, bỏ lại nơi bát nháo, thị phi của chốn quan trường mà trở về ở ẩn, sống dung dị với thiên nhiên, cuộc sống giản dị nơi thôn dã. Bởi vậy mà từ “rồi” ở đây ta có thể hiểu theo nghĩa là sự rảnh rỗi, thời gian đầy tự do mà không vướng phải những công chuyện trần thế, chỉ an tâm thưởng ngoạn khung cảnh của thiên nhiên.
“Rồi bóng mát thuở ngày trường” câu thơ đã thể hiện được tư thế đầy tự do, tự tại của nhà thơ Nguyễn Trãi khi đang an nhàn mà đón nhận “bóng mát” của những ngày thường, đó chính là sự tươi mát, dịu nhẹ nơi tâm hồn, khác hẳn với cái nóng nực, bức bối đầy khó chịu nơi thị thi như chốn quan trường. Câu thơ vừa thể hiện được những đặc điểm về thời tiết, đó là sự mát mẻ nơi núi rừng, song đó cũng chính là sự thanh mát nơi tâm hồn, khi nhà thơ không còn vướng bận chuyện chính sự. Trong cái không gian thoáng và mát mẻ ấy, nhà thơ có điều kiện quan sát những cảnh vật, sự sống xung quanh mình “Hòe lục đùn đùn tán rợp giương”.
“Hòe lục” là sắc xanh của những chiếc lá hòe. “Đùn đùn” vừa diễn tả được cái um tùm, xum xuê của tán lá, nhưng đồng thời cũng thể hiện được chiều vận động của những chiếc lá này. Trong sự quan sát và cảm nhận của nhà thơ Nguyễn Trãi thì những chiếc lá hòe này dường như đang bảo nhau mà đùn lên xanh tốt, bóng của cây hòe cũng phủ bóng râm cho cả một vùng không gian “Tán rợp giương”. Và màu sắc tươi mới, rực rỡ của ngày hè không chỉ dừng lại ở cái sắc xanh của lá, nó còn được điểm xuyết bởi sắc đỏ của những bông hoa thạch lựu, sự điểm xuyết này càng làm cho bức tranh ngày hè thêm tươi đẹp, tràn trề sức sống và thêm thu hút đối với cảm nhận về thị giác của độc giả:
“Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”
Ta có thể thấy, đây là những câu thơ đẹp nhất trong bài khi miêu tả về khung cảnh ngày hè đầy rực rỡ, tươi đẹp. “Thạch lựu” là một loại hoa thường nở vào những ngày hè, vì vậy mà nhắc đến hoa thạch lựu thì người ta hay liên tưởng đến những ngày hè đầy tươi đẹp. “Hiên” ở đây là từ chỉ địa điểm, hiên cũng tức là hiên nhà, xét ý nghĩa toàn câu thơ ta sẽ thấy được những bông hoa thạch lựu đỏ rực ngay trước hiên nhà. Cũng như câu thơ trên, nhà thơ Nguyễn Trãi đã sử dụng những động từ đầy sức biểu cảm, “phun” thể hiện sự lan tỏa, khuếch trương của sắc đỏ ấy trong không gian.
Trong cách mô tả này ta có thể cảm nhận được dường như sắc đỏ rực của những bông hoa thạch lựu không hề tồn tại cố hữu ở một địa điểm mà nó nở, mà có xu hướng làm lan tỏa màu sắc rực rỡ ấy vào không gian, vào tâm hồn người thi nhân, tạo ra những cảm giác vấn vương, rạo rực. “Hồng liên trì đã tiễn mùi hương”. Như vậy không chỉ có màu sắc xanh lục của lá hòa, sắc đỏ thắm của những bông hoa thạch lựu mà bức tranh ngày hè càng trở nên sống động và chân thực hơn nữa khi nhà thơ miêu tả hương thơm thoang thoảng của ao sẽ. Vẫn là những động từ dùng để chỉ sự vận động “tiễn” và đối tượng đó chính là hương sen. Chính việc sử dụng các động từ để chỉ sự vận động của cảnh sắc, mùi hương này đã đem đến cho người đọc những cảm nhận chân thực và sống động nhất khung cảnh ngày hè tươi đẹp mà nhà văn đã thể hiện qua bài thơ.
“Lao xao chợ cá làng ngư phủ
Dắng dỏi cầm vè lầu tịch dương”
Nhà thơ Nguyễn Trãi không chỉ đắm mình trong khung cảnh thiên nhiên đầy tươi đẹp mà ông còn vui với những niềm vui thuộc về cuộc sống lao động. Nếu ở những câu thơ trên nói về vẻ đẹp của cảnh sắc ngày hè thì đến câu thơ này, Nguyễn Trãi lại hướng đến vẻ đẹp của cuộc sống lao động của người dân. “Lao xao” diễn tả hành động khẩn trương, tấp nập, và cái đối tượng của sự tấp nập, huyên náo đó chính là “chợ cá làng ngư phủ, đây cũng là âm thanh đặc trưng của cuộc cuộc sống vui tươi, thanh bình. Ở hai câu thơ này nhà văn không chỉ gợi tả đến hình ảnh mà còn rất chú trọng đến âm thanh, đó chính là “Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”, đó chính là tiếng đàn được phát ra từ tự nhiên, “cầm ve” tiếng động, âm thanh của những tiếng ve. Đây cũng là âm thanh đặc trưng của ngày hè, làm cho bức tranh ngày hè thêm sinh động.
“Rẽ có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ khắp đòi phương”
Nếu như những câu thơ trên thể hiện được cảnh sắc của ngày hè thì hai câu thơ cuối cùng của bài thơ lại thể hiện được mong muốn, khát khao của nhà thơ về một cuộc sống đầy tươi đẹp của nhân dân. “Ngu cầm” là đàn của vua Nghiêu Thuấn, vị vua tài giỏi, nhân đức của Trung Hoa, dưới sự trị vì của ông thì dân chúng có cuộc sống no ấm, đủ đầy. Ở đây nhà thơ Nguyễn Trãi đã mượn điển tích ngu cầm để thể hiện mong ước về một cuộc sống, về một phép nghiệm màu làm cho nhân dân được yên ấm, hạnh phúc “Dân giàu đủ khắp đòi phương”, đó chính là mong ước đầy nhân văn của nhà thơ. Nhà thơ mong cho người dân khắp nơi đều có cuộc sống sung túc, đủ đầy, không còn cảnh lầm than, đói khổ.
Như vậy, qua bài thơ “Bảo kính cảnh giới” ta có thể cảm nhận được tâm hồn thanh bạch, tâm thế tự do tự tại của nhà thơ Nguyễn Trãi trước cảnh sắc ngày hè tươi đẹp nơi dân dã. Nhưng ta cũng thấy được nét đẹp trong tâm hồn của nhà thơ này, đó là dù có lui về ở ẩn thì tấm lòng nhân nghĩa của ông vẫn luôn hướng về nhân dân, đó là ước mơ đầy nhân văn, đầy con người khi mong mỏi cho người dân có một cuộc sống tốt đẹp.
7. Phân tích Bảo kính cảnh giới mẫu 7
Nguyễn Trãi – đại thi hào dân tộc, danh nhân văn hóa, một nhà tư tưởng vĩ đại của dân tộc. Ông đã để lại nhiều tác phẩm có giá trị trong đó có Quốc âm thi tập – Tập thơ Nôm sớm nhất hiện còn lưu giữ được – thể hiện vẻ đẹp tâm hồn tác giả và những sáng tạo trong nghệ thuật thơ Đường của Nguyễn Trãi. Tập thơ gồm 254 bài chia thành 53 chủ đề: Tự than, Bảo kính cảnh giới, Hoa mộc môn, … Riêng nhóm thơ Bảo kính cảnh giới có 61 bài chiếm vị trí quan trọng trong tập thơ. Điều đáng nói là thơ Bảo kính cảnh giới của Nguyễn Trãi không giáo huấn, khuyên răn triết lí. Đó là thơ đích thực, thể hiện tâm hồn thi sĩ. Bài thơ Bảo kính cảnh giới số 43 hay còn gọi là Cảnh ngày hè là một bài thơ tả cảnh ngụ tình, tình hòa trong cảnh, thể hiện đậm nét cuộc sống, tâm sự của tác giả. Bài thơ đã toát lên vẻ đẹp của hồn thơ Nguyễn Trãi:
“Rồi hóng mát thuở ngày trường,
Hoè lục đùn đùn tán rợp trương.
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ,
Hồng liên trì đã tịn mùi hương.
Lao xao chợ cá làng ngư phủ,
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương.
Lẽ có Ngu cầm đàn một tiếng,
Dân giàu đủ khắp đòi phương”.
Thiên nhiên vốn là mảnh đất vô cùng màu mỡ của biết bao thi nhân trung đại cày xới và cũng, là nguồn thi hứng không bao giờ vơi cạn Nguyễn Trãi. Nhà thơ sống giữa thiên nhiên, bầu bạn cùng thiên nhiên, và lấy từ thiên nhiên những bài học quý giá làm “gương báu răn mình” để rồi ghi lại trong tập thơ “Bảo kính cảnh giới”. Một nhân cách thanh cao “tỏa sáng tựa sao khuê”, một tấm lòng cao cả, vẫn luôn tha thiết với nhân dân, với đất nước dẫu trong tình cảnh ngặt nghèo bị nghi kị, dèm pha hay ngay cả khi có cuộc sống yên bình, nên thơ giữa thiên nhiên của Nguyễn Trãi đã đến với người đọc chính qua những vần thơ ấy. Tám câu thơ của “Cảnh ngày hè” đã góp thêm nét vẽ để bức chân dung tâm hồn của Ức Trai hiện lên rõ nét nhất. Sáu câu thơ đầu tiên trong bài là bức tranh thiên nhiên rực rỡ, tràn trề sự sống của mùa hè và một không khí náo nhiệt, rộn ràng của cuộc sống thường nhật vẫn đang tiếp diễn nơi thôn quê. Thế nhưng, sau bức tranh tràn trề nhựa sống ấy, hai câu thơ cuối bài thể hiện sâu sắc cho người đọc thấy được tấm lòng tha thiết với nhân dân, đất nước của Ức Trai.
Ở phần đầu của bài, với sáu câu thơ, tác giả đã cho chúng ta cảm nhận được sự giao cảm với thiên nhiên tạo vật của hồn thơ Ức Trai. Nguyễn Trãi là một nhà thơ yêu thiên nhiên. Với ông, thiên nhiên là anh em, là bầu bạn:
“Núi láng giềng chim bầu bạn
Mây khách khứa nguyệt anh tam
Tâm hồn nhà thơ luôn rộng mở đón nhận thiên nhiên trong mọi hoàn cảnh: thời chiến, thời bình, khi buồn, khi vui, lúc bận rộn hay khi thư nhàn:
Đêm thanh hớp nguyệt nghiêng chén
Ngày vắng xem hoa bợ cây
Ở bài thơ này, Nguyễn Trãi đón nhận thiên nhiên trong lúc:
Rồi hóng mát thuở ngày trường”.
Có ý kiến cho rằng, đó là thời bình, Nguyễn Trãi đang tham gia triều chính, dốc lòng phụng sự đất nước. Cũng có ý kiến cho rằng, lúc đó là khoảng 1438 – 1439 khi Nguyễn Trãi xin về trông coi chùa Tư Phúc ở Côn Sơn, thực tế là về ở ẩn, lánh xa bụi trần. Thế nhưng, dù là khoảng thời gian nào thì thời điểm được ghi lại trong thơ cũng là thời điểm hiếm hoi trong cuộc đời Nguyễn Trãi. Bởi vì “rồi” là rỗi rãi, “ngày trường” là ngày dài. Một ngày như thế trong đời Nguyễn Trãi đâu nhiều? Ông là người thân không nhàn mà dù thân có nhàn thì tâm cũng không nhàn. Tấc lòng ưu dân ái quốc trong ông “đêm ngày cuồn cuộn nước triều Đông”. “Một phút thanh nhàn trong thuở ấy” đối với Nguyễn Trãi đối với Nguyễn Trãi đáng quý biết bao. Thời gian rảnh rỗi, tâm hồn thư thái thảnh thơi, đất trời trong lành mát mẻ, … Thật hiếm hoi mới có được một hoàn cảnh lí tưởng đến thế để yêu say cảnh đẹp. Thi nhân xưa đến với thiên nhiên thường dùng bút pháp vịnh, nhưng ở đây Nguyễn Trãi lại thiên về bút pháp tả, không chỉ gợi lên khung cảnh, mà còn thể hiện cụ thể những thanh nha, an yên của cảnh vật ấy ra trước mắt người đọc. những câu thơ tiếp theo thực sự đã gợi lên trước mắt người đọc một bức tranh thiên nhiên mùa hè thật sinh động và giàu sức sống:
“Hoè lục đùn đùn tán rợp trương.
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ,
Hồng liên trì đã tịn mùi hương.
Lao xao chợ cá làng ngư phủ,
Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương”.
Tâm hồn Nguyễn Trãi như hòa cùng cảnh vật, nắm bắt lấy cái hồn của cảnh vật để làm nên sức sống tưng bừng của bức tranh mùa hè. Cây hoè xanh tốt đang xòe tán rộng. Động từ “đùn đùn” đảo lên trước cụm từ “tán rợp giương” gợi cảm giác màu xanh đậm (xanh lục) mở ra, tỏa rộng theo cả chiều cao (đùn đùn) lẫn chiều rộng (giường). Hoa thạch lựu bên hiên nhà đang “phun” thức đỏ. Động từ “phun” gợi tả những bông hoa lựu như đang nở to thêm nữa, đỏ thắm thêm nữa. Câu thơ gợi lên liên tưởng đến hình ảnh “đầu tường lửa lựu lập lòe đơm bông” của Nguyễn Du. Cùng cảnh tả mùa hè ta thấy hai thi sĩ tài ba đều có cái nhìn tinh tế. Với “lửa lựu lập lòe”, Nguyễn Du thiên về tạo hình gợi hình ảnh bông hoa rung rinh trước gió, lúc ẩn lúc hiện trong đám lá xanh như đốm lửa lúc sáng lúc tắt. Còn ở Cảnh ngày hè, với từ “phun” Nguyễn Trãi thiên về gợi sức sống. Màu đỏ của hoa lựu tuôn trào ra mạnh mẽ. Giữa màu xanh đậm của tán hòe và màu đỏ rực rỡ của hoa lựu là màu hồng bát ngát của áo sen dậy hương thơm “hồng liên trì đã tiễn mùi hương”. Không chỉ vậy, bức tranh ngày hè của Nguyễn Trãi còn được bổ sung thêm một gam màu ấm nóng nữa: màu vàng của ánh chiều tà lúc “tịch dương”. Trong không gian của buổi chiều mùa hè đầy sức sống ấy có những âm thanh “dắng dỏi” của tiếng ve – tiếng ve như tiếng đàn rộn rã và tiếng “lao xao” từ xa vọng lại. Ở đây “lao xao” là âm thanh của cuộc sống con người gợi sự đông đúc, nhộn nhịp của cảnh mua bán ở một chợ cá làng chài. Đó là âm thanh của cuộc sống no đủ, âm thanh được Nguyễn Trãi cảm nhận không chỉ bằng thính giác mà bằng cả tấm lòng hướng về cuộc sống. Bức tranh mùa hè sinh động được tạo nên bởi sự kết hợp hài hòa của đường nét, hình khối (đùn đùn, rợp giương, phun, …), của màu sắc (màu xanh lục của tán hòe, màu đỏ của hoa lựu, màu hồng của hoa sen, màu vàng của nắng chiều), của ánh sáng, của âm thanh (tiếng dắng dỏi của cầm ve, tiếng lao xao của chợ cá). Nhà thơ sử dụng các động từ mạnh cho thấy sức sống của cảnh vật và gợi tính chất của bức tranh. Không gian trong bức tranh mở rộng từ gần – hiên nhà đến xa – chợ cá. Nguyễn Trãi đã hòa màu sắc, âm thanh, đường nét theo quy luật của cái đẹp trong hội họa, âm nhạc làm cho bức tranh thiên nhiên trở nên có hồn, vừa gợi tả vừa sâu lắng. Cảnh sắc thiên nhiên trong cảm nhận và thể hiện của Nguyễn Trãi không phải trong trạng thái tĩnh mà ở trạng thái động, tất cả như đang cựa quậy, đang lan tỏa, đang vươn lên đầy sức sống nhưng cũng không hề thiếu sự tinh tế, hài hòa. Nếu so sánh với sự mộc mạc, thô nhám như trong câu thơ của tác giả thời Hồng Đức, thì quả thực chất thơ của Ức Trai “tình” hơn hẳn:
“Nước nồng sừng sực đầu rô trỗi
Ngày nắng chang chang lưỡi chó lè”.
Nguyễn Trãi đã cảm nhận thiên nhiên bằng tất cả các giác quan từ thị giác, thính giác đến khứu giác, nhưng hơn hết sự cảm nhận đó là bằng cả tâm hồn. Hồn thơ Nguyễn Trãi giao cảm mạnh mẽ và tinh tế của cảnh vật. Bức tranh ngày hè độc đáo và ấn tượng mà người người đọc đang thưởng thức ấy được tạo nên bởi tình yêu thương sâu sắc, bởi tâm hồn nhạy cảm và tài quan sát tinh tế của nhà thơ. Đồng thời cũng nhờ tài sử dụng ngôn ngữ, những từ tượng hình, tượng thanh, từ thuần Việt giàu sức gợi và liên tưởng đã được Nguyễn Trãi sắp xếp đầy tài tình trong những dòng thơ cô đọng và giàu sức gợi. Cội nguồn của bức tranh thiên nhiên sống động ấy chính là tấm lòng thiết tha yêu đời, yêu cuộc sống của tác giả. Cảnh vật thanh bình, yên vui bởi nhà thơ đang thanh thản. Âm thanh “lao xao chợ cá” dội tới từ phía làng chài phải chăng đang thể hiện niềm vui của tác giả trước cảnh làm ăn yên ấm của người dân? Và tiếng cầm ve “dắng dỏi” cất lên phải chăng là những rộn ràng trong lòng Nguyễn Trãi khi thấy nhân dân được no đủ? Nguyễn Trãi yêu thiên nhiên nhưng trước hết tấm lòng ông vẫn tha thiết với con người, với dân, với nước. Cuộc sống của người dân, đặc biệt là những người dân lao động (dân đen, con đỏ). Nguyễn Trãi ước:
“Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng
Dân giàu đủ khắp đòi phương”.
Nguyễn Trãi đã sử dụng một điển tích trong văn học Trung Quốc để nói lên mong ước của mình: Ngu cầm – đàn của vua Nghiêu vua Thuấn. Nguyễn Trãi mong có chiếc đàn của vua Nghiêu – Thuấn để nhân dân bốn phương được giàu có yên vui. Ta có thể hiểu nhìn dân giàu đủ Nguyễn Trãi mong có cây đàn của vua Thuấn để gảy khúc Nam Phong, ca ngợi cuộc sống của dân chúng khắp nơi đang được no ấm. Ta cũng có thể hiểu Nguyễn Trãi ước mong có một thời thái bình đời vua Nghiêu vua Thuấn để nhân dân được thực sự giàu đủ. Nhưng có lẽ với một người như Nguyễn Trãi, ta phải hiểu là ông mong gảy khúc Nam Phong của vua Thuấn để cho nhân dân giàu đủ khắp đòi phương – khắp mọi nơi. Đó là ước mong được hành động vì dân.
Câu kết của bài thơ là một câu thơ sáu chữ ngắn gọn, giọng thơ chắc nịch dồn nén cảm xúc của cả bài. Nguyễn Trãi nhắc đến “dân”. Điểm kết tụ của hồn thơ Ức Trai không phải là thiên nhiên tạo vật mà là ở con người. Lúc rảnh rỗi tưởng như hoàn toàn đắm mình trong thiên nhiên mà Nguyễn Trãi vẫn không nguôi nghĩ về nhân dân. Câu thơ kết đã thể hiện lý tưởng nhân nghĩa mà bao năm Nguyễn Trãi phấn đấu. Suốt cả cuộc đời ông chỉ có một ước mong: mong cho quốc thái dân an:
“Sách một hai phiên làm bầu bạn;
Rượu năm ba chén đổi công danh.
Ngoài chưng phần ấy cầu đâu nữa?
Cầu một ngồi coi đời thái bình”.
Bài thơ Cảnh ngày hè ra đời trong thời kỳ trung đại nhưng đã có những cách tân nghệ thuật so với thơ Đường luật: câu thơ thất ngôn xen lẫn lục ngôn, hình ảnh thơ gần gũi với đời thường, ít ước lệ tượng trưng, từ ngữ dân dã. Điều này khiến cho bài thơ thuộc nhóm Bảo kính cảnh giới không nặng tính giáo huấn mà giàu chất thơ, đồng thời cũng gần gũi với đời hơn rất nhiều.
Cảnh ngày hè đã toát lên vẻ đẹp của thơ Nguyễn Trãi: giao cảm tinh tế với thiên nhiên tạo vật, vui trước cuộc sống dân lành no đủ. Từ trong sâu thẳm hồn thơ ấy là khát vọng muốn được giúp đời giúp dân nhiều hơn nữa. Chính điều này đã đem lại ý nghĩa nhân văn sâu sắc cho ngòi bút Ức Trai – người có tấm lòng sáng tựa sao Khuê.