Giao diện mới của VnDoc Pro: Dễ sử dụng hơn - chỉ tập trung vào lớp bạn quan tâm. Vui lòng chọn lớp mà bạn quan tâm: Lưu và trải nghiệm

Cảm nhận về một bài thơ hoặc một nhà thơ

Bài văn mẫu lớp 10: Cảm nhận về một bài thơ hoặc một nhà thơ tổng hợp một số bài văn mẫu lớp 10 hay giúp các bạn học inh hoàn thành tốt bài viết số 1 lớp 10 đề 5. Mời các bạn tham khảo.

Đề 5: Cảm nghĩ về một bài thơ hoặc một nhà thơ.

- Hướng dẫn chung:

Cảm nghĩ về một bài thơ là cảm nghĩ về những nét độc đáo trong sáng tạo của người nghệ sĩ (nếu cảm nghĩ về một nhà thơ mà ta chưa gặp thì phải căn cứ vào bài giời thiệu tác giả của SGK hay những hiểu biết về tác giả qua sách, báo, tivi, để lập ý)

- Dưới đây là dàn ý cảm nghĩ về một bài thơ (Ví dụ bài thơ "Bạn đến chơi nhà"):

(A) Mở bài:

  • Giới thiệu bài thơ (tác giả, hoàn cảnh ra đời)
  • Cảm nhận chung về giá trị của bài thơ (một lối tư duy nghệ thuật độc đáo sắc sảo và một tình bạn tha thiết chân thành)

(B) Thân bài: Nêu cảm nghĩ

  • Bạn đến chơi nhà là một bài thơ hóm hỉnh và độc đáo:
    • Tuy hình thức giống như một bài thơ Đường luật nhưng bài thơ này có một cách kết cấu riêng (bảy câu trên là một ý và câu cuối cùng mang một ý).
    • Nhà thơ nói đến những thiếu thốn vật chất một cách hóm hỉnh, vui tươi (mọi thứ đều có những không dùng được). Khách nghe cách tiếp đón ấy lại thấy thích thú mà vẫn hài lòng.
  • Bạn đến chơi nhà là một bài thơ đề cao cái tình trong tình bạn.
    • Nói đến những thiếu thốn về vật chất là để khẳng định cái tình trong tình bạn.
    • Suốt cả bài thơ và nhất là câu thơ cuối như là một minh chứng đủ đầy về cuộc sống thanh bạch mà tình cảm thanh cao của nhà thơ.

(C) Kết bài:

  • Bài thơ là một nét đẹp tâm hồn của nhà thơ Nguyễn Khuyến.

I. Cảm nghĩ về bài thơ

1. Cảm nghĩ bài thơ Việt Bắc

Tố Hữu là người đại diện xuất sắc của thơ ca cách mạng Việt Nam và cũng là nhà thơ có phong cách riêng trong sáng tác. Tố Hữu có giọng thơ trữ tình đằm thắm, các sáng tác của ông luôn gắn liền với các chặng đường quan trọng của lịch sử dân tộc. Vì vậy, thơ Tố Hữu vừa đậm đà tính dân tộc nhưng không tách rời tính hiện đại.

Bài thơ Việt Bắc là đỉnh cao của thơ Tố Hữu và cũng là thành tựu xuất sắc của thơ ca kháng chiến chống Pháp. Bài thơ ra đời nhân một sự kiện lịch sử: tháng 10 năm 1954, những người kháng chiến rời căn cứ miền núi trở về miền xuôi. Từ điểm xuất phát ấy, bài thơ ngược về quá khứ để tưởng nhớ một thời cách mạng và kháng chiến gian khổ mà anh hùng, để nói lên nghĩa tình gắn bó thắm thiết với Việt Bắc, với Đảng và Bác Hồ, với đất nước và nhân dân - tất cả là nguồn sức mạnh tinh thần to lớn để dân tộc ta vững vàng bước tiếp trên con đường cách mạng. Nội dung ấy được thể hiện bằng hình thức đậm tính dân tộc. Bài thơ rất tiêu biểu cho phong cách thơ Tố Hữu.

Hoàn cảnh sáng tác tạo nên một sắc thái tâm trạng đặc biệt, đầy xúc động bâng khuâng: Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay. Đó là cuộc chia tay của những người từng sống gắn bó suốt mười lăm năm ấy, có biết bao kỉ niệm ân tình, từng sẻ chia mọi cay đắng ngọt bùi, nay cùng nhau gợi lại những hồi ức đẹp đẽ, khẳng định nghĩa tình thuỷ chung và hướng về tương lai tươi sáng. Chuyện ân tình cách mạng đã được Tố Hữu khéo léo thể hiện như tâm trạng của tình yêu lứa đôi.

Diễn biến tâm trạng như trong tình yêu lứa đôi được tổ chức theo lối đối đáp quen thuộc của ca dao, dân ca, bên hỏi, bên đáp, người bày tỏ tâm sự, người hô ứng, đồng vọng. Hỏi và đáp đều mở ra bao nhiêu kỉ niệm về một thời cách mạng và kháng chiến gian khổ mà anh hùng, mở ra bao nhiêu nỗi niềm nhớ thương. Thực ra, bên ngoài là đối đáp, còn bên trong là độc thoại, là sự biểu hiện tâm tư, tình cảm của chính nhà thơ, của những người tham gia kháng chiến.

Qua hồi tưởng của chủ thể trữ tình, cảnh và người Việt Bắc hiện lên thật đẹp. Nỗi nhớ thiết tha của người cán bộ sắp về xuôi đã khắc sâu thiên nhiên núi rừng Việt Bắc với vẻ đẹp vừa hiện thực, vừa thơ mộng, thi vị, gợi rõ những nét riêng biệt, độc đáo, khác hẳn những miền quê khác của đất nước. Chỉ những người đã từng sống Việt Bắc, coi Việt Bắc cũng là quê hương thân thiết của mình mới có nỗi nhớ thật da diết, những cảm nhận thật sâu sắc, thấm thía về ánh nắng ban chiều, ánh trăng buổi tối, những bản làng mờ trong sương sớm, những bếp lửa hồng trong đêm khuya, những núi rừng sông suối mang những cái tên thân thuộc - tất cả là khoảng thời gian và không gian lóng lánh kỷ niệm:

Nhớ gì như nhớ người yêu
...
Ngồi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy.

Nhưng có lẽ đẹp nhất trong nỗi nhớ về Việt Bắc là sự hòa quyện thắm thiết giữa cảnh với người, là ấn tượng không thể phai mờ về những người dân Việt Bắc cần cù trong lao động, thuỷ chung trong nghĩa tình:

Ta về, mình có nhớ ta
...
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung

Có thể thấy thiên nhiên Việt Bắc hiện lên với bao vẻ đẹp thật đa dạng, phong phú, sinh động, thay đổi theo từng thời tiết, từng mùa.

Gắn bó với từng khung cảnh ấy là hình ảnh những con người bình thường người đi làm nương rẫy, người đan nón, người hái măng. Bằng những việc làm tưởng chừng nhỏ bé của mình, họ đã góp phần tạo nên sức mạnh vĩ đại của cuộc kháng chiến. Chính nghĩa tình của nhân dân với cán bộ, bộ đội, sự đồng cảm và san sẻ, cùng chung mọi gian khổ và niềm vui, cùng gánh vác mọi nhiệm vụ nặng nề, khó khăn, tất cả càng làm Việt Bắc thêm ngời sáng trong tâm trí của nhà thơ. Việt Bắc - đó là hình ảnh những mái nhà “hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son”, là hình ảnh người mẹ trong cái “nắng cháy lưng - Địu con lên rẫy, bẻ từng bắp ngô”, là những tháng ngày đồng cam cộng khổ:

Thương nhau, chia củ sắn lùi
Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng,…

Có thể nói, âm hưởng trữ tình vang vọng suốt bài thơ đã tạo nên khúc ca ngọt ngào, đằm thắm của tình đồng chí, nghĩa đồng bào, của tình yêu thiên nhiên, yêu đất nước, yêu đời.

Theo dòng hồi tưởng của chủ thể trữ tình, bài thơ dẫn người đọc vào khung cảnh Việt Bắc chiến đấu với không gian núi rừng rộng lớn, những hoạt động tấp nập, những hình ảnh hào hùng, những âm thanh sôi nổi, dồn dập, náo nức. Cách mạng và kháng chiến đã xua tan vẻ âm u, hiu hắt của núi rừng, đồng thời khơi dậy sức sống mạnh mẽ của thiên nhiên và con người Việt Bắc. Bài thơ tràn đầy âm hưởng anh hùng ca, mang dáng vẻ một sử thi hiện đại, bởi vì chỉ cần phác họa khung cảnh hùng tráng ở Việt Bắc, Tố Hữu đã cho thấy khí thế vô cùng mạnh mẽ của cả một dân tộc đứng lên chiến đấu vì Tổ quốc độc lập, tự do:

Những đường Việt Bắc của ta
...
Đèn pha bật sáng như ngày mai lên.

Dân tộc ấy đã vượt qua bao thiếu thốn, gian khổ, hy sinh để lập nên những kì tích, những chiến công gắn với những địa danh: Phủ Thông, đèo Giàng, sông Lô, phố Ràng, Hoà Bình, Tây Bắc, Điện Biên. Nhưng Tố Hữu không chỉ miêu tả khí thế hào hùng của cuộc kháng chiến mà còn đi sâu lí giải những cội nguồn sức mạnh đã dẫn tới chiến thắng. Đó là sức mạnh của lòng căm thù: "Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai", sức mạnh của tình nghĩa thuỷ chung: "Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi", sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, của sự hòa quyện gắn bó giữa con người với thiên nhiên - tất cả tạo thành hình ảnh đất nước đứng lên:

Nhớ khi giặc đến giặc lùng
...
Đất trời ta cả chiến khu một lòng.

Đặc biệt, với những lời thơ trang trọng mà thiết tha, Tố Hữu đã nhấn mạnh, khẳng định Việt Bắc là quê hương của Cách mạng, là căn cứ địa vững chắc, là đầu não của cuộc kháng chiến, nơi hội tụ bao tình cảm, suy nghĩ, niềm tin và hy vọng của mọi người Việt Nam yêu nước. Trong những năm tháng đen tối trước Cách mạng, hình ảnh Việt Bắc hiện dần từ mờ xa (mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù) đến xác định như một chiến khu kiên cường, nơi nuôi dưỡng bao sức mạnh đấu tranh, nơi khai sinh những địa danh sẽ mãi mãi đi vào lịch sử dân tộc:

Mình về, còn nhớ núi non
...
Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa

Trong những ngày kháng chiến gian lao, Việt Bắc là nơi có Cụ Hồ sáng soi, có Trung ương, Chính phủ luận bàn việc công. Để khẳng định niềm tin yêu của cả nước với Việt Bắc, Tố Hữu lại dùng những vần thơ rất mộc mạc, giản dị mà thắm thiết nghĩa tình:

Ở đâu đau đớn giống nòi
...
Quê hương cách mạng dựng nên cộng hoà.

Nghệ thuật biểu hiện của bài thơ đậm đà tính dân tộc. Điểm đáng chú ý trước hết là Tố Hữu đã phát huy được nhiều thế mạnh của thể lục bát truyền thống. Cấu tứ của bài thơ là cấu tứ ca dao với hai nhân vật trữ tình là ta và mình, người ra đi và người ở lại hát đối đáp với nhau. Trong cuộc hát đối đáp chia tay lịch sử này, người ở lại lên tiếng trước, nhớ về một thời xa hơn, thời đấu tranh gian khổ trước Cách mạng, sau đó người ra đi nối tiếp nhớ lại kỉ niệm thời chín năm kháng chiến.

Nhà thơ rất chú ý sử dụng kiểu tiểu đối của ca dao, chẳng những có tác dụng nhấn mạnh ý mà còn tạo ra nhịp thuyên chuyển, cân xứng, hài hoà, làm cho lời thơ dễ nhớ, dễ thuộc, thấm sâu vào tâm tư:

Mình về rừng núi nhớ ai
Trám bùi để rụng măng mai để già;

Điều quân chiến dịch thu đông
Nông thôn phát động giao thông mở đường

Về ngôn ngữ thơ, Tố Hữu chú ý sử dụng lời ăn tiếng nói của nhân dân rất giản dị mộc mạc nhưng cũng rất sinh động để tái hiện lại một thời cách mạng và kháng chiến đầy gian khổ mà dạt dào tình nghĩa. Đó là thứ ngôn ngữ rất giàu hình ảnh cụ thể:

Nghìn đêm thăm thẳm sương dày;
Nắng trưa rực rỡ sao tràng;…

và cũng là thứ ngôn ngữ rất giàu nhạc điệu:

Chày đêm nện cối đều đều suối xa;
Đêm đêm rầm rập như là đất rung;…

Đặc biệt, thơ Tố Hữu sử dụng rất nhuần nhuyễn phép trùng điệp của ngôn ngữ dân gian:

Mình về, mình có nhớ ta;
Mình về, có nhớ chiến khu;
Nhớ sao lớp học i tờ;
Nhớ sao ngày tháng cơ quan;
Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều,…

Tất cả tạo ra một giọng điệu trữ tình nghe thiết tha, êm ái, ngọt ngào như âm hưởng lời ru, đưa ta vào thế giới của kỉ niệm và tình nghĩa thuỷ chung.

Bài thơ là khúc ca ân nghĩa, là hồi tưởng đầy xúc động và ân tình của Tố Hữu về chặng đường mười lăm năm đã qua của đất nước (từ khởi nghĩa Bắc Sơn năm 1940 đến hoà bình lập lại năm 1954), từ đó mà hướng về tương lai tươi sáng, nhắc nhớ tâm nguyện thuỷ chung. Viết về nghĩa tình dân tộc và hướng về đồng bào mình, Tố Hữu đã phát huy được hình thức nghệ thuật mang tính dân tộc, trong đó nổi bật là cách sử dụng thể thơ lục bát và ngôn ngữ thơ đậm sắc thái dân gian. Có thể coi Việt Bắc là khúc tình ca và cũng là khúc hùng ca về cách mạng, về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến mà cội nguồn sâu xa của nó là tình yêu quê hương đất nước, là niềm tự hào về sức mạnh của nhân dân, là truyền thống ân nghĩa, đạo lí thuỷ chung của dân tộc Việt Nam.

2. Cảm nhận về bài thơ Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải

Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải là một bài thơ trong trẻo, thiết tha. Nó là phần tinh tuý nhất của một con người luôn khát khao cống hiến, khát khao sống có ý nghĩa. Nó là tiếng lòng của nhà thơ và cũng là của tất cả những ai ham mê cái cuộc sống trần gian rất đẹp đẽ này.

Mùa xuân nho nhỏ ra đời khi nhà thơ đang nằm trên giường bệnh. Chắc hẳn, vào những ngày cuối cùng ấy, sau những chiêm nghiệm về cuộc sống với tất cả tình yêu, Thanh Hải muốn tiếp tục cất lên tiếng hót của "con chim chiền chiện" để góp nên một "mùa xuân nho nhỏ" cho cuộc đời, cho con người và cho đất nước yêu thương.

Với thể thơ 5 chữ, với cách ngắt nhịp nhanh, gọn mà vẫn có độ dư ba, bài thơ đã dâng lên trong lòng tôi cảm giác rộn ràng, náo nức. Những gam màu trong trẻo, những hình ảnh đẹp, tươi sáng và đầy sức sống trong mỗi câu thơ cứ thấm dần vào trái tim tuổi trẻ của tôi.

Mùa xuân của thiên nhiên, của đất nước được nhà thơ cảm nhận trong sự căng đầy của nhựa sống, trong nhịp sống đang hối hả và trong sự tươi non mơn mởn của những hi vọng vào tương lai. Giữa màu xanh yên bình của dòng sông xuân, sắc tím biếc cuả bông hoa không hề lạc lõng, chông chênh. Nó bám chắc vào lòng sông như một sợi dây vô hình làm nên sức sống. Trên cái nền màu dịu êm của "sông xanh" và "hoa tím biếc", tiếng hót trong vắt của con chim chiền chiện vút cao, ngân vang đến bất tận đến trời xanh. Từng tiếng, từng tiếng chim trong veo hay tiếng nhịp thở của khí xuân hoà vào trời đất, vang vọng vào trong lòng người như những "giọt tâm hồn" sáng long lanh. Tiếng hót ấy khiến ta không thể dửng dưng mà khiến ta phải thốt lên tiếng gọi rủ về cái khát khao muốn nắm bắt, muốn "đưa tay hứng".

Không tách mình khỏi khí xuân của thiên nhiên, đất nước trong công cuộc chuyển mình đi lên cũng rộn ràng, hối hả. Sức sống của đất nước không chung chung, trừu tượng mà nó biểu hiện ra ở "sức xuân" của mỗi con người. Mùa xuân trên lưng lính, lộc xuân trong tay người nông dân. Mỗi bước đi của người gieo thêm một chồi biếc, một mầm non. Và cứ thế, sức xuân của đất nước lại dâng lên như những lớp sóng xôn xao. Đất nước phấn chấn, hứng khởi trong một nhịp thở mới, hối hả khẩn trương. Niềm tin mới của dân tộc được chắp cánh từ truyền thống bốn nghìn năm dựng nước. Thế nên, dẫu biết có những vất vả và gian lao nhưng cả nước "vẫn đi lên phía trước" với một quyết tâm không mệt mỏi.

Những câu thơ của Thanh Hải đầy ắp hình ảnh, màu sắc và âm thanh. Nó tạo nên một không khí sôi nổi, háo hức, phơi phới vui tươi. Nó là một bức tranh tươi sáng sắc màu, là một bản nhạc rộn ràng tiết tấu trong trẻo, ngân nga và gợi cảm. Điều đặc biệt là: bức tranh thiên nhiên, bức tranh đất nước đầy sức sống ấy đã được nhà thơ cảm nhận khi ông đang ở vào cái giây khắc sắp lìa đời. Trên giường bệnh, nhà thơ vẫn mở rộng hồn mình, lắng nghe và đón nhận tất cả những thanh âm xao động của cuộc sống ngoài kia. Ông vẫn lắng nghe từng bước đi rất khẽ của đời. Bốn bức tường của phòng bệnh không thể ngăn cách cuộc đời với nhà thơ, những cơn đau của bệnh tật không làm giảm ý chí, bầu nhiệt huyết và niềm tha thiết yêu đời trong trái tim của người nghệ sĩ. Cái nghị lực phi thường ấy đáng để ta phải nâng niu và trân trọng xiết bao.

Bài thơ khép lại trọn vẹn trong tâm hồn và sự say sưa của người đọc bằng một ước nguyện thật chân thành và mãnh liệt biết bao. Nó thực là một khát khao đang bùng cháy: muốn được làm một nhành hoa như bông hoa tím biếc kia, muốn làm con chim hót vang trời những giọt long lanh như con chim chiền chiện. Cái khát khao không hề gợi một chút gì về hình ảnh khổ đau của một con người đang chết. Nó giống cái mãnh liệt và rạo rực của một sức thanh xuân đang tràn trề nhựa sống và khát khao cống hiến cho đời.

Nhiều người đã từng đồng ý với tôi rằng: những người trẻ tuổi đọc Mùa xuân nho nhỏ có thể tìm ra lý tưởng sống cho mình, còn với những người đã dâng cả tuổi thanh xuân cho đất nước thì vẫn thấy mình còn có thể làm được nhiều hơn. Mùa xuân nho nhỏ quả đã không chỉ là niềm say mê của riêng tôi. Nó xứng đáng là một bài thơ hay trong tủ sách quý của muôn người.

3. Cảm nghĩ bài thơ Sóng

Trong nền văn học Việt Nam, Xuân Quỳnh là một gương mặt thơ tiêu biểu trong thế hệ trẻ những năm tháng chống Mĩ với những đóng góp nổi bật qua các tác phẩm thể hiện tiếng nói trữ tình của tuổi trẻ. Tiếng thơ của Xuân Quỳnh luôn giàu vẻ đẹp nữ tính qua trái tim và tiếng lòng tha thiết với những hạnh phúc bình dị đời thường gắn với những dự cảm, lo âu. Điều này đã được thể hiện rõ thông qua thi phẩm “Sóng”- một trong những bài thơ tình nổi tiếng góp phần khẳng định vị trí “nữ hoàng thơ tình Việt Nam” của thi sĩ.

Trong tác phẩm, sóng và em là hai hình tượng trung tâm cùng song hành, có lúc tách biệt, có lúc quyện hòa để thể hiện những cung bậc cảm xúc của nhân vật trữ tình về tình yêu, về hạnh phúc đời thường. Bài thơ đã thể hiện tình yêu của trái tim người phụ nữ vừa hiện đại, mới mẻ vừa đậm chất truyền thống. Qua hình tượng sóng, trước hết nhà thơ đã tái hiện thành công những trạng thái đối cực trong sự mâu thuẫn của tình yêu:

“Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ”

Thông qua việc miêu tả trạng thái của những con sóng biển đang ngày đêm vỗ vào bờ, tác giả đã tái hiện sự thay đổi của tâm trạng người phụ nữ trong tình yêu: lúc ồn ào dữ dội, khi sâu lắng dịu êm. Đó chính là biểu hiện quen thuộc của một trái tim yêu chân thành, mãnh liệt. Bởi vậy, tình yêu đó không chịu sự gò bó trong không gian chật hẹp mà luôn đi theo tiếng gọi của trái tim để vươn tới hạnh phúc:

“Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể”

Giống như những con sóng tự do vùng vẫy nơi đại dương xanh thẳm, ngày đêm vỗ sóng hòa mình vào nhịp thở của biển cả bao la, người con gái khi yêu cũng sẵn sàng vượt qua tất cả để kiếm tìm tâm hồn đồng điệu và tình yêu đích thực. Qua đó chúng ta có thể thấy được khát vọng hạnh phúc thường trực mạnh mẽ trong trái tim người phụ nữ. Đây chính là yếu tố tạo nên vẻ đẹp độc đáo và riêng biệt, hiện đại, mới mẻ trong những vần thơ viết về tình yêu. Nếu như trong thơ ca xưa, hình tượng người phụ nữ luôn hiện lên qua sự cam chịu, nhẫn nhục: “Thân em như hạt mưa sa - Hạt vào đài các, hạt ra ruộng cày” thì người phụ nữ trong thơ Xuân Quỳnh đã mạnh mẽ phá bỏ mọi chiều kích chật hẹp, tù túng để vươn tới không gian khoáng đạt của tình yêu.

Vẻ đẹp hiện đại trong những vần thơ của “Sóng” còn được thể hiện thông qua trái tim đa sầu đa cảm và tấm lòng trắc ẩn, dự cảm lo âu của người phụ nữ đang yêu:

“Cuộc đời tuy dài thế
Năm tháng vẫn đi qua
Như biển kia dẫu rộng
Mây vẫn bay về xa

Đồng thời, những nhịp thơ trải dài nhịp nhàng theo nhịp sóng vỗ còn nhấn mạnh khát vọng của nữ sĩ:

Làm sao được tan ra
Thành trăm con sóng nhỏ
Giữa biển lớn tình yêu
Để ngàn năm còn vỗ”

Nữ sĩ Xuân Quỳnh đã sử dụng số từ ngàn - trăm để diễn tả khát vọng vĩnh cửu hóa tình yêu đôi lứa thông qua việc hóa thân vào những ngọn sóng ngoài khơi xa. Khát vọng lớn lao đó đã thể hiện trái tim yêu say đắm, chân thành luôn thường trực trong tâm hồn người phụ nữ. Bên cạnh vẻ đẹp mang tính hiện đại, những vần thơ của Xuân Quỳnh còn gợi lên những cảm nhận sâu xa về vẻ đẹp tình yêu truyền thống qua việc thể hiện nỗi nhớ mong da diết:

“Con sóng dưới lòng sâu
Con sóng trên mặt nước
Ôi con sóng nhớ bờ
Ngày đêm không ngủ được
Lòng em nhớ đến anh
Cả trong mơ còn thức”

Nếu như những con sóng là yếu tố tạo sự độc đáo của biển cả thì nỗi nhớ chính là đặc trưng nổi bật gắn với tình yêu đôi lứa. Bởi vậy, trong kho tàng ca dao Việt Nam, có rất nhiều câu thơ viết về nỗi nhớ:

“Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ
Nhớ ai, ai nhớ, bây giờ nhớ ai”

Hay:

“Nhớ ai bổi hổi bồi hồi
Như đứng đống lửa như ngồi đống than”

Qua những câu ca dao dạt dào tình cảm, độc giả có thể thấy được tình yêu luôn gắn với nỗi nhớ. Đến với những câu thơ của Xuân Quỳnh, nỗi nhớ được giãi bày một cách trực tiếp: “Lòng em nhớ đến anh - Cả trong mơ còn thức”. Nỗi nhớ đã đi sâu vào tiềm thức của người phụ nữ và trở thành biểu hiện cao nhất thể hiện tình yêu đằm thắm, tha thiết và chân thành.

Và cũng như người phụ nữ truyền thống, tình yêu đối với Xuân Quỳnh luôn gắn liền với sự thủy chung son sắt:

“Dẫu xuôi về phương bắc
Dẫu ngược về phương nam
Nơi nào em cũng nghĩ
Hướng về anh một phương”

Qua cách nói sáng tạo “xuôi về phương bắc / ngược về phương nam”, tác giả đã khẳng định sự thủy chung son sắt trong tình yêu có thể vượt qua mọi chiều kích, giới hạn không gian. Hai tiếng “một phương” vang lên đã như một lời thề nguyện thiêng liêng về tình yêu duy nhất vẹn tròn, tha thiết. Qua đó, độc giả có thể thấy được khát vọng cháy bỏng của nữ sĩ về hạnh phúc, tình yêu.

Như vậy, qua kết cấu song hành bằng việc sử dụng hai hình tượng “sóng” và “em” vừa quyện hòa, vừa tách biệt, tác giả Xuân Quỳnh đã diễn tả về một tình yêu vừa mang vẻ đẹp hiện đại mới mẻ, vừa đậm chất truyền thống qua lăng kính độc đáo của người phụ nữ say đắm trong tình yêu. Bằng thể thơ năm chữ cùng cách ngắt nhịp linh hoạt, nữ sĩ đã tạo nên một bài ca bất hủ về tình yêu gắn với niềm thương, nỗi nhớ và hạnh phúc bình dị đời thường.

4. Cảm nhận về Truyện Kiều của Nguyễn Du

Giống tất cả mọi người dân Việt Nam, tôi yêu tiếng nói của dân tộc mình, thứ tiếng nói lên bổng xuống trầm đầy cảm xúc. Vì thế tôi yêu những câu lục bất uyển chuyển và đằm thắm chứa chan tình cảm. Vì lẽ đó, cũng chẳng có gì là lạ, là đặc biệt khi tôi yêu văn học nước mình, và tôi say mê Truyện Kiều của Nguyễn Du. Tôi say mê Kiều bởi ở Kiều tôi thấy Nguyễn Du, một Nguyễn Du của tài và tình, một nguyễn Du có tình yêu tha thiết với dân tộc và tấm lòng nhân hậu đầy cảm thông đối với những kiếp người bất hạnh. Mà bất hạnh nhất trong xã hội xưa là người phụ nữ – những con người hồng nhan bạc phận.

Tôi muốn nói về sự kính trọng của tôi đối với đại thi hào dân tộc Nguyễn Du. Cả dân tộc ta đã kính trọng ông nhưng tôi vẫn muốn thể hiện những tình cảm của mình đối với người thi nhân đa tài mà đa đoan ấy.

Điều đầu tiên khiến tôi yêu quý và kính trọng Nguyễn Du chính là tình cảm của ông dành cho con người. Ông là con người có tấm lòng nhân hậu. Có lẽ, đây chính là yếu tố quan trong để ông có được những tác phẩm văn học chứa đựng những giá trị nhân đạo sâu sắc. Người thi nhân đa đoan, viên quan đại thần dòng dõi của triều Lê ấy không biết đã bao lần “Khéo dư nước mắt khóc người đời xưa”. Chính ông đã tự nhận ra rằng, người thi nhân bất hạnh bởi thi nhân luôn là người tự vận nỗi đau, nỗi bất hạnh của người khác vào mình (Phong vận kì oan ngã tự cư). Lòng nhân hậu khiến ông luôn rất nhạy cảm với nỗi đau khổ của người khác, vì thế những thi phẩm của ông luôn đầm đìa nước mắt: nước mắt của nàng Kiều, nước mắt của người ca nữ đất Long Thành và của nàng Tiểu Thanh. Họ đều là những con người tài hoa, tài sắc song toàn mà mệnh bạc. Nhà thơ đồng cảm và đau nỗi đau của những người ấy không đơn giản chỉ là sự cảm thông của con người đối với con người. Nỗi đau của Nguyễn Du còn là sự nuối tiếc, xót xa trước sự ra đi của những tài năng. “Cái tốt đẹp thì khó bền”, “hoa thường hay héo cỏ thường tươi”, đó là quy luật của cuộc đời. Sự vô tình của con người trước nỗi đau, trước giá trị của cái đẹp cũng là lẽ thường. Biết vậy Nguyễn Du vẫn luôn trăn trở day dứt:

Bất tri tam bách dư niên hậu

Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?

“Tấm lòng thơ vẫn tình đời thiết tha” (Tố Hữu) chính là điều khiến ông luôn được người đời trân trọng.

Điều thứ hai khiến tôi say mê Nguyễn Du chính là bởi tài năng. Nguyễn Du yêu Tiếng Việt nên ông đã sử dụng thành công và làm Tiếng Việt phong phú thêm bao nhiêu. Bao nhiêu năm nay chúng ta đọc và say mê Truyện Kiều một phần bởi cái giọng điệu lục bát dễ đọc, dễ thuộc, dễ nghe. Nguyễn Du đã gửi gắm ở Truyện Kiều một tình yêu lớn đối với tiếng nói và thể thơ dân tộc. Ông dùng những từ ngữ, những cách diễn đạt gần gũi với tiếng nói của nhân dân. Dân dã mà vẫn thật hay, vẫn uyên bác và giàu chất nghệ thuật. Ví như những bức tranh bốn mùa của ông:

Cỏ non xanh rợn chân trời

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa

Tiếng Việt đẹp hơn, giàu âm thanh, hình ảnh và sắc điệu hơn bởi khả năng sáng tạo của ông. Truyện Kiều đã đưa thể hiện một cách phong phú nhất khả năng biểu hiện của Tiếng Việt và khả năng biểu cảm của thể thơ lục bát.

Có biết bao nhiêu lí do để ta trân trọng đại thi hào dân tộc Nguyễn Du, và lí do lớn nhất, chính đáng nhất chính là nhân cách cao đẹp của ông, kết quả của sự kết hợp hài hoà giữa tài và tình Nguyễn Du.

5. Cả nghĩ về bài thơ Đêm Thu của Trần Đăng Khoa

Có lẽ khi nhắc đến một trong những bài thơ mà em yêu thích thì không thể nào em lại quên được bài thơ “Đêm Thu” của nhà thơ Trần Đăng Khoa. Yêu “nó”, yêu luôn cả cái “thu” chất chứa trong đó. Không biết đã từ bao giờ cái chất “ấy” đã thắm sâu tận đáy tâm hồn của em…

“Thu về lành lạnh trời mây

Bỗng nhiên thức giấc nào hay mấy giờ.

Ánh trăng vừa thực vừa hư

Vườn sau gió nổi nghe như mưa rào.”

Bài thơ “Đêm Thu” có tất cả bốn câu thật ngắn, thật đơn sơ, nhưng nó cũng đầy những phong vị đặc sắc riêng của đêm thu. Quả đúng như vậy, ngay từ cái lần đầu tiên ta đọc đã để lại cho ta cái cảm giác mới lạ. Đó chính là cảm giác rất “thu” của tác giả nói chung và của đọc giả nói riêng. Từ dòng đầu tiên “nó” đã cho ta cảm nhận được cái thời tiết “lành lành trời mây” đặc trưng của mùa thu. Chính cái “lành lạnh” này đã làm ta một phần nào nhớ đến những ngày ta được mặc chiếc áo len rất model khi đến dịp này. Hay chính cái “lành lạnh” này làm cho giọng nói của ta thêm phần nào ấm áp, ngân nga và tâm hồn thêm nhạy cảm hơn… Không ngờ nhận xét của Trần Đăng Khoa lại tinh tế đến thế,ngay vào bài đã bật lên được một nét đặt biệt đó.

Đến đoạn thứ hai, cái mà mọi người hay gọi là “tự nhiên” lại khơi dậy lần nữa. Tại sao nhà thơ viết về thu lại không viết lá vàng rụng, bầu trời xanh hay những rặng liễu buông lệ… mà lại viết “…Bỗng nhiên thức giấc nào hay mấy giờ…”? “Nó” thật tình cờ, ý thơ trong câu này như đang hỏi, đang tâm sự và như đang cảm nhận cái “thu” khi đó. Trẻ thơ thường có những giấc ngủ say đắm và ngon lành, đâu có chợt nửa đêm mà thức giấc như thế này! Tuy nhiên, sự bất chợt ấy tuy có bất chợt mà nó lại độc đáo, khiến cho người đọc có thể một phần nào cảm nhận được cái bất ngờ trong đoạn 2 này. Chắc có lẽ từ khi nào mùa thu đã tác động vào cảm quan chú bé một cách khác thường hay là do tâm hồn của nhà thơ nhỏ tuổi đã từng bước đón nhận lấy điệu thu “lành lạnh” đầu mùa đang lan tỏa khắp không gian? Câu thơ này đã phần nào miêu tả được mối dây gắn bó mỏng manh mà mơ hồ, nhưng cũng rất sâu xa kì diệu giữa con người và thiên nhiên.

Sự cảm nhận cái se lạnh của đêm thu đã được Trần Đăng Khoa diễn tả thật hồn nhiên và cũng thật tinh tế. “Nó” mộc mạc, giản dị,nghe cứ rõ ràng như một lời nói thường, mà lại vẫn đầy khêu gơi, “nó” vẫn đúng là thơ, man mác một niềm thơ. Dường như câu hỏi “…nào hay mấy giờ…” của tác giả đã làm tăng thêm tính huyền ảo, làm nên cái man mác nói trên. Có lẽ đây cũng phần nào làm nên nét đặc sắc của bài: Khoa chỉ hồn nhiên, không tính toán gì khi lựa chọn câu thơ cho phù hợp. Nhưng đấy là vẻ hồn nhiên đã qua lắng đọng, là nét tác động rất thật lúc đã được tinh lọc qua tâm hồn người thi sĩ – không hề có dấu vết gọt giũa chữ nghĩa, chỉ thấy đâu đây vang vọng tiếng của lòng người thôi!

Bước qua đoạn 3 của bài thơ, tác giả có viết: “Ánh trăng vừa thực vừa hư…” Đến đây, tại sao tác giả lại nói “vừa thực, vừa hư”? Có lẽ đây là trăng khuyết chăng? Hay là trăng tròn? … Nhiều câu hỏi đặt ra cho 4 chữ “..vừa thực vừa hư..” trên. Lời văn thật bí ẩn kèm theo những hình ảnh chất chứa những nỗi niềm có thể làm cho tim ta rung động. Nhiều nhà thơ, nhà văn viết về ánh trăng… ví ánh trăng như mẹ, như người bạn … Còn nhà nhơ Trần Đăng Khoa thì không nói gì về vầng trăng mà chỉ nói “nó” vừa thực, vừa hư mà thôi. Khiến vầng trăng ở đây thêm sức quyến rũ và đặc sắc.

Câu thơ cuối, cái ý vị mung lung, mơ màng, cái không khí tĩnh lặng và cái cảm giác nữa thực nửa ảo bây không còn nữa. Gió giờ đây đã thổi, vả nổi mạnh, “nghe như mưa rào”. Từ diệu êm đã thành xáo động. Từ đây, thiên nhiên lúc chuyển mùa đã thức dậy trong tâm hồn tự lúc nào mà ta dường như chẳng hay chẳng biết. Trăng và gió đêm thu, bao người đã viết về nó – từ “Trái trăng thu chín mõm mòm” của Hồ Xuân Hương… - đến “gió no mà bay lên nguyệt kia” của Xuân Diệu – nhưng trong bài mảnh răng mơ hồ “ vừa thực vừa hư” khá mung lung huyền ảo và trận gió nổi “nổi” chứ không “thổi” chung chung – bạo liệt, phấn khích “nghe như mưa rào”. Ánh trăng ru êm và trận gió thức gọi – những cảm xúc phức tạp, đa dạng lúc chuyển mùa, làm phong phú thêm cuộc sống chúng ta.

Không hiểu sao lòng em lại yêu bài “Đêm Thu” này!?! Cứ mỗi lần đọc bài thơ thì lòng em lại cứ bồi hồi. Mỗi câu cứ làm cho lòng em thêm xao xuyến. Nó cứ nhẹ nhàng mà làm sống dậy trong mình cái cảm giác hòa nhập cùng thiên nhiên, vũ trụ. Một đêm thu huyền ảo, ngây ngất đồng thời gợi thức tất cả tâm hồn – một đêm thu rất “thu”!

Đọc xong bài thơ, chúng ta mới hiểu rằng cái hồn nhiên, dung dị, vừa gợi mở sâu sắc. Với cách dùng từ, ngôn ngữ rất vô tư, rất phong phú, rất thiên nhiên và rất “thu” của thơ Trần Đăng Khoa…

6. Cảm nhận về bài thơ Cảnh khuya

Trăng là chủ đề sáng tác, là cảm hứng của các thi nhân và Bác Hồ không chỉ là chiến sĩ mà còn là một nhà thơ lớn có tình yêu thiên nhiên với tâm hồn nhạy cảm. Trong những năm đầu ở chiến khu Việt Bắc, trong một đêm trăng đẹp, Bác đã sáng tác ra bài thơ Cảnh khuya để lại trong em nhiều cảm xúc

“Tiếng suối trong như tiếng hát xa,

Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa

Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ

Chưa ngủ vì lo nỗi nước nhà.”

Bài thơ “Cảnh khuya” thể hiện tình yêu thiên nhiên song hành cũng là tình yêu nước sâu đậm của Bác trong một đêm trăng ở núi rừng Việt Bắc

“Tiếng suối trong như tiếng hát xa”

Khi mọi người đã chìm sâu vào giấc ngủ, một màn đêm thanh tĩnh buông xuống khắp khu rừng, nó làm cho tiếng suối dủ ở rất xa vẫn theo gió mang tiếng ca êm đềm, trong vắt của mình cho những người yêu vẻ đẹp sáng ngời của đêm trăng cùng thưởng thức. Tiếng suối và ánh trăng, chao ôi hai thứ ấy hòa quyện thì thật là tuyệt vời! Nó khiến cho người đang tham gia chính sự như Bác đã có một cảm nhận tinh tế về tiếng ca này. Tiếng suối dịu êm khoan nhặt như một khúc hát trữ tình sâu lắng. Bác đã khéo léo dùng nghệ thuật lấy động tả một khung cánh yên tĩnh có thể nghe rõ âm vang từ xa vọng lại. Và Người đã so sánh tiếng suối với tiếng hát để nhấn mạnh nét gợi tả mang sức sống và hơi ấm của con người. Sự ví von trên đã làm cho em nhớ lại câu thơ trong tác phẩm “Côn Sơn ca” của Nguyễn Trãi từng viết

“Côn Sơn suối chảy rì rầm

Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai.”

Mỗi vần thơ, mỗi khung cảnh, âm thanh đều là tiếng suối nhưng được cảm nhận khác nhau ở nhiều khía cạnh. Song tất cả vẫn là một tình yêu thiên nhiên. Câu thơ đã cho ta thấy rằng: dù là một vĩ lãnh tụ cách mạng nhưng Bác vẫn mang tâm hồn tràn đầy tình cảm lãng mạn, đẹp đẽ. Cám ơn Bác, ngòi bút tài hoa và tâm hồn yêu thiên nhiên say đắm của Người đã giúp em cảm nhận sự ngọt ngào, du dương của âm thanh suối chảy

“Trăng lồng cổ thụ, bóng lồng hoa”

Ánh sáng dịu dàng, thanh khiết từ ánh trăng len lõi chiếu vào lá và hoa tạo nên vẻ đẹp lấp lánh. Hoa lá nghiêng bong trên mặt đất tạo nên những bức tranh lấp loá, lúc ẩn lúc hiện. Hoa lá cỏ cây và ánh trăng lồng quyện vào nhau, trăng đan vào cậy cổ thụ, trăng tràn vào hoa. Đó như một bức tranh tuyệt vời của đất nước. Bác đã làm mọi sự vật sống động qua nghệ thuật nhân hóa “lồng” để miêu tả đan xen cay lá và ánh trăng. Bác quả là một người đa cảm và có tâm hồn vô cùng phong phú! Trăng trở nên thú vị và lãng mạn trong cảnh khuya sáng ngời, lung linh, huyền ảo. Đọc thơ mà em cứ hình dung cảnh thơ như đang hiện lên mờ ảo trước mắt. Khung cảnh thật thơ mộng kết hợp với nhạc tạo nên một bức tranh đầy sinh động. Vì vẻ đẹp bất tận của mình, trăng là người bạn của các nhà thơ, ta khó có thể hững hờ với vẻ đẹp của trăng

“Cảnh khuya như vẽ người chưa ngủ”

Đọc đến đây ai cũng nghĩ Bác vẫn còn thức vì trăng, vì sự cuốn hút của thiên nhiên nhưng người không chỉ xúc động trước vẻ đẹp của đất trời mà còn vì

“Chưa ngủ vì nỗi lo nước nhà”

Nước nhà đang bị giặc xâm lăng, giày xéo, bao người còn sống trong cơ cực, lầm than. Và để nhấn mạnh nỗi lo của mình, Bác đã điệp vòng “chưa ngủ” như láy lại tâm tư của Bác, một người luôn nặng lòng với quê hương. Hai câu thơ cuối giúp ta thấy rõ hơn con người của Bác. Một con người yêu thiên nhiên tha thiết nhưng cũng chính vì yêu thiên nhiên mà luôn lo cho sự nghiệp của đất nước.Đây chính là nỗi lòng, là tâm tình của vị lãnh tụ. Đồng thời ta cũng đã thấy Bác Hồ của chúng ta dẫu bận trăm công nghìn việc nhưng Bác vẫn dành thời gian để chiêm nghưỡng thiên nhiên, có lẽ thiên nhiên chính là người bạn giúp Bác khuây khoả, bớt đi sự vất vả mà Bác phải chăng chở suy tư. Từ đây, ta nhận thấy Bác là một người luôn biết hài hoà giữa công việc với tình yêu thiên nhiên và càng yêu thiên nhiên thì trách nhiệm đối với công việc càng cao bởi ta có thể nhận thấy đằng sau hình ảnh người ung dung ngắm trăng đó là một nõi khao khát về một đất nước thanh bình, để ngày ngày con người được sống tự do, hạnh phúc. Dường như trong Bác luôn xoáy sâu câu hỏi: Biết đến bao giờ đất nước mới đc tự do để con người thoả sức ngắm trăng? Đọc đến đây ta càng hiểu rõ hơn con người của Bác đó là một người luôn canh cánh trong lòng nỗi lo vì dân vì nước, vì đất nước Bác có thể hi sinh tất cả. Hình ảnh của Bác làm em dâng trào cảm xúc mến yêu, kính trọng Bác. Và ta đã luôn tự hỏi rằng: Có bao giờ Người được thảnh thơi để tận hưởng niềm vui của riêng mình? Bác thật vĩ đại trong tâm hồn em và của cả dân tộc Việt Nam. Qua bài thơ, ta cảm nhận được lòng yêu quê hương trong Bác thật sâu đậm, lớn lao và đã bắt gặp một tâm hồn thanh cao lồng trong cốt cách người chiến sĩ cộng sản. Tác phẩm là một bức tranh đẹp về quê hương, về con người và sự sự hài hòa giữa cảnh và tình.

Bài thơ đã khép lại trong niềm xúc động dạt dào. Bác đã để lại cho đời những vần thơ hay đầy ý nghĩa, những vần thơ đó đã khơi dậy trong em tình yêu thiên nhiên và niềm kính yêu vô hạn vị Cha già của dân tộc. Qua bài thơ này ta càng hiểu rằng trong hoàn cảnh nào, Bác vẩn giữ được thái độ bình tĩnh chủ động như vậy, mặc dù ẩn trong phong thái ung dung tự tại ấy là nỗi lo cho nước, nỗi thương dân. Trong cuộc đời 79 năm, Bác Hồ có biết bao đêm không ngủ vì nhiều lẽ nhưng điều khiến chúng ta cảm phục vô hạn đó là ý thức, trách nhiệm của Bác trước vận mệnh nước nhà. Ý thức ấy ở Bác không chút nào xao lãng.

7. Cảm nhận về bài thơ Bạn đến chơi nhà

Thơ Nguyễn Khuyến chẳng có mấy bài vui bởi tâm trạng ông mang nặng nỗi buồn trước tình cảnh đất nước đau thương, trước thói đời éo le, bạc bẽo. Nhất là từ khi cáo quan về sống ẩn dật ở quê nhà thì nỗi buồn ấy trong thơ ông càng sâu, càng đậm. Tuy vậy nhưng bài Bạn đến chơi nhà lại là nốt vui bất chợt làm bừng sáng cái thông minh, dí dỏm vốn có trong tính cách cụ Tam Nguyên.

Ẩn chứa trong bài thơ là một tình bạn già kháng khít, keo sơn, vượt qua mọi ràng buộc của những nghi thức tầm thường. Cái nghèo vật chất không lấn át được tình cảm ấm áp, chân thành.

Bài thơ viết theo thể thất ngôn bát cú Đường luật nhưng không theo cấu trúc 4 phần (đề, thực, luận, kết), mỗi phần hai câu như thường thấy. Ở bài này, Nguyễn Khuyên chỉ sử dụng có một câu làm câu đề, câu thứ hai đã chuyển sang phần thực. Giữa phần thực và phần luận lại không có ranh giới rõ rệt. Hai câu 7 và 8 thì câu 7 gắn với phần luận, chỉ có câu 8 là phần kết. Sự phá cách này tạo nên nét độc đáo trong cấu trúc bài thơ, đồng thời chứng tỏ khả năng sáng tạo của nhà thơ.

Đã bấy lâu nay bác tới nhà

Câu mở đề giản dị, tự nhiên như lời chào hỏi thân tình của hai người bạn thân lâu lắm mới gặp lại nhau. Tuổi già là tuổi người ta thường cảm thấy cô đơn nên khao khát có bạn để chuyện trò, giãi bày tâm sự. Chính vì thế nên khi được bạn đến thăm, nhà thơ thực sự vui mừng. Ông gọi bạn bằng bác. Cách gọi dân dã, thân tình song cũng rất nể trọng, thể hiện sự gắn bó thân thiết giữa chủ và khách. Câu thơ giống như lời chào quen thuộc hằng ngày ấy sẽ là tiền đề cho sự giãi bày tiếp sau đó: Đã lâu rồi, nay mới có dịp bác quá bộ tới chơi nhà, thật là quý hóa. Vậy mà… thôi thì cứ tình thực mà nói, mong bác hiểu mà vui lòng đại xá cho!

Sau khi Nguyễn Khuyến rũ áo từ quan, về ở chốn quê nghèo chiêm mất đằng chiêm, mùa mất mùa mà vẫn có bạn tìm tới thăm thì hẳn người ấy phải là tri kỉ; bởi thói đời giàu thời tìm đến, khó thời lui. Xúc động thật sự, nhà thơ nhân đó lấy cái giàu có, quý giá của tình bạn để khỏa lấp cái nghèo nàn vật chất trong cuộc sống của mình.

Theo phép xã giao, khi khách đến chơi, trước hết chủ nhà phải có nước có trầu tiếp khách. Bạn thân ở nơi xa tới, lâu ngày mới gặp thì nhất thiết phải mời cơm, mời rượu. Ở chốn phố phường còn có quán xá chứ ở vùng quê Nguyễn Khuyến thì kiếm đâu ra? Cái hay của bài thơ bắt đầu từ ý này: Trẻ thời đi vắng, chợ thời xa.

Nhà thơ phân trần với khách về sự tiếp đãi không thể chu đáo của mình. Vừa mới tay bắt mặt mừng mà lại giãi bày với ý: “Nhà vắng người sai bảo, chợ ở xa, tôi thì già yếu không đi được”, liệu có làm mất lòng nhau? Nhưng bạn già chắc sẽ thông cảm vì lí do chủ nhà đưa ra nghe chừng đúng cả. Mọi thứ ở nhà tuy sẵn nhưng ngặt nỗi:

Ao sâu nước cả khôn chài cá,

Vườn rộng rào thưa khó đuổi gà.

Cải chửa ra cây, cà mới nụ,

Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa.

Hiểu theo bề nổi của chữ nghĩa, nhà thơ muốn thanh minh với bạn: Cá thì nhiều đấy, nhưng ao sâu nước cả. Gà không thiếu nhưng vườn rộng rào thưa. Cải, cà, bầu, mướp thì đang ở độ chửa ra cây, còn mới nụ, vừa rụng rốn, đương hoa. Nghĩa là toàn ở độ dở dang, sắp sửa, chưa dùng được. Vậy là bữa cơm đãi khách với đầy đủ cá thịt hay đạm bạc rau dưa đều không thể có. Thôi thì ta nói chuyện với nhau bằng điếu thuốc, chén nước, miếng trầu vậy. Nhưng giở đến trầu thì đã hết tự bao giờ: Đầu trò tiếp khách trầu không có, mà xưa nay miếng trầu là đầu câu chuyện. Người đọc như hình dung ra rõ ràng cái sự loay hoay, lúng túng thật dễ thương của vị đại quan xưa, nay đã thành ông già dân dã chốn quê mùa.

Nhưng xét kĩ thì chủ nhà không nghèo, ngược lại, ông là người giàu có. Câu thơ toàn nói đến cái không nhưng lại hàm chứa cái có. Cái nghèo vật chất trong hiện tại được thi vị hóa như là sự giàu có trong tương lai. Có thể những thứ cá, gà, cải, cà, bầu, mướp đều chẳng thiếu và nhà thơ đã tiếp đãi bạn rất chu tất còn nội dung bài thơ chỉ là cách giới thiệu độc đáo của cụ Tam Nguyên với bạn về cuộc sống thanh đạm của mình sau khi từ quan chăng?!

Cách nói của nhà thơ là cố làm ra vẻ giàu có, dư dả nhưng thực ra ông rất nghèo và cái nghèo ấy dễ gì che giấu được! Bạn biết ta nghèo, lại ở một nơi xa xôi hẻo lánh mà vẫn tìm đến thăm ta, điều đó còn gì quý giá bằng! Tuy vậy, ẩn trong lời nói khiêm nhường của Nguyễn Khuyến là sự tự hào về cảnh sống thanh bần của mình. Ta tuy nghèo thật nhưng dễ gì giàu sang đổi được cái nghèo ấy! Trong đoạn thơ trên thấp thoáng nụ cười hóm hỉnh, thâm Thúy của bậc đại nho.

Bác đến chơi đây ta với ta là một câu kết hay, là linh hồn của bài thơ. Ta với ta nghĩa là một tấm lòng đến với một tấm lòng; kẻ tri âm đến với người tri kỉ. Vậy thì tất cả những lễ nghi kia đều là tầm thường, vô nghĩa. Chủ và khách có chung một tình cảm thắm thiết thanh cao, đó là cái quý giá không vật chất nào sánh được. Ba tiếng ta với ta gợi cảm xúc mừng vui, thân mật. Bạn bè xa cách đã lâu, nay vượt đường xa dặm thẳm, vượt cái yếu đuối của tuổi già để đến thăm nhau thì thật là quý hóa! Đáng quý hơn nữa là bác với tôi, ta cùng lánh đục tìm trong, lui về vui thú điền viên để giữ trọn hai chữ thiên lương. Sự gần gũi, tương đắc về mặt tâm hồn đã gắn bó chủ và khách làm một. Những điều câu nệ, khách khí đã bị xoá nhòa. Chỉ còn lại niềm vui và sự chân thành bao trùm tất cả. Tình bạn ấy đã vượt lên trên những nghi thức tiếp đãi bình thường. Bạn đến chơi nhà không phải vì mâm cao cỗ đầy mà để được gặp nhau; được hàn huyên tâm sự cho thỏa nỗi khao khát nhớ mong.

Cậu thơ đã thể hiện cách sử dụng từ ngữ tài tình của Nguyễn Khuyến. Đáng chú ý nhất là cụm từ ta với ta. Đại từ ta trong tiếng Việt vừa chỉ số ít, vừa chỉ số nhiều. Nguyễn Khuyến dùng cả hai nghĩa: ta với ta tuy hai nhưng là một. Từ với gắn hai từ ta lại. Bạn và nhà thơ ngồi bên nhau thủ thỉ tâm tình, hai người hòa thành một. Quả là không gì có thể đánh đổi được tình bạn thủy chung giữa hai ta.

Bài thơ Bạn đến chơi nhà là tấm lòng của nhà thơ và cũng là bức tranh phong cảnh nông thôn bình dị tràn đầy sức sống. Khu vườn với luống cà, giàn mướp; mặt ao sóng gợn, tiếng gà xao xác trưa hè… là hiện thân của mảnh hồn quê mộc mạc, đậm đà, sâu lắng. Màu xanh trong của nước ao, màu xanh mơn mởn của vồng cải, màu tím hoa cà, màu vàng tươi hoa mướp… loại nào cũng đang độ tươi non, làm vui mắt và ấm lòng người. Những sự vật tưởng như tầm thường ấy thực ra có sức an ủi rất lớn đối với một tâm hồn mang nặng nỗi đau đời của nhà thơ. Được đón bạn đến chơi nhà trong khung cảnh rạo rực sức sống ấy, chắc hẳn niềm vui của cụ Tam Nguyên cũng tăng lên gấp bội.

Bài thơ nói về một tình bạn trong sáng, đẹp đẽ. Giọng thơ tự nhiên như lời ăn tiếng nói hằng ngày của người nông dân quê mùa, chất phác, ấy vậy nhưng nó vẫn bộc lộ rõ nét tài hoa của ngòi bút Nguyễn Khuyến trong tả cảnh, tả tình. Cảnh, tình đan xen, hòa hợp, bổ sung cho nhau để tạo nên một bức tránh quê trong sáng, tươi mát và ấm áp tình người.

8. Cảm nhận về bài thơ Sang thu (Hữu Thỉnh)

“Em không nghe rừng thu

Lá thu kêu xào xạc

Con nai vàng ngơ ngác

Đạp trên lá vàng khô?”

Dường như mùa thu luôn là nguồn thi hứng để các nhà thơ viết nên từng vần thơ đẹp đẽ. Từ những chiếc lá vàng, đến những ngọn gió mát lành và ánh nắng ấm áp, mùa thu hiện lên trong khung cảnh dịu êm và lãng mạn. Trong đó, có một bài thơ mà tôi vô cùng ấn tượng, một bài thơ đã tái hiện đầy tinh tế khung cảnh đất trời lúc sang thu vô cùng gần gũi, giản dị, đó là bài thơ “Sang thu” của nhà thơ Hữu Thỉnh.

“Bỗng nhận ra hương ổi

Phả vào trong gió se”

Các nhà thơ thường miêu tả mùa thu với lá vàng rụng ngoài sân, sắc vàng dịu êm mà cũng buồn sầu. Riêng với “Sang thu”, tác giả cảm nhận mùa thu rất riêng, rất mới, bằng sự rung động tinh tế. Hương ổi thoang thoảng trong gió, nhà thơ đã thật nhạy cảm, khéo léo để có thể nhận ra được mùi hương rất đỗi nhẹ nhàng như vậy. Cụm từ “bỗng nhận ra” đã diễn tả trạng thái ngỡ ngàng của tác giả khi phát hiện mùa thu đã chạm ngõ chỉ với “hương ổi”, mùi hương đồng nội thân quen, gợi nên những cảm xúc khó tả. Mùi hương ổi ấy đã “phả” vào trong “gió se” đầu mùa thu dịu nhẹ, se sắt. Động từ “phả” đã diễn tả sự quyện chặt vào, sự gắn kết giữa hương ổi và làn gió đầu mùa.

Chỉ qua hai câu thơ đầu, Hữu Thỉnh đã mang đến cho người đọc một cảm nhận mới về mùa thu, về sự chuyển mùa tinh tế nhất, về nhưng điều bình dị ở xung quanh chúng ta.

“Sương chùng chình qua ngõ

Hình như thu đã về”

Sương thu đã được nhân hóa; hai chữ “chùng chình" diễn tả bước đi chầm chậm của mùa thu, khiến ta cảm nhận được khung cảnh sương bao trùm đầu ngõ. Sương thu đến không vội vàng, mà lại mơ hồ và châm rãi. Tác giả phải thốt lên “hình như”, là chưa chắc chắn, là phỏng đoán, nhưng thật ra trong thâm tâm nhà thơ, dường như ông biết rằng mùa thu đã đến rồi.

Từ cảm nhận của các giác quan, cảm xúc của tác giả về mùa thu dần hòa vào cảnh vật chung quanh:

“Sông được lúc dềnh dàng

Chim bắt đầu vội vã

Có đám mây mùa hạ

Vắt nửa mình sang thu."

Nước mùa thu dâng lên theo mùa, sự dâng lên ấy có gì đó gợn sóng, uyển chuyển. Những cánh chim trời cũng “vội vã” bay. Đất trời khi giao mùa dường như gấp gáp hơn, chuyển động hơn. Mùa thu lúc này hiện ra trong cảm nhận của nhà thơ mang hình thái rõ ràng, bởi nhà thơ đã nhận ra rằng mùa thu về. Đám mây mùa hạ được tác giả miêu tả vô cùng độc đáo, diễn tả quá trình chuyển mình của nhà thơ một cách nhẹ nhàng. Nhà thơ Hữu Thỉnh từng tâm sự: “Khi tôi viết bài thơ này tôi đã liên tưởng đến những đám mây mùa Hạ. Đó là những đám mây tràn trọn vẹn vào mùa Thu. Thế nhưng có gì ngăn cảm xúc của tôi lại theo chiều hướng đấy... Mây mùa Hạ thường chứa nhiều màu sắc, thậm chí đầy giông bão tựa hồ những ước mơ khao khát của tuổi trẻ. Những ước mơ khao khát ấy thường lấy đi rất nhiều sức lực của tuổi trẻ. Tuy nhiên giữa mơ và thực là hai thế giới luôn đối lập nhau và chẳng phải ước mơ nào cũng trở thành hiện thực.”

Đến với khổ thơ cuối, nhà thơ đã chiêm nghiệm mùa thu bằng cái nhìn của một đời người:

“Vẫn còn bao nhiêu nắng

Đã vơi dần cơn mưa

Sấm cũng bớt bất ngờ

Trên hàng cây đứng tuổi”

“Nắng”, “mưa” và “sấm” là những hiện tượng tự nhiên, thế nhưng ở đây nhà thơ không chỉ miêu tả cảnh thu, mà còn thể hiện cái nhìn về cuộc đời và con người. Tác giả đã mượn hình ảnh “hàng cây đứng tuổi” để nói lớp người từng trải, đã đi qua những gian khổ khó khăn, cũng như mùa thu vậy; mùa thu cũng là mùa của độ tuổi xế chiều. Có lẽ khi con người ta trải qua tuổi bồng bột, đến một lúc nào đó cần bình thản nhìn lại và nhẹ nhàng cảm nhận chúng. Khi mà người ta đã đi qua những ngày tháng gian khổ, dường như cuộc đời cũng chẳng thể đánh gục họ được nữa, nó khiến con người tĩnh lặng hơn, sâu sắc và nhiều tâm sự hơn.

Bài thơ “Sang thu” của Hữu Thỉnh là một bài thơ gần gũi, quen thuộc. Nó không chỉ miêu tả cảnh đất trời lúc sang thu, mà với em, bài thơ còn là tâm sự của một người từng trải, một người đã đi qua những ngày tháng khó khăn. Qua bài thơ này, em không chỉ cảm nhận được thiên nhiên lúc giao mùa, mà còn học được bài học về cuộc đời, về con người.

9. Cảm nhận Trao duyên

Truyện Kiều là một tác phẩm bất hủ của Nguyễn Du nói riêng và nền văn học nước nhà nói chung. Đoạn “Trao duyên” trích trong tác phẩm là đoạn đặc sắc khắc họa thành công dòng tâm trạng của Thuý Kiều khi ngậm ngùi trao duyên cho em gái Thuý Vân.

Theo mạch truyện, nguyện ước kết duyên trăm năm của Thúy Kiều và Kim Trọng chưa được bao lâu thì tai biến xảy đến với gia đình Kiều. Không đành lòng trước sự khổ sở mà cha và em phải gánh chịu, Kiều quyết định bán mình để cứu gia đình. Mọi việc dường như đã xong xuôi, Kiều thức trắng đêm nghĩ đến chàng Kim và tình yêu mặn nồng cùng chàng, vừa day dứt vừa tiếc nuối, Kiều đành cậy nhờ em gái kết duyên với Kim. Đoạn trích từ câu 723 đến câu 756 của tác phẩm:

Thuý Kiều mở lời với em:

"Cậy em em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.”

Cả cử chỉ và lời nói của Kiều đều chung một niềm trông mong, nhờ cậy. Hành động “lạy" em của Kiều đã đặt Thúy Vân vào tình huống khó có thể chối từ đồng thời cũng là dấu hiệu cho thấy việc mà Kiều sắp nói với Vân đây là vô cùng hệ trọng:

“ Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em”

Thành ngữ "đứt gánh tương tư" được tác giả vận dụng thể hiện có ý chỉ tình yêu dang dở của Kiều -Kim. Tình cảm của hai người vừa mới chớm nở, chưa kịp tới ngày viên mãn thì đành ‘đứt gánh”, sóng gió ập tới. Chấp nhận dở dang, Kiều ngậm ngùi trong khổ đau trao lại cho em mối “tơ thừa”. Kiều hiểu được sự thiệt thòi của Vân khi nhận chắp mối duyên với Kim Trọng, bởi dù với Kiều đó là tình yêu đẹp thì với Vân đó chỉ là mối “tơ thừa” mà thôi. Hai từ mặc em được tác giả đặt cuối câu cho thấy Kiều đang đặt hết kỳ vọng vào Vân, mong Vân thay mình làm vẹn tròn nghĩa nặng với chàng Kim.

Lời đã nói ra nhưng nào dễ trút đi những nỗi niềm trong tâm khảm. Dằn lòng mình, Kiều tâm sự với em những kỉ niệm đẹp của mối tình với Kim:

“Kể từ khi gặp chàng Kim,
Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề.”

Điệp từ "khi” được sử dụng như càng khẳng định tình cảm sắt son của Kiều và Kim Trọng. Họ đã gặp gỡ, hẹn hò, cùng nhau ước nguyện, uống chén rượu giao bôi. Đang sống trong những kỉ niệm đẹp, Kiều lại trở về với hiện thực phũ phàng, cay đắng:

“Sự đâu sóng gió bất kì,
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai.”

Cơn sóng gió ập tới bất ngờ khiến Kiều và gia đình lâm vào nguy biến. Giữa chữ hiếu với gia đình và chữ tình với Kim Trọng, nàng đã chọn chữ hiếu- bán mình để cứu cha và em. Nhưng vẹn đạo làm con, nàng đành buông tay với mối tình dang dở, trở thành kẻ phụ tình. Nàng nghĩ về tình yêu với chàng Kim, không muốn Kim phải chịu sự khổ đau như mình đang gặm nhấm, đành nhờ cậy Vân. Để thuyết phục em thêm, Kiều thủ thỉ:

“Ngày xuân em hãy còn dài,
Xót tình máu mủ thay lời nước non.
Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.”

Bốn câu thơ thốt lên bằng tất cả niềm hy vọng, sự mong cầu, bốn câu thơ như là một lời cầu xin tha thiết tự tận đáy lòng của Kiều. Sự thông minh của Kiều là khéo léo lấy niềm vui của mình được “thơm lây” nơi chín suối nhằm khiến Thúy Vân có không muốn cũng không thể chối từ. Hơn nữa, với Vân, những ngày tháng thanh xuân còn dài, Vân còn tuổi trẻ, còn thời gian còn với Kiều thì bán thân coi như là chấm dứt tuổi trẻ, chôn vùi thanh xuân của mình. Những lý do của Kiều đưa ra vừa hợp lẽ, hợp tình khiến Vân nào thể không nhận lời nhờ cậy từ người chị đáng thương.

Khi trao “chút của tin” - chiếc vành với bức tờ mây, Thúy Kiều nhớ đến đêm thề nguyền trong quá khứ, vừa thương tiếc vừa xót xa khôn nguôi, Kiều ngậm ngùi với nỗi đau đớn tột cùng:

“Mai sau dù có bao giờ
Đốt lò hương ấy, so tơ phím này
Trông ra ngọn cỏ lá cây,
Thấy hiu hiu gió thì hay chị về.”

Trao kỷ vật cho em mà lòng đau như cắt, mâu thuẫn trong nội tâm nàng lên đến đỉnh điểm, tay muốn trao mà lòng không nỡ. Đó là sự mâu thuẫn giữa thân phận và nhân cách, giữa lí trí và tình cảm nơi Kiều. Có lẽ với nàng lúc này đây, tình chưa cạn mà đành phải dứt là nỗi đau khôn cùng, sống mà không có được hạnh phúc thì khác gì không tồn tại, vì vậy mà cái chết cứ ám ảnh trong tâm trí nàng.

Sáu câu cuối đoạn trích là lời độc thoại đầy thổn thức của Kiều. Nàng như quên hẳn mình đang trò chuyện với Vân mà sống trong tâm trạng của chính mình, lời day dứt thốt lên trong nỗi mặc cảm phụ tình:

“Trăm nghìn gửi lạy tình quân,
Tơ duyên ngắn ngủi có ngần ấy thôi.
Phận sao, phận bạc như vôi?
Đã đành nước chảy hoa trôi lỡ làng”.

Kiều gửi trăm nghìn lạy cho tình quân của mình là hành động tạ từ tha thiết, chân thành, là cái cúi chào tạm biệt trong nỗi đau chia ly. Tơ duyên tưởng sẽ dài lâu, bền đẹp nào ngờ “ngắn ngủi” giữa đoạn đường. Kiều trách phận mình bạc bỗi như vôi trầu, như hoa chảy bèo trôi giữa dòng, đành chấp nhận tình lỡ làng, xa cách. Thành ngữ “bạc như vôi” cất lên trong tiếng đau thương rỉ máu của Kiều nghe sao xót xa, bi ai đến phẫn cực.

“Ôi Kim lang! Hỡi Kim lang!
Thôi thôi thiếp đã phụ chàng từ đây!”

Đến cuối cùng, Kiều vẫn nghĩ cho người khác. Nỗi đau mà nàng đang chịu vô bờ mà vẫn tự trách mình là kẻ phụ bạc, lo lắng cho người thương. Những gọi Kim Lang cất lên trong tha thiết càng tô đậm thêm trái tim nhân hậu, trọng nghĩa trọng tình của Thuý Kiều.

Đoạn trích "Trao duyên" tuy không quá dài là một đoạn tích vô cùng đặc sắc. Qua đó là thấy được vẻ đẹp của một tấm lòng thuỷ chung, son sắt, thấu hiểu nỗi đau đớn giằng xé tâm can của người con gái trong tình yêu và cảm nhận được tính nhân văn cao cả trong từng tứ thơ mà Nguyễn Du sáng tạo nên.

10. Cảm nhận Thơ duyên

Mỗi khi nhắc đến Xuân Diệu người ta sẽ nhớ ngay tới một thi sĩ với khả năng quan sát tinh tế, tình cảm say mê nồng cháy. Trong các bài thơ của ông, người đọc luôn thấy tình yêu cuộc sống, sự trân quý mọi khoảnh khắc của cuộc đời, của vạn vật và "Thơ duyên" là một trong những bài thơ như vậy. Ở bài thơ, người đọc có thể cảm nhận được sự tinh tế của thi sĩ trong việc tái hiện sự trôi chảy của thời gian và hồn thu, tình thu cũng được khắc họa rõ nét qua ngòi bút tài hoa này.

"Thơ duyên" là khúc hát say mê, nhạy cảm với cuộc đời. Chữ "duyên" có thể hiểu là sự giao cảm, hòa nhịp với thiên nhiên đất trời, con người. Vốn là một con người dễ rung động trước cái đẹp, lại là người đa sầu đa cảm nên nhà thơ lại càng trân trọng sự chuyển động của thời gian và cụ thể ở bài thơ này là sự chuyển giao giữa hạ sang thu. Không chỉ đến bài thơ này thi sĩ mới viết về mùa thu mà trong tập "Thơ thơ" độc giả cũng đã bắt gặp "nàng thơ" với sự "ngẩn ngơ", u sầu trong "Đây mùa thu tới". Còn "Thơ duyên" bắt đầu với những hình ảnh trong sáng, nhẹ nhàng.

"Chiều mộng hòa thơ trên nhánh duyên,
Cây me ríu rít cặp chim chuyền.
Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá,
Thu đến - nơi nơi động tiếng huyền."

Nhìn tổng thể cảnh vật mùa thu qua khổ một có thể thấy đây là một bức tranh sinh động và nên thơ. Với không gian là buổi "chiều mộng" - lãng mạn, êm ái hòa vào đó "thơ trên nhánh duyên" gợi nên khung cảnh trữ tình. Vạn vật dường như cũng vui mừng, hò reo khi thu về khi có "cặp chim chuyền" đang ríu rít trên "cây me". Động từ "ríu rít" lột tả được phấn khởi, vui vẻ khi chúng liên tiếp "chuyện trò" với nhau. Hình ảnh cây me cũng gợi nhớ lại Hà Nội xưa cũ, một phần của quê hương xứ sở. Cùng lúc đó cả "bầu trời", "lá" đều chuyển sang màu ngọc. Sắc màu này đã từng được nhà thơ Hàn Mạc Tử nhắc đến qua "Vườn ai mướt quá xanh như ngọc" (Đây thôn Vĩ Dạ). Màu sắc gợi lên cảm giác trong xanh cùng với động từ "đổ" tạo cảm giác dứt khoát, lan tràn. Bây giờ không gian không chỉ nhuốm màu xanh mà còn tươi vui, rộn rã với "động tiếng huyền". Cụm từ "thu đến" như một tiếng reo vui mừng, phấn khích cho mơ ước bấy lâu giờ đã thành hiện thực.

Nếu như đối với khổ thơ đầu, tác giả vẽ nên bức tranh thiên nhiên thì khổ kế tiếp nhà thơ đã tinh ý khi lồng vào đó chút tình cảm riêng tư.

"Con đường nhỏ nhỏ gió xiêu xiêu,
Lả lả cành hoang nắng trở chiều.
Buổi ấy lòng ta nghe ý bạn
Lần đầu rung động nỗi thương yêu."

Từ tầm nhìn trên cao tác giả "kéo" không gian của mình xuống gần hơn. Thi sĩ liên tiếp sử dụng từ láy hoàn toàn như "nho nhỏ", "xiêu xiêu", "lả lả" gợi sự đáng yêu trên nền nắng chiều. Động từ "trở" đầy sức gợi, mang đến cảm giác chuyển mình. Nếu từ "chiều" ở khổ một còn mang nét huyền huyền ảo ảo thì với khổ thơ này nó mang nét mạnh mẽ, "đậm nắng" hơn. Trong cái sắc hương của trời đất khi sang thu, thi sĩ nhớ lại lần rung động đầu tiên của mình. Thêm một động từ nữa cũng kích thích trí tò mò của độc giả không kém là "nghe". "Nghe" ở nghĩa tường minh tức là sử dụng thính giác để lắng nghe âm thanh của cuộc sống, nhưng ở nhân vật "ta" hành động "nghe" lại chỉ ra được tâm ý, sự thầm thương, phải lòng "cố nhân". Đó là cách dùng từ vô cùng đặc sắc của tác giả.

"Em bước điềm nhiên chẳng vướng chân
Anh đi lững đững chẳng theo gần."

Hình ảnh của sự "rung động" ấy được tái hiện rõ hơn. Nhân vật "em" và "anh" cùng dạo bước trên con đường nhỏ. "Em" thì hồn nhiên, ngây thơ bước đi không hề bận tâm gì. Còn "anh" thì "lững đững" - trạng thái thoải mái, thong dong. Hai con người xa lạ bỗng gặp nhau trên con đường nhỏ, tưởng xa hóa lại gần. Quả là cái duyên tiền định!

"Vô tâm - nhưng giữa bài thơ dịu,
Anh với em như một cặp vần."

"Vô tâm" phải chăng là sự lãnh cảm, rời xa hay chính là cái xa lạ nhưng có sự giao lưu, kết nối. Với thủ pháp so sánh nhà thơ Xuân Diệu đã đưa ra quan niệm của mình về chữ "duyên". Đối với ông thiên nhiên hòa hợp với thiên nhiên, con người say đắm trước cảnh vật vẫn là chưa đủ mà còn một "cặp bài trùng khác" là sự giao duyên giữa con người với nhau. Chẳng thế mà dù em vô tư bước đi không để ý gì về người đằng sau, còn anh thong dong ngắm nhìn trời đất cũng không đoái hoài gì người phía trước nhưng giữa họ lại có sự kết nối như "cặp vần" - gắn bó khăng khít, không thể tách rời. Một nhân sinh quan thật mới mẻ!

"Mây biếc về đâu bay gấp gấp,
Con cò trên ruộng cánh phân vân.
Chim nghe trời rộng giang thêm cánh,
Hoa lạnh chiều thưa sương xuống dần."

Khổ bốn mang đến cho độc giả cảnh thu trên không gian rộng lớn. Hoạt động của thiên nhiên cũng dần dồn dập, nhanh chóng hơn. Từ láy "gấp gấp" tạo cảm giác hối hả, thúc giục. Tuy nhiên cụm từ "về đâu" lại đặt ra câu hỏi cho nơi đến của mây. Cùng với mây, con cò dường như cũng "phân vân", đắn đo không biết nên bay lên cao hay xuống thấp, bay gần hay bay xa. Chiều thu tàn bắt đầu có chút gì đó bâng khuâng, bầu trời trải rộng ra và dường như cánh chim cũng đã thích nghi với điều này để rồi "giang thêm cánh". Thi sĩ gán cho chim với động từ "nghe" như để sinh vật này hiểu được bầu trời, cảm nhận được thiên nhiên rồi từ đó điều chỉnh để thích nghi. Cách nhà thơ sử dụng cái hữu hạn (cánh chim) để diễn tả cái vô hạn (bầu trời) là một thủ pháp hay và ý vị. Người đọc dễ dàng hình dung được một cánh chim không mỏi, bay miệt mài trên nền xanh của bầu trời. Và càng chìm dần vào chiều thu, sương càng rơi xuống nhiều. "Hoa lạnh" vì có thể do "đẫm sương" hoặc do cơn gió nào đó. Chiều mùa thu bắt đầu lạnh làm cho người đọc cũng mang chút gì xao xuyến, bâng khuâng.

Đến khổ thơ cuối cùng, nhân vật trữ tình lại hồi tưởng về mối tình đầu của mình, về những rung động đầu đời lồng ghép vào trong hình ảnh thiên nhiên. Hình ảnh nhân hóa "bước thu êm" như sự chuyển động nhẹ nhàng, dịu dàng của nàng thu. Từ "êm" gợi cảm giác dễ chịu, thoải mái. Trên nền thu dịu dàng , e ấp "anh" lại nói về sự rung động của mình khi gặp em - "lòng anh thôi đã cưới lòng em". Động từ "cưới" như một sự chắc nịch rằng anh đã phải lòng em và tấm lòng của anh chỉ hướng tới em. Động từ này còn nói lên sự gắn bó, xem "em" như là "mảnh ghép" còn lại của đời mình.

Bài thơ "Thơ duyên" không chỉ xuất sắc về nội dung mà ở khía cạnh hình thức bài thơ cũng đã làm rất "tròn vai" của mình. Bên cạnh việc sử dụng các từ láy, phép nhân hóa, các từ ngữ đặc sắc một nét khá đặc biệt trong bài thơ là cách ngắt câu. Thường thường ở thơ bảy chữ mà có bốn câu thì chỉ chấm kết thúc ở dòng cuối cùng ở mỗi khổ nhưng với "Thơ duyên" thì khác, dòng một với dòng ba là có dấu chấm phẩy khi kết thúc dòng. Còn dòng hai với dòng bốn là dấu chấm. Tức là hai dòng sẽ tạo thành một câu. Đây là một nét lạ và sáng tạo của Xuân Diệu.

Bằng ngòi bút giàu nhiệt huyết, tình yêu sôi nổi của một con người luôn trân quý, nắm bắt thời gian nhà thơ Xuân Diệu đã khắc họa nên bức tranh thiên nhiên với nhiều hình ảnh, nhiều sắc thái đặc trưng của mùa thu. Cùng với đó tác giả đã viết nên sự rung động đầu đời của mình - sự giao cảm, kết nối giữa những con người tưởng chừng xa lạ nhưng lại là cái duyên đã được sắp đặt sẵn. Tình duyên nảy nở trong tình thu!

11. Cảm nhận Mùa xuân chín

Không biết mùa xuân có tự bao giờ và thơ xuân có tự bao giờ, chỉ biết người ta sinh ra đã có mùa xuân đẹp đầy sức sống và thổi vào các hồn thơ, sống trong cuộc đời, nếu thiếu đi mùa xuân, thiếu đi những câu thơ xuân thì thật buồn. Hôm qua, hôm nay và ngày mai kia lại có những vần thơ xuân cho con người, cho cuộc sống. Và hôm qua đã có Hàn Mặc Tử với “Mùa xuân chín” khi cảm xúc trong con người lữ khách đó đã đến độ tràn đầy.

Nói đến mùa xuân, có ai không hiểu đó là những phút rạo rực nhất của cuộc đời, của cuộc sống. Mùa xuân mỗi khoảnh khắc một vẻ, lúc là “mùa xuân nho nhỏ”, lúc là “mùa xuân xanh”… và đây “Mùa xuân chín” nghe vừa mới, vừa sôi nổi, vừa có một sức sống dồn nén đang thầm nảy nở giống như cái mới, cái lãng mạn và khao khát trong tâm hồn Hàn Mặc Tử.

Mỗi dòng thơ đều phảng phất hơi xuân, đều thấm đượm cái đẹp của tâm hồn thi sĩ. Mùa xuân bắt đầu từ cái nắng mới lạ thường:

“Trong làn nắng ửng khói mơ tan
Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng
Sột soạt gió trêu tà áo biếc
Trên giàn thiên lí bóng xuân sang”.

Đúng là nắng xuân, chẳng phải tia nắng, hạt nắng, chẳng phải giọt nắng mà là “làn nắng”. Chữ “làn” như gợi một hơi thở nhẹ nhàng, nắng như mỏng tang, mềm mại trải đều trong thơ và trong không gian. Làn nắng lại “ửng” lên trong “khói mơ tan”. Cảnh sắc nhẹ nhàng, đẹp dân dã mà huyền diệu. Sương khói quyện với nắng; cái “ửng” của nắng được tôn lên trong làn khói mơ màng đang “tan” ấy. Ngòi bút thi sĩ vẫn hướng đến một nét thơ truyền thống, cổ điển, cảnh như có hồn, như có tình chan chứa. Trân trọng đón lấy cái nắng mới tinh khiết ấy là “Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng’!. Sự hô ứng trong vần thơ tạo ra một cảm xúc ấm áp, cảnh vật cân xứng hài hòa, đầy thơ mộng. Vài nét chấm phá đơn sơ mà tinh tế gợi cảm, dung dị mà đáng yêu. Chỉ có “đôi mái nhà tranh” hiện lên trong “làn nắng ửng” nhưng vẫn gợi lên một sức sống đang lay động, dân dã bình yên rất thân thuộc với mọi người. Nắng như đang rắc lên “đôi mái nhà tranh” chút sắc xuân và hương xuân: “Sột soạt gió trêu tà áo biếc”. Cái âm thanh của gió “trêu” tà áo và cái gam màu “biếc” của, lá cây là cái tình xuân. Một chữ “trêu” đáng yêu quá, thân thương quá, có gì như mang hương sắc đồng quê từ những câu ca dao, hát ghẹo tình tứ thuở nào cứ ngân nga mãi trong lòng ta… Gió cũng chọn áo mà “trêu”, phải chọn áo biếc mới thật thơ, thật đẹp. Mùa xuân là như thế, “chín” là như thế

Từ cụ thể, từ làn nắng, từ mái nhà tranh, từ gió rồi mới khái quát: “Trên giàn thiên lý. Bóng xuân sang”. Câu thơ có một sự ngưng đọng, ngập ngừng cảm xúc nhẹ nhàng, bâng khuâng, vấn vương đón “bóng xuân sang”, cảm xúc ngưng tụ như nín thở ấy ẩn mình vào dấu chấm giữa dòng thơ. Mạch thơ ngập ngừng như mạch cảm xúc. Bên giàn thiên lí, mùa xuân đã sang. Mùa xuân nhẹ nhàng bước… như có thể cầm được, có thể ngắm được ngay trước mắt mỗi chúng ta.

Sau dấu chấm (.), sau cái ngưng tụ và run rẩy như dây đàn căng lên trong tâm hồn nhà thơ thì mùa xuân ào đến:

“Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời,
Bao cô thôn nữ hát trên đồi”.

Cỏ như xanh mãi, tươi mãi trong không gian mênh mông, bao la. Hình ảnh ẩn dụ “sóng cỏ” và ba chữ “gợn tới trời” gợi tả làn cỏ xanh dập dờn trong làn gió xuân nhè nhẹ thổi. Chẳng biết ngoài kia là sóng cỏ thật , hay lòng thi sĩ cỏ xanh tươi mới gợn thành “sóng” như thế? Mùa xuân bao giờ chẳng có màu xanh của cỏ. “Cỏ xanh như khói bến xuân tươi” (Độ đầu xuân thảo lục như yên – Nguyễn Trãi). “Cỏ non xanh tận chân trời” (Nguyễn Du)… Gam màu “xanh tươi” đầy sức sống yên bình ấy trong thơ Hàn Mặc Tử cứ gợn tới trời”, trải dài mãi như không dứt, trải mãi, ngâm vào hồn thơ. Trong sắc xuân ấy, tình cảm con người cũng đến độ chín. Tiếng hát giữa mùa xuân thân quen quá, yêu thương quá. Một nét đẹp truyền thống của dân tộc, đẹp như ca dao, dân ca, như lễ hội mùa xuân muôn thuở của cái xứ sở này được nói đến qua tiếng hát “vắt vẻo” và “thơ ngây” của những nàng xuân, của bao cô thôn nữ. Câu thơ gợi lên cái “chín” trong hồn bao cô thôn nữ qua âm thanh “vắt vẻo”, trong trẻo, tươi mát của câu hát giao duyên, của trai gái nơi đồng quê, mộc mạc mà tình tứ. Tâm hồn nhạy cảm, yêu cuộc sống thiết tha của thi sĩ Hàn Mặc Tử đã bắt vào lời hát ấy nhiều xao xuyến. Mùa xuân mới thực sự “chín” khi có con người và có dư âm tiếng hát:

“Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi,
Hổn hển như lời của nước mây
Thầm thì với ai ngồi dưới trúc
Nghe ra ý vị và thơ ngây”.

Âm thanh đọng lại trong từng tiếng thơ, độ ngân rung, “vắt vẻo” hòa nhịp với âm trầm “hổn hển” thể hiện một sự chuyển đổi cảm giác rất tinh tế, tài tình. Tâm hồn thi sĩ đã hòa nhập hẳn vào cái thế giới âm thanh mùa xuân ấy.

Tiếng ca như vút lên cao, như ngập ngừng, như lưu luyến giữa “lưng chừng núi”. Dư âm tiếng hát dường như giăng mắc, rung lên “vắt vẻo” gợi lên nhiều xao xuyến bâng khuâng trong lòng nhà thơ. Tiếng hát “hổn hển” được so sánh “với lời của nước mây”, lời của thiên nhiên. Hai tiếng “hổn hển” như nhịp thở gấp gáp, vội vàng đầy hương xuân, tình xuân, cảm xúc vừa thực vừa mơ đến lạ kì. Lời hát của các cô thôn nữ sao mà đáng yêu thế, như hút hồn người, như tràn ngập cả không gian, góp phần làm nên một “mùa xuân chín”. Và còn có tiếng thầm thì “thầm thì với ai…” dưới bóng trúc, hẳn là tâm sự, là thân thương rồi. “Vắt vẻo”, “hổn hển”, “thầm thì” là ba cung bậc của ba âm thanh mùa xuân đang chín, thấm sâu vào hồn người đến nhẹ nhàng lắng dịu, chan chứa thương yêu. Sự phong phú về giai điệu và phức điệu của khúc hát đồng quê, làm say mê mọi người, để rồi cùng nhà thơ bâng khuâng cảm nhận: “Nghe ra ý vị và thơ ngây…”.

Tiếng hát mùa xuân dân dã, tình tứ và đáng yêu quá, sắc xuân, hương xuân, tình xuân “đang chín” dần trong lòng thôn nữ, bỗng ngập ngừng như có sự hẫng hụt, băn khoăn:

“Ngày mai trong đám xuân xanh ấy,
Có kẻ theo chồng, bỏ cuộc chơi”.

“Đám xuân xanh ấy” là các cô thôn nữ đang hát, đang “thầm thì với ai ngồi dưới trúc” kia sẽ chín cùng mùa xuân và sẽ “theo chồng bỏ cuộc chơi… Thiên nhiên và lòng người như quyến luyến mùa xuân dần trôi qua, tuổi xuân hồn nhiên dần trôi qua. Hàn Mặc Tử như chợt thấy buồn, thấy hẫng hụt, bâng khuâng, như mất mát đi một cái gì trong lòng khi mùa xuân đang chín… “Xuân đang tới nghĩa là xuân đương qua – Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già” (Xuân Diệu).

Hàn Mặc Tử chính là người lữ khách đi qua mùa xuân gặp cái ý vị của mùa xuân: “Khách xa gặp lúc mùa xuân chín…”. Một nét bút truyền thống cổ điển “xuân hướng lão” xen lẫn cái hiện đại, mới mẻ làm cho ý thơ thêm đậm đà hơn.

Gặp lúc mùa xuân chín ấy mà thổn thức:

“Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng
Chị ấy năm nay còn gánh thóc
Dọc bờ sông trắng nắng chang chang”.

Hình ảnh của kí ức hiện lên một thoáng buồn đẹp và trải rộng mênh mông xa vắng. Nhà thơ nhớ đến con người như khao khát một tình người, một tình quê. Mỗi một nổi nhớ đều rất bâng khuâng. Nhớ một công việc cụ thể: “gánh thóc” trong một không gian cụ thể: “Dọc bờ sông trắng nắng chang chang”. Chỉ có “chị ấy” là người đọc không thể biết mà chỉ có tác giả mới biết để mà “sực nhớ”, mà thầm hỏi. Mà man mác sợ “mùa xuân chín” ấy sẽ trôi qua. Hình như đó là néi thơ Hàn Mặc Tử, là tâm hồn Hàn Mặc Tử khao khát giao cảm với đời mà luôn có một nỗi niềm cô đơn, trống vắng, hẫng hụt như thế.

“Mùa xuân chín” là một bài thơ xuân rất hay, là một bức tranh xuân mới nhất, trong sáng, rạo rực, say mê, thơ mộng mà thoáng buồn nhất. Hàn Mặc Tử vơi cảm hứng thiên nhiên trữ tình, màu sắc cổ điển hài hòa với chất dân dã, trẻ trung bình dị đã làm hiện lên một bức tranh xuân tươi tắn thơ mộng. Mùa xuân đẹp. Con người trẻ trung, hồn nhiên, xinh đẹp, đáng yêu. Yêu mùa xuân chín cũng là yêu đồng quê, yêu làn nắng ửng, yêu mái nhà tranh, yêu giàn thiên lí, yêu tiếng hát vắt vẻo của những nàng xuân trên “sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời”.

“Mùa xuân chín” lúc thì dạt dào, lúc thì lắng dịu trong tâm hồn thi sĩ. Có lúc vồn vã, có lúc mênh mang, như đang lắng hồn mình vào bước đi của mùa xuân rồi bồi hồi, “sực nhớ… ” và “bâng khuâng”. Cái nhớ bâng khuâng của người lữ khách mãi mãi là tình thương mến, nỗi khát khao giao cảm với hương sắc và khúc nhạc mùa xuân, với làng quê thân thuộc nơi miền Trung “Dọc bờ sông trắng nắng chang chang”…

12. Cảm nhận Thơ tình cuối mùa thu

Giống như ngọn gió mang theo phấn thông vàng, cuộc sống ủ thơ ngay trong lòng của chính nó. Từ bao giờ, thơ ca tồn tại tự nhiên như hơi thở, như nước uống giữa cuộc đời trần. Người nghệ sĩ như con ong chăm chỉ rưới mật thơ vào hồn người để từ đó dậy lên bao chất tình đằm thắm. Muôn đời thơ là một phần tâm linh gắn bó máu thịt với cuộc sống và con người. Những hạt phấn thông, những giọt mật qúy đã làm nên sức sống linh điệu đó. Con người vẫn không ngừng tìm kiếm phấn thông, không thôi khám phá cái say nồng của mật ngọt và đem hồn mình, tình mình để lí giải thế nào là một bài thơ hay? Cất lên từ một trái tim yêu nồng nàn, tha thiết, nảy mầm từ một chồi non sắc biếc trong trẻo, chân thành, Thơ tình cuối mùa thu là một bài thơ hay, là một chỉnh thể giàu thẩm mĩ.

Từ bao giờ cho đến bây giờ, từ Hômerơ cho đến Kinh Thi, đến ca dao Việt Nam, thơ vẫn là một sức đồng cảm mãnh liệt và quảng đại (Hoài Thanh). Đó là điệu hồn lắng sâu, là tấm tình tha thiết, thao thức đập cùng niềm vui, nỗi buồn của triệu triệu con tim. Một bài thơ hay phải là tiếng nói hồn nhiên của xúc cảm, phải bắt rễ từ cuộc đời và trôi chảy nguồn nhựa ấm nóng từ nhân gian. Cái gốc của thơ là trữ tình, đựng tình, tình có trào dâng, thơ mới lên tiếng, tình có nặng sâu, thơ mới ngân vang. Thơ hay phải bộc lộ chân thực tình cảm của cái tôi trữ tình. Đọc thơ mà thấy được cái thổn thức của một tiếng khóc thương, cái náo nức của một lời reo vui, cái mê đắm của tình yêu tuổi trẻ... Ấy là khi ta đón được hồn cốt của một bài thơ hay. Hồn cốt ấy phải được gói đựng trong một hình thức sáng tạo, độc đáo. Bởi cũng như các thể loại văn học khác, một tác phẩm thơ hay phải là một chỉnh thể thẩm mĩ, là sự gắn bó, quyện hòa giữa hai mặt hình thức và nội dung. Thơ hay như người con gái đẹp (ý Chế Lan Viên) không chỉ lôi cuốn người ta bằng y phục, dáng hình mà còn làm mê đắm lòng người bằng vẻ đẹp Ìihân phẩm bên trong. Thơ chỉ hay khi kết tinh cao độ sự độc đáo, mới lạ của hình thức và sự sâu kín, tế vi của nội dung, là một chỉnh thể thống nhất, hài hòa.

Không một xúc cảm nào lại mãnh liệt và chân thành hơn những rung động trong tình yêu, không một trái tim nào thức đập mạnh hơn những say đắm, mong nhớ, đợi chờ... Tình yêu chính là bài ca muôn đời của cuộc sống mà ở đó cái tôi trữ tình - cái tôi đang yêu được bộc lộ chân thực là mình. Xuân Quỳnh đã sống say đắm, đã yêu hết mình, đã khao khát rất mực chân thành trong những dòng thơ tình yêu đầy mê mải, thiết tha của mình. Thơ tình Xuân Quỳnh là những nhịp đập nồng nàn của một trái tim yêu, là tiếng nói âm vang, ấm nóng dội lên từ tâm thức một người phụ nữ nhiều khao khát, lắm mê say, luôn tôn thờ và tuyệt đôi hóa tình yêu. Thơ tỉnh cuối mùa thu - bài thơ nhỏ nhắn như lá, trong trẻo như mây mất kết tinh, lắng đọng cái tinh chất, nhụy thơm của mùa, cái say mê, vĩnh cửu, bất tận của tình yêu đôi lứa. Với thể thơ năm chữ rất thành công (Sóng, Thuyền và biển, Sân ga chiều em đi...), với tính nhạc dìu dặt, nhịp nhàng, bài thơ như một khúc hát âm vang vẫn ngân nga những giai điệu đắm say của nó trong những trái tim đang yêu:

Cuối trời mây trắng bay,

Lá vàng thưa thớt quá.

Không gian thu trong sáng, rộng mở với hai màu chủ đạo: trắng và vàng. Sắc trắng của mây là nền, sắc vàng của lá điểm xuyết, tất cả tạo nên một bức tranh trong trẻo, yên bình, gợi vào lòng người một chút xốn xang. Xuân Quỳnh đã dùng từ rất trúng thưa thớt để tả sẩc lá cuối thu, tạo nên một màu vàng điểm xuyết, tạo một điểm nhấn ấn tượng cho bức tranh thu. Hai câu thơ đầu tiên đã thu vào được một không gian thu điển hình, sắc thu điển hình, mà lại là cuối thu. Bức tranh cuối thu với mây, với lá không gợi buồn mà con người lạc vào không gian ấy chỉ cảm thấy độ chín của mùa, độ trong của không gian, độ tĩnh lặng của lòng người.

Phải chăng lá về rừng

Nghệ thuật vắt dòng được Xuân Quỳnh sử dụng rất khéo léo với phép lặp từ lá. Câu hỏi tu từ gieo vào lòng người những băn khoăn, bâng khuâng, mở ra nhiều chiều liên tưởng rộng rãi. Lá về rừng hay con người về về nguồn cội, về với chốn thanh bình đích thực của riêng mình?

Mùa thu đi cùng lá

Mùa thu ra biển cả

Theo dòng nước mênh mang

Nghệ thuật vắt dòng và lặp từ lại tiếp tục được triển khai. Không gian được vận động, mở rộng. Những dòng thơ tự nhiên, chân thật dẫn người đọc dạo quanh mùa thu, đi cùng lá, ra biển cả, theo dòng nước... để đến với một tình yêu đẹp. Người ta không chỉ cảm nhận được sự vận động của không gian, bước đi dạo chơi của mùa mà còn nghe thây những nhịp đập hối thúc trong cảm xúc, tâm tư. Câu thơ mềm mại, hình ảnh trong sáng, tính nhạc dặt dìu, tất cả tạo nên một cảm giác yên bình, trong lành, tươi mát của mùa thu, tình thu.

Mùa thu và hoa cúc

Chỉ còn anh và em

Chỉ còn anh và em

Là của mùa thu cũ

Trong không gian rộng mở và vận động không ngừng ấy nhấn lên một điểm nhấn điển hình: hoa cúc. Đặt mùa thu sánh đôi cùng hoa cúc để so sánh với sự sánh đôi của tình anh - tình em, Xuân Quỳnh không những đã chỉ ra tinh chất của mùa mà còn nâng tình yêu đến chỗ bất tử hóa, vĩnh viễn hóa. Nếu hoa cúc làm nên cả mùa thu thì tình yêu của anh, của em là bất diệt, duy nhất. Câu thơ lặp đi lặp lại như một điệp khúc tình yêu: Chỉ còn anh và em - Chỉ còn anh và em. Điệp khúc như vang lên từ trong tâm thức, khẳng định, nhấn mạnh sự vĩnh cửu, bền vững, không đổi thay của một tình yêu chung thủy. Tình yêu đó thuộc về một mùa thu cũ, một mùa thu vĩnh hằng. Thời gian qua đi, nhưng mùa thu ở lại, tình yêu đôi ta ở lại với những vẻ đẹp muôn đời của nó.

Chợt làn gió heo may

Thổi về xao động cả

Lối đi quen bồng lạ

Cỏ lật theo chiều mây

Đêm về sương ướt má

Khoảnh khắc cuối thu, khoảnh khắc giao mùa như kéo nhà thơ, đánh thức nhà thơ trở về với hiện thực. Xuân Quỳnh đã lựa chọn một chi tiết rất điển hình và tê vi của khoảnh khắc cuối thu, chớm đông: làn giò heo may để diễn tả những xao động của mùa, những rung động của lòng. Phải có một giác quan tinh tế, phải có một tâm hồn nhạy cảm, Xuân Quỳnh mới đón được những giây phút giao mùa, mới cảm được cái se lạnh của gió heo may. Đó không chỉ là sự xao động của gió, không chỉ là những biến chuyển của mùa mà còn là những xúc cảm của tâm hồn khi đón nhận bước đi của thời gian. Làn gió heo may hay cái. tình của con người khiên lôi quen bỗng lạ. Sự phi lí của hiện-thực lại là có lí trong thơ, có lí trong tình yêu. Lôi quen trong mắt nhìn của một tâm hồn nhạy cảm lúc giao mùa, của một trái tim yêu đầy say đắm, nhiệt thành bỗng trở nên mới lạ.

Cỏ lật theo chiều mây

Không gian như giao hòa, như nối liền trời và đất, cỏ và mây. Động từ lật được sử dụng đầy tế vi và độc đáo, dường như Xuân Quỳnh có thể cảm nhận được từng bước động của không gian, từng bước đi của thời gian. Bức tranh cuối thu như được nối dài bất tận với một sắc xanh nối liền của cỏ, của mây, của trời, của đất. Người ta không chỉ cảm nhận được sắc màu của không gian mà còn như chạm vào được cái tươi non, ngút ngàn, đầy sức sống của sắc màu ấy, không gian ấy.

Đêm về sương ướt má

Những nét động rất khẽ, rất êm của mùa của được Xuân Quỳnh thu nhận rất tinh tế. Làn sương hôn đôi má, thiên nhiên hòa quyện với con người tạo nên nét đa tình, phong tình cho câu thơ. Dường như tình yêu của con người cũng như thấm quyện vào tình yêu của thiên nhiên.

Hơi lạnh qua bàn tay

Gió heo may không chỉ làm lôi lạ, cỏ lật, sương ướt má, mà còn được cảm nhận bằng hơi lạnh qua bàn tay. Sự cảm nhận bằng xúc giác rất chân thực mà đầy tinh tế. Con người như hứng cái lạnh của đất trời, thu vào mình cái khoảnh khắc của phút gian mùa:

Tình ta như hàng cây

Đã bao mùa bão gió.

Tình ta như dòng sông

Đã yên ngày thác lũ

Phép lặp và tính nhạc đến đây đã phát huy hết hiệu quả nghệ thuật, hiệu ứng thẩm mĩ của nó. Những câu thơ dìu dặt, nhịp nhàng như một khúc hát về tình yêu muôn đời, tình yêu bất diệt. Những hình ảnh so sánh thật gần gũi, giản đơn nhưng lại chở đi những ý nghĩa sâu sắc khôn cùng. Hàng cây qua mưa gió, dòng sông qua thác lũ, và tình yêu của chúng ta, sau bao gian khó, thử thách vẫn bền vững, trường tồn. Khúc ca trở nên say mê hơn bao giờ hết, những ước vọng tình yêu trở nên rạó rực hơn bao giờ hết. Nghe trong khúc hát say mê ấy những khát vọng yêu đương đẹp đẽ, rạng ngời của tuổi trẻ, những tin tưởng tha thiết về một tình yêu chung thủy, vĩnh hằng:

Thời gian như là gió

Mùa đi cùng tháng năm

Tuổi theo mùa đi mãi

Chỉ còn anh và em

Chỉ còn anh và em

Cùng tình yêu ở lại

Xuân Quỳnh đã lấy gió để so sánh với bước đi của thời gian, lấy cái hữu hạn của đời người để đốì lập với cái vô hạn của mùa, của năm tháng. Ta như lại bắt gặp những ý niệm thời gian trong những nhịp đập cồn cào của Sóng

Cuộc đời tuy dài thế

Năm tháng vẫn đi qua

Như biển kia dẫu rộng

Mây vẫn bay về xa

Xuân Quỳnh luôn ý thức được sự trôi chảy của thời gian, sự phai tàn của tuổi trẻ nhưng sự ý thức ấy không có cái đau đớn, e sợ lỡ làng, muộn màng, không kịp, lỡ thì như trong thơ Xuân Diệu. Xuân Quỳnh để dòng thời gian trôi chảy trong thơ mình nhưng cuối cùng lại gạn lọc ra cái tính chất của đời vĩnh hằng tồn tại, đó chính là tình yêu:

Chỉ còn anh và em

Chỉ còn anh và em

Cùng tình yêu ở lại

Điệp khúc tình yêu say mê lại được vang lên đầy tha thiết. Trái tim yêu của người nữ sĩ không thôi tin tưởng, không ngừng khẳng định sự trường tồn, bất tử của tình yêu con người. Tình yêu chính là lẽ sống ở đờì, là phương thức để vĩnh hằng cùng dòng trôi chảy của thời gian. Năm tháng có qua đi, tuổi trẻ có qua đi, nhưng những nhịp đập mê mải của tình yêu đôi lứa vẫn không ngừng hối thúc, rạo rực trong triệu triệu trái tim.

Kìa bao người yêu mới

Đi qua cùng heo may

Hai câu thơ kết là tiếng gọi những người yêu nhau hãy đi theo những nhịp bước của trái tim mình, đi theo sự hối thúc của tình yêu. Hình ảnh gió heo may được lặp lại, không chỉ là một điểm nhấn điển hình của mùa thu, mà còn sánh bước cùng tình thu, tình người: Đi qua cùng heo may. Câu thơ khép lại bài thơ mà mở ra bao nhiêu tình yêu mới, mà hứa hẹn những yêu thương say đắm ngàn đời.

Nhan đề bài thơ là Thờ tình cuối mùa thu, nhưng người đọc lại không cảm nhận thấy nỗi buồn của một sự chấm dứt, sự luyến tiếc một cái gì sắp qua đi, mà lại thấy ngời lên trong tim mình những tin tưởng mãnh liệt, những hứa hẹn tình yêu tươi tắn, rạng ngời. Bài thơ không chỉ có độ chín của một sự trải nghiệm sâu sắc mà còn có độ xanh trong, tươi non của một tình yêu luôn trào dâng, mới mẻ và đắm say. Tính nhạc dặt dìu được tạo nên từ thể thơ năm chữ như ru, như hát, như thủ thỉ tâm tình, dẫn người đọc dạo bước mùa thu, dạo bước tình yêu. Hình ảnh thơ trong sáng, giản dị, nghệ thuật vắt dòng, lặp từ rất khéo léo, thành công khiến bài thơ như một điệp khúc tình yêu ngân vang, tha thiết. Không gian thơ rộng mở, vận động không ngừng nhưng lại có những điểm nhấn nghệ thuật có hiệu ứng thẩm mĩ cao đầy sáng tạo. Đọc Thơ tình cuối mùa thu, con người không chỉ được trông nhìn và thưởng thức một bức tranh thu đẹp đẽ, yên bình mà còn được lặng mình trải nghiệm sự vĩnh cửu, bất tử, vĩnh hằng của tình yêu. Chính tiếng thơ của cảm xúc, chính giọng điệu chân thành mà say đắm của thơ Xuân Quỳnh đã gieo vào lòng người những tin yêu muôn đời đẹp đẽ, để rồi, trong bất cứ một trái tim đang yêu nào cũng thao thiết ngân vang:

Chỉ còn anh và em

Chỉ còn anh và em

Cùng tinh yêu ở lại.

13. Cảm nhận Thu điếu

Trong nền thơ ca dân tộc có nhiều bài thơ tuyệt hay nói về mùa thu. Riêng Nguyễn Khuyến đã có chùm thơ ba bài: Thu vịnh, Thu ẩm và Thu điếu. Bài thơ nào cũng hay, cũng đẹp cho thấy một tình quê dào dạt. Riêng bài "Thu điếu", nhà thơ Xuân Diệu đã khẳng định là "điển hình hơn cả cho mùa thu của làng cảnh Việt Nam". "Thu điếu" là bài thơ tả cảnh ngụ tình đặc sắc: Cảnh đẹp mùa thu quê hương, tình yêu thiên nhiên, yêu mùa thu đẹp gắn liền với tình yêu quê hương tha thiết.

"Thu điếu" được viết bằng thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật, ngôn ngữ tinh tế, hình tượng và biểu cảm. Cảnh thu, trời thu xinh đẹp của làng quê Việt Nam như hiện lên trong dáng vẻ và màu sắc tuyệt vời dưới ngọn bút thần tình của Nguyễn Khuyến.

Hai câu đầu nói về ao thu và chiếc thuyền câu. Nước ao "trong veo" toả hơi thu "lạnh lẽo". Sương khói mùa thu như bao trùm cảnh vật. Nước ao thu đã trong lại trong thêm, khí thu lành lạnh lại trở nên"lạnh lẽo". Trên mặt nước hiện lên thấp thoáng một chiếc thuyền câu rất bé nhỏ -"bé tẻo teo". Cái ao và chiếc thuyền câu là hình ảnh trung tâm của bài thơ, cũng là hình ảnh bình dị, thân thuộc, đáng yêu của quê nhà. Theo Xuân Diệu cho biết vùng đồng chiêm trũng Bình Lục, Hà Nam có rất nhiều ao cho nên ao to, ao nhỏ thì thuyền câu cũng theo đó mà "bé tẻo teo":

"Ao thu lạnh lẽo nước trong veo,
Một chiếc thuyền câu bé tẻo teo".

Các từ ngữ: "lạnh lẽo", "trong veo","bé tẻo teo" gợi tả đường nét, dáng hình, màu sắc của cảnh vật, sắc nước mùa thu; âm vang lời thơ như tiếng thu, hồn thu vọng về.

Hai câu thơ tiếp theo trong phần thực là những nét vẽ tài hoạ làm rõ thêm cái hồn của cảnh thu:

"Sóng biếc theo làn hơi gợn tí,
Lá vàng trước gió khẽ đưa vèo".

Màu "biếc" của sóng hòa hợp với sắc "vàng" của lá vẽ nên bức tranh quê đơn sơ mà lộng lẫy. Nghệ thuật đối trong phần thực rất điêu luyện, "lá vàng" với "sóng biếc", tốc độ "vèo" của lá bay tương ứng với mức độ "tí" của sóng gợn. Nhà thơ Tản Đà đã hết lời ca ngợi chữ "vèo" trong thơ của Nguyễn Khuyến. Ông đã nói một đời thơ của mình may ra mới có được một câu thơ vừa ý trong bài "Cảm thu, tiễn thu", "Vèo trông lá rụng đầy sân".

Hai câu luận mở rộng không gian miêu tả. Bức tranh thu có thêm chiều cao của bầu trời "xanh ngắt" với những tầng mây "lơ lửng" trôi theo chiều gió nhẹ. Trong chùm thơ thu, Nguyễn Khuyến nhận diện sắc trời thu là "xanh ngắt":

"Trời thu xanh ngắt mấy tầng cao

(Thu vịnh)

"Da trời ai nhuộm mà xanh ngắt".

(Thu ẩm)

"Tầng mây lơ lửng trời xanh ngắt".

(Thu điếu)

"Xanh ngắt" là xanh mà có chiều sâu. Trời thu không mây (mây xám), mà xanh ngắt một màu thăm thẳm. Xanh ngắt đã gợi ra cái sâu, cái lắng của không gian, cái nhìn vời vợi của nhà thơ, của ông lão đang câu cá. Thế rồi, ông lơ đãng đưa mắt nhìn về bốn phía làng quê. Hình như người dân quê đã ra đồng hết. Xóm thôn vắng lặng, vắng teo. Mọi con đường quanh co, hun hút, không một bóng người qua lại:

"Ngõ trúc quanh co khách vắng teo".

Cảnh vật êm đềm, thoáng một nỗi buồn cô tịch, hiu hắt. Người câu cá như đang chìm trong giấc mộng mùa thu. Tất cả cảnh vật từ mặt nước "ao thu lạnh lẽo" đến "chiếc thuyền câu bé tẻo teo", từ "sóng biếc" đến "lá vàng", từ"tầng mây lơ lửng đến "ngõ trúc quanh co" hiện lên với đường nét, màu sắc, âm thanh, có khi thoáng chút bâng khuâng, man mác, nhưng rất gần gũi, thân thiết với mỗi con người Việt Nam. Phong cảnh thiên nhiên của mùa thu quê hương sao đáng yêu thế!

Cái ý vị của bài thơ "Thu điếu" là ở hai câu kết:

"Tựa gối ôm cần lâu chẳng được,
Cá đâu đớp động dưới chân bèo".

"Tựa gối ôm cần" là tư thế của người câu cá cũng là một tâm thế nhàn của nhà thơ đã thoát vòng danh lợi. Cái âm thanh"cá đâu đớp động", nhất là từ "đâu" gợi lên sự mơ hồ, xa vắng và chợt tỉnh. Người câu cá ở đây chính là nhà thơ, một ông quan to triều Nguyễn, yêu nước thương dân nhưng bất lực trước thời cuộc, không cam tâm làm tay sai cho thực dân Pháp đã cáo bệnh, từ quan. Đằng sau câu chữ hiện lên một nhà nho thanh bạch trốn đời đi ở ẩn. Đang ôm cần đi câu cá nhưng tâm hồn nhà thơ đang đắm chìm trong giấc mộng mùa thu, bỗng chợt tỉnh trở về thực tại khi"Cá đâu đớp động dưới chân bèo". Cho nên cảnh vật ao thu, trời thu êm đềm, vắng lặng như chính nỗi lòng của nhà thơ vậy - buồn cô đơn và trống vắng.

Âm thanh tiếng cá"đớp động dưới chân bèo" đã làm nổi bật khung cảnh tịch mịch của chiếc ao thu. Cảnh vật như luôn luôn quấn quýt với tình người. Thiên nhiên đối với Nguyễn Khuyến như một bầu bạn tri kỷ. Ông đã trang trải tình cảm, gửi gắm tâm hồn, tìm lời an ủi ở thiên nhiên, ở sắc "vàng" của lá thu, ở màu"xanh ngắt" của bầu trời thu, ở làn "sóng biếc" trên mặt ao thu "lạnh lẽo"...

Thật vậy, "Thu điếu" là một bài thơ tả cảnh ngụ tình rất đặc sắc của Nguyễn Khuyến. Cảnh sắc mùa thu quê hương được miêu tả bằng những gam màu đậm nhạt, những nét vẽ xa gần, tinh tế gợi cảm. Âm thanh của tiếng lá rơi đưa"vèo" trong làn gió thu, tiếng cá"đớp động" chân bèo - đó là tiếng thu dân dã, thân thuộc của đồng quê đã khơi gợi trong lòng chúng ta bao hoài niệm đẹp về quê hương đất nước.

Nghệ thuật gieo vần của Nguyễn Khuyến rất độc đáo. Vần "eo" đi vào bài thơ rất tự nhiên thoải mái, để lại ấn tượng khó quên cho người đọc; âm hưởng của những vần thơ như cuốn hút chúng ta: trong veo - bé tẻo teo - đưa vèo - vắng teo - chân bèo. Thi sĩ Xuân Diệu đã từng viết: "Cái thú vị của bài "Thu điếu" ở các điệu xanh, xanh ao, xanh bờ, xanh sóng, xanh tre, xanh trời, xanh bèo, có một màu vàng đâm ngang của chiếc lá thu rơi"...

Thơ là sự cách điệu tâm hồn. Nguyễn Khuyến yêu thiên nhiên mùa thu, yêu cảnh sắc đồng quê với tất cả tình quê nồng hậu. Ông là nhà thơ của làng cảnh Việt Nam. Đọc"Thu điếu","Thu vịnh","Thu ẩm", chúng ta yêu thêm mùa thu quê hương, yêu thêm xóm thôn đồng nội, đất nước. Với Nguyễn Khuyến, tả mùa thu, yêu mùa thu đẹp cũng là yêu quê hương đất nước. Nguyễn Khuyến là nhà thơ kiệt xuất đã chiếm một địa vị vẻ vang trong nền thơ ca cổ điển Việt Nam.

II. Cảm nghĩ về nhà thơ

1. Cảm nhận về nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu

Chẳng hiểu sao, mỗi lần nhắc tới Nguyễn Đình Chiểu, là mỗi lần xuất hiện trong tôi những cảm xúc rất đặc biệt, phải chăng vì ông là một trong những nhà văn đặc biệt nhất trong lịch sử văn học Việt Nam? Đặc biệt từ cuộc đời riêng đến cả sự nghiệp văn chương. Tôi quý trọng ông không chỉ bởi những áng văn hay, những vần thơ kiệt xuất, mà tôi quý ông trước hết ở chính cuộc đời, chính con người ông.

Xuất hiện vào nửa cuối thế kỷ XIX, như một "ngôi sao sáng trên bầu trời văn học Việt Nam", Nguyễn Đình Chiểu đã để lại cho dân tộc một di sản văn hóa lớn lao và một tấm gương cao khiết về nhân cách, đạo đức. Sống giữa thời kì can qua bấn loạn của đất nước, cuộc đời của Nguyễn Đình Chiểu là cuộc đời thấm đầy bất hạnh, khổ đau. Nỗi bất hạnh cá nhân: mắt mù, quyện vào nỗi bất hạnh chung: nước mất nhà tan, rên xiết trong tâm hồn nhân đạo của người. Song, chưa một phút giây nào bi lụy, khuất phục, Nguyễn Đình Chiểu là tấm gương anh dũng, kiên cường trong cuộc đấu tranh bảo vệ đất nước. Người bảo vệ đất nước không phải bằng ngọn giáo, mũi tên, mà bằng thơ văn - nó chính là vũ khí sắc nhọn để Nguyễn Đình Chiểu trở thành một người chiến sĩ đứng bảo vệ cho văn hóa, cho độc lập muôn đời trên xứ sở. Trở lại dòng lịch sử hơn trăm năm qua, nhiều người không khỏi ngỡ ngàng đặt một câu hỏi lớn: vì sao thơ văn Nguyễn Đình Chiểu có sức mạnh, có sức ám ảnh cao đến vậy? Và từ bấy đến nay, mỗi lần ta thắc mắc, ta lại tìm đến cuộc đời người, cuộc đời ấy sẽ trả lời cho ta tất cả. Nguyễn Đình Chiểu đã sống với lòng yêu nước thương dân đến tột cùng, nó thấm thía vào hồn người để rồi uất đọng, dư ba, ngân vang mãi trong mỗi vần văn, câu thơ thuở ấy. Cuộc đời của Nguyễn Đình Chiểu chính là một bài thơ đẹp của dân tộc nhiệm vụ, là một tấm gương trong sạch, thanh khiết để bao thế hệ đời sau soi bóng. Người đã sống vậy, và đã sáng tác văn chương. Văn chương Đồ Chiểu là tâm hồn người, là chính cuộc đời người vậy.

Khi đất nước còn chưa có bước chân của ngoại xâm, Nguyễn Đình Chiểu - một nhà nho tài năng đã sớm phải chịu một số phận bất hạnh, nhiều đắng cay và cũng đầy ngang trái. Chưa có dịp lục tìm tiểu sử của người, ta hãy đọc Lục Vân Tiên, chiêm ngưỡng nhân vật Lục Vân Tiên để thấy ẩn khuất sau hình tượng ấy một Nguyễn Đình Chiểu. Ta thấy rõ được chính cảm xúc sâu xa, chính những suy nghĩ chân thực, những tình cảm nông cháy trước cuộc đời của người là cảm hứng cho nhà thơ viết Lục Vân Tiên.

Con người cụ càng đáng kính trọng hơn trong buổi "tang thương" của đất nước, quê hương. Giờ đây trong con người Nguyễn Đình Chiểu nỗi đau riêng chìm xuống đáy tâm tư, để hiện lên tha thiết một nỗi đau dân tộc, một nỗi thương người cháy bỏng không nguôi. Nguyễn Đình Chiểu đã sáng tác thật nhiều tác phẩm có giá trị. Không thể cầm gươm trực tiếp đánh giặc như bao người có đôi mắt sáng thì người viết thơ để kêu gọi, để cuốn theo tiếng gọi giang sơn nồng cháy, thắp lên niềm tin, lòng yêu nước ở mỗi con người:

Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm

Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà.

Người đã sống một cuộc đời không mệt mỏi để đấu tranh cho chính nghĩa. Cuộc đời người là một bó hoa thơm ngọt ngào nhất dâng lên cho đất mẹ Việt Nam. Người đam nỗi đáu cho những đứa trẻ sống trong cảnh loạn li.

Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy

Mất ổ đàn chim dáo dác bay

Phải là một người có trái tim lớn mới nghe, mới cảm nhận chính xác được hình tượng ấy. Người đã sống giữa lòng dân, gần gũi với nhân dân để hiểu được những gì thân quen. Để rồi từ đó người tỏ bày lòng căm phẫn với quân thù, người đã có thái độ bất hợp tác bởi "đất chung đã mất, đất riêng còn sá gì" khi bọn thực dân muốn mua chuộc cụ.

Tuy bị mù nhưng với cụ:

Thà cho trước mắt như mù

Chẳng thà ngồi ngó kẻ thù quân thân

Hay:

Thà đui mà giữ đạo nhà

Còn hơn có mắt ông cha không thờ.

Đọc những câu thơ ấy, trong tôi chợt hiện lên một câu hỏi: rằng nếu không phải là cụ Đồ Chiểu thì một người gặp hoàn cảnh như cụ thì có làm được như thế hay không? Mù nhưng người vẫn sống tốt, sống đẹp để góp phần chống lại ội ác tày trời mà thực dân Pháp đã giày xéo trên đất nước ta. Và người đã sống cao hơn chúng ta, cụ Đồ Chiểu đã sống và sáng tạo vì nhân dân, đất nước. Người là một nhà giáo, một thầy thuốc, một nghệ sĩ vĩ đại của chúng ta.

Cuộc đời của Nguyễn Đình Chiểu là một chân lí, một lẽ sống để hướng văn chương tới giá trị chân - thiện - mĩ. Người đã viết đúng tâm hồn mình, cuộc đời mình để muôn đời sau, chúng ta thán phục và biết ơn. Và chắc hẳn lòng ta bỗng như đẹp hơn khi được đọc những sáng tác của người - cái thế giới của cuộc đời tâm hồn cao khiết ấy.

2. Cảm nghĩ về nhà thơ Nguyễn Du

Giống tất cả mọi người dân Việt Nam, tôi yêu tiếng nói của dân tộc mình, thứ tiếng nói lên bổng xuống trầm đầy cảm xúc. Vì thế tôi yêu những câu lục bất uyển chuyển và đằm thắm chứa chan tình cảm. Vì lẽ đó, cũng chẳng có gì là lạ, là đặc biệt khi tôi yêu văn học nước mình, và tôi say mê Truyện Kiều của Nguyễ Du. Tôi say mê Kiều bởi ở Kiều tôi thấy Nguyễn Du, một Nguyễn Du của tài và tình, một nguyễn Du có tình yêu tha thiết với dân tộc và tấm lòng nhân hậu đầy cảm thông đối với nhữung kiếp người bất hạnh. Mà bất hạnh nhất trong xã hội xưa là người phụ nữ – những con người hồng nhan bạc phận.

Tôi muốn nói về sự kính trọng của tôi đối với đại thi hào dân tộc Nguyễn Du. Cả dân tộc ta đã kính trọng ông nhưng tôi vẫn muốn thể hiện những tình cảm của mình đối với người thi nhân đa tài mà đa đoan ấy.

Điều đầu tiên khiến tôi yêu quý và kính trọng Nguyễn Du chính là tình cảm của ông dành cho con người. Ông là con người có tấm lòng nhân hậu. Có lẽ, đây chính là yếu tố quan trong để ông có được những tác phẩm văn học chứa đựng những giá trị nhân đạo sâu sắc. Người thi nhân đa đoan, viên quan đại thần dòng dõi của triều Lê ấy không biết đã bao lần “Khéo dư nước mắt khóc người đời xưa”. Chính ông đã tự nhận ra rằng, người thi nhân bất hạnh bởi thi nhân luôn là người tự vận nỗi đau, nỗi bất hạnh của người khác vào mình (Phong vận kì oan ngã tự cư). Lòng nhân hậu khiến ông luôn rất nhạy cảm với nỗi đau khổ của người khác, vì thế những thi phẩm của ông luôn đầm đìa nước mắt: nước mắt của nàng Kiều, nước mắt của người ca nữ đất Long Thành và của nàng Tiểu Thanh. Họ đều là những con người tài hoa, tài sắc song toàn mà mệnh bạc. Nhà thơ đồng cảm và đau nỗi đau của những người ấy không đơn giản chỉ là sự cảm thông của con người đối với con người. Nỗi đau của Nguyễn Du còn là sự nuối tiếc, xót xa trước sự ra đi của những tài năng. “Cái tốt đẹp thì khó bền”, “hoa thường hay héo cỏ thường tươi”, đó là quy luật của cuộc đời. Sự vô tình của con người trước nỗi đau, trước giá trị của cái đẹp cũng là lẽ thường. Biết vậy Nguyễn Du vẫn luôn trăn trở day dứt:

Bất tri tam bách dư niên hậu

Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?

“Tấm lòng thơ vẫn tình đời thiết tha” (Tố Hữu) chính là điều khiến ông luôn được người đời trân trọng.

Điều thứ hai khiến tôi say mê Nguyễn Du chính là bởi tài năng. Nguyễn Du yêu Tiếng Việt nên ông đã sử dụng thành công và làm Tiếng Việt phong phú thêm bao nhiêu. Bao nhiêu năm nay chúng ta đọc và say mê Truyện Kiều một phần bởi cái giọng điệu lục bát dễ đọc, dễ thuộc, dễ nghe. Nguyễn Du đã gửi gắm ở Truyện Kiều một tình yêu lớn đối với tiếng nói và thể thơ dân tộc. Ông dùng những từ ngữ, những cách diễn đạt gần gũi với tiếng nói của nhân dân. Dân dã mà vẫn thật hay, vẫn uyên bác và giàu chất nghệ thuật. Ví như những bức tranh bốn mùa của ông:

Cỏ non xanh rợn chân trời

Cành lê trắng điểm một vài bông hoa

Tiếng Việt đẹp hơn, giàu âm thanh, hình ảnh và sắc điệu hơn bởi khả năng sáng tạo của ông. Truyện Kiều đã đưa thể hiện một cách phong phú nhất khả năng biểu hiện của Tiếng Việt và khả năng biểu cảm của thể thơ lục bát.

Có biết bao nhiêu lí do để ta trân trọng đại thi hào dân tộc Nguyễn Du, và lí do lớn nhất, chính đáng nhất chính là nhân cách cao đẹp của ông, kết quả của sự kết hợp hài hoà giữa tài và tình Nguyễn Du.

3. Cảm nghĩ về nhà thơ Xuân Quỳnh

Trước mặt tôi lúc này là những cuốn sách của Xuân Quỳnh, hàng chục tập thơ và văn xuôi, mỏng mảnh, gọn nhẹ. Mắt lướt trên các trang chữ mà sao khó định thần vào một điều gì. Tôi tự hiểu thời điểm này, trong trí nhớ vẫn còn nguyên cái tai hoạ dữ dội vừa cắt ngang cuộc đời tác giả, cùng một lúc với cả người chồng và đứa con yêu. Làm sao có thể chế ngự cảm giác xót xa bàng hoàng để huy động tư duy phân tích? Lại nhớ lời trách của Xuân Quỳnh dạo nào: “Các ông là những nhà phê bình mà tôi tin, thế mà sao các ông chả viết gì về thơ tôi? Dở hay gì cứ nói thẳng, tôi nghe hết!”. Không thật nhớ là khi ấy tôi đã chống chế ra sao, hình như đại khái là: Thì bà là hiện tượng quan trọng, nên chúng tôi mới phải dè chừng khi động bút chứ sao!

Lời đối đáp thoảng qua ấy, vào thời điểm hôm nay, tôi xin nhắc lại. Đúng thế, Xuân Quỳnh là hiện tượng rất quan trọng của nền thơ chúng ta. Có lẽ là từ thời Hồ Xuân Hương, qua các chặng phát triển, phải đến Xuân Quỳnh, nền thơ ấy mới thấy lại một nữ thi sĩ đầy tài năng và sự đa dạng của một tâm hồn được thể hiện ở một tầm cỡ đáng kể như vậy, dồi dào phong phú như vậy.

Nhưng Xuân Quỳnh không chỉ là xuất chúng trong giới “thơ phụ nữ” (chữ dùng này quả là rất ước lệ, chỉ thuần tuý căn cứ vào giới tính tác giả!). Đây còn là một gương mặt thơ tiêu biểu của nền thơ Việt Nam hiện đại. Hai chục năm nay, thơ Xuân Quỳnh đã đi vào người đọc, trở thành tiếng nói tâm tình về những ngọt bùi cay đắng ở đời, tiếng nói của tình yêu và tình mẫu tử, tiếng nói hồn hậu, dung dị, chứa đựng sự sống đương thời mà cũng in dấu nếp nghĩ nếp cảm của tâm hồn người Việt tự xa xưa. Những thiếu nữ bước vào tuổi yêu đương đã tìm đến thơ Xuân Quỳnh. Những người mẹ trẻ phập phồng ngày tháng theo dõi mỗi hơi thở mỗi bước đi của đứa con mình, có thể tìm được ở thơ Xuân Quỳnh một người bạn sẻ chia tâm sự… Đối với người làm thơ, được như thế đã là hạnh phúc.

Nói đến “xuất xứ” của Xuân Quỳnh giữa làng thơ, lại phải nói đến sự xuất hiện đông đảo, ào ạt của một lớp người viết mới, đem vào văn học những giọng nói mới, vào những năm sáu mươi. Nếu lấy mốc sự xuất hiện ấy là những năm 1964-65 thì Xuân Quỳnh quả là có “ra trước” chút ít, giống như một người chị. Nhưng chị đã nhập bọn như một người bạn cùng lứa. Lớp nhà thơ này, trên chặng tiếp theo, cuộc đời và nghệ thuật của họ vừa tách biệt, phân hóa, lại vừa xen cài, giằng chéo vào nhau. Xét về nhiều mặt, chính ngay mối tình Xuân Quỳnh – Lưu Quang Vũ và sự nghiệp văn học của cặp vợ chồng này cũng là nằm trọn vẹn trong phong trào “văn học trẻ” ấy. Cho đến tận gần đây, những thành viên của thế hệ này đã là lực lượng chính của “sản xuất văn học”, nhưng hầu như chưa ai nghĩ đến một sự tổng kết, dù sơ bộ, về họ. Chính việc Xuân Quỳnh và Lưu Quang Vũ đột ngột ra đi đã khiến chúng ta phải nghĩ đến công việc ấy, một công việc hẳn là sẽ có ích cho văn học sử, hơn nữa, cho thái độ đón nhận của chúng ta đối với những thế hệ mới, đã và sẽ bước vào văn học.

Về thế hệ này, đương thời người ta thường nói rằng họ không có gì để từ bỏ, lựa chọn, không có việc “nhận đường”, tìm đường trong nghệ thuật. Cho đến hôm nay, điều đó có vẻ không phù hợp với thực tế. Văn học là quá trình, cuộc đời sáng tác cũng là quá trình. Ở thế hệ nhà văn này, không thể hoàn toàn nói rằng con đường nghệ thuật của họ đã không phải vượt qua những trở lực, đã không phải trải qua những lầm lẫn, bị lừa dối và tự lừa dối, bị mê hoặc và tự mê hoặc, rồi tỉnh ngộ, tự tìm đường đi trong nghệ thuật, tới những đích khác nhau. Những điều này, thời gian sẽ cho thấy rõ dần, qua từng trường hợp cụ thể.

Ai quen biết Xuân Quỳnh, hẳn sẽ để ý đến nét khác lạ nơi tay chị: một đôi bàn tay như già hơn nhiều so với gương mặt. Một gương mặt xinh đẹp, trẻ hơn tuổi, với cặp mắt tinh anh, duyên dáng, như rất dễ mỉm cười, che hết mọi phiền lo. Gương mặt phụ nữ đẹp đến nỗi khó tin đấy lại là người làm thơ. Mà người phụ nữ đẹp và làm thơ ấy lại có đôi bàn tay giống như gương mặt Trương Chi! Chính Xuân Quỳnh đã không ít lần viết về bàn tay mình, ví dụ mấy câu này, trong giọng giãi bày với người yêu:

Bàn tay em ngón chẳng thon dài

Vệt chai cũ, đường gân xanh vất vả

Em đánh chắt chơi chuyền thuở nhỏ

Hái rau dền rau dệu nấu canh

Tập vá may, tết tóc cho mình

Rồi úp mặt trên bàn tay khóc mẹ

Đôi bàn tay tiết lộ số phận. Một số phận đã từng không may mắn, dường như luôn luôn phải “đánh đu” với cuộc sống, với hạnh phúc. Cũng là trớ trêu chăng, con người có số phận như thế lại mang trong mình nhiều khao khát. Trong một bài thơ viết năm 1962, Xuân Quỳnh viết rằng ngày bé mình chỉ mơ đến rằm tháng Tám để được vui chơi với bạn bè dưới trăng thu:

khi lớn khôn ước mơ càng cháy bỏng:

mơ ước thành nhà thơ ca ngợi cuộc đời,

đưa thơ cùng du hành vũ trụ, sưởi ấm vừng trăng lạnh, đưa thơ đi cập bến các vì sao…

Như lòng ta chẳng bao giờ nguôi khát vọng

Biết bay rồi ta lại muốn bay cao.

Hình như gốc gác tấn kịch của mỗi người sáng tạo là như thế. Ít ai làm “nghề” này lại không luôn luôn tự cảm thấy trạng thái quá sức của mình. Như luôn luôn chới với vươn về cái đích rất khó tới. Phải đánh cuộc với số phận, với sự sống, với hạnh phúc. Vả chăng, chính năng lượng của thơ, của nghệ thuật sẽ nảy sinh từ đó. Quá sức vì khát vọng, có lẽ, đó cũng là trạng thái của Xuân Quỳnh.

Trong một bản tiểu sử văn học viết ngày 29-8-1982, trả lời cho đề mục Nguyên nhân bắt đầu hoạt động văn học, Xuân Quỳnh ghi hai điểm:

"− Vì thích thú. Làm văn học cảm thấy như mình được sống thêm một cuộc đời khác nữa.

− Vì uất ức. Khi mới vào nghề bị xô đẩy, bị khinh rẻ nên tôi quyết phải sống. Mà sống tức là phải viết“.

Chặng đường Xuân Quỳnh từ một “cô văn công” trở thành một biên tập viên văn học quả là có gian nan hơn so với một số người khác. Nhưng đây không phải chỗ để trách cứ các nhà quản lý: chị chủ yếu là tự học chứ không được đào tạo. Vả lại, chặng đường ấy chị đã khắc phục được chỉ sau dăm năm. Và điều cốt yếu đối với chị là trở thành nhà thơ chứ không phải chỉ là một biên tập viên văn học.

Tấn kịch của chị là ở một phía khác, ở đấy những định kiến và can thiệp từ bên ngoài chỉ có thể gia giảm cho những đau khổ hay niềm vui, chứ không thay đổi căn bản được điều gì. Và cái đáng nói không phải là ở chỗ chị đã may hay không may lâm vào tấn kịch của mình (Mấy ai không có tấn kịch của riêng mình!). Cái đáng nói là trong khi sống trọn vẹn cái tấn kịch của chính mình, chị đã nói được về nó bằng thơ. Để người ngoài có thể soi vào, có thể ướm những trải nghiệm khổ đau, vui sướng, giận hờn của chị vào trạng thái tình cảm của họ. Để người ngoài có thể mượn những tiếng lòng mà chị đã thốt lên kia làm tiếng lòng của họ. Phải chăng làm nhà thơ chính là như thế?

Diễn đạt tấn kịch của Xuân Quỳnh là không dễ. Sa vào các chi tiết tỉ mỉ thì dễ thành tọc mạch vô ích mà cũng chưa chắc đã tỏ rõ được điều gì. Tôi thử men theo một đường viền.

Ở ta và có lẽ không chỉ ở ta, đã nhiều thời từng có những nam thanh nữ tú từ các làng quê tìm vào thành thị. Họ vừa ca hát trước phố xá về tình yêu làng quê, nếp sống làng quê, vừa tìm cách “làm tổ” tại thị thành, thích nghi với đời sống thị thành. Dẫu họ có trở thành người kẻ chợ từ trang phục đến lối ứng xử thì trong đáy sâu tâm hồn họ, nếp sống làng quê, tính cách làng quê vẫn còn lại đó. Vả chăng, quá trình thích ứng cũng là quá trình vấp váp. Cái dại khờ, cả tin, nông nổi của họ cứ mỗi bận lại phơi ra trước những gì là tinh ranh, biến báo nơi thành thị. Vấp váp có thể gây bươu đầu, sứt trán, sái chân, nhưng quan trọng hơn, nó nhói lên trong đáy hồn những day dứt, giận hờn, nó đánh thức những mặc cảm sâu kín, nói khơi dòng cho những bài hát mới, trong đó làng quê là nỗi nhớ nhạt nhoà mà lại khôn khuây, hóa thân vào nỗi nhớ cỏ xanh, rau dại, hoa dại, bến bãi, đất cát, còn thành thị thì vừa như thêm vẻ bí hiểm, đáng sợ, vừa như thêm quyến rũ, mời gọi. Nhưng dẫn bước vào đó thì thế nào cũng phải tự cảnh giác với tính khờ khạo, cả tin, với những định kiến giản đơn một chiều, − điều mà những con người từng để lại nhúm rau sau luỹ tre xanh khó lòng mà dứt ra được.

Phải chăng ở Xuân Quỳnh cũng có tấn kịch tương tự? Cái tấn kịch đã hóa thân trong tình yêu − lĩnh vực hình như là đam mê hết sức cốt yếu đối với cuộc đời chị, và đã được bộc lộ ở rất nhiều cung bậc, rất nhiều sắc thái: tha thiết đến mức như tuyệt vọng, như van vỉ, như thề bồi, hồn nhiên trong thỏa mãn chốc lát, lo âu cho hạnh phúc không tròn, ngờ vực lòng ai tàn phai lời ước hẹn… Có thể trả giá đắt cho ảo tưởng về hạnh phúc, nhưng từ bỏ thì chị không thể. Giả như trong cuộc đời người phụ nữ ấy đã không có những trắc trở của tình yêu, đã không từng hơn một lần qua đò sang bến, thì cũng khó hình dung mảng thơ tình của chị sẽ mang diện mạo ra sao. Bởi “chuẩn mực” tình yêu ở nhà thơ khao khát yêu đương ấy vẫn có vẻ gì rất đồng nội, quê kiểng, nó gắn với sự duy nhất, sự chung tình, với tổ ấm, với mái nhà, với hạnh phúc của hôn nhân, nó đòi tuyệt đối, nó dứt khoát không chấp nhận mọi ngập ngừng trù trừ, láu cá, nó không chịu bị xẻ chia, bị vay mượn, dẫu là tạm thời, là thường tình, nó xoè tất cả lông cánh, móng vuốt ra để giữ gìn tình yêu trước mọi sự xâm phạm tự phía ngoài.

Chính cái chuẩn mực hằng đeo đuổi ấy lại trái hẳn với thực tế đã trải. Hóa ra, người đeo đuổi một ý niệm tình yêu chuyên nhất lại bị mang tiếng trước người đời như là kẻ có lắm sự yêu đương “phức tạp”, phá phách (Luôn tiện, xin nêu nhận xét thú vị của một người bạn tôi: các nhà thơ thường không đứng ngoài đạo đức, chính họ thường hướng tới tạo dựng một đạo đức cho tương lai. Nhưng không ít hành vi của họ lại thường bị người đương thời coi là vi phạm đạo đức!). Dẫu sao, đấy là chuyện bề ngoài. Điều nên nói là bề trong, là “lợi ích” của văn học do tất cả các chuyện này: chính tấn kịch ấy đã biến Xuân Quỳnh từ con người có nhu cầu tự ca hát về tình yêu và cuộc săn đuổi hạnh phúc của mình thành một nhà thơ viết về tình yêu và loại phong phú nhất trong số các nhà thơ cùng thế hệ.

Những người làm thơ cùng thế hệ Xuân Quỳnh đã được nghe không ít những lời khuyên: hãy viết về những cái rộng hơn ngoài cái “tôi” của mình. Xuân Quỳnh đã nỗ lực không ít để đáp ứng điều này. Và nhờ vậy chăng, thế giới sự vật trong thơ chị được mở rộng ra không ít. Song, cái mà chị viết nhiều nhất, thành công nhất lại vẫn là về chính cuộc đời mình, những chuyện của mình, những gì liên quan đến mình. Có lẽ, ai viết tiểu sử chi tiết của Xuân Quỳnh sẽ có thể dựa khá sát vào thơ của chị. Tính chất tự truyện là nét đậm, quán xuyến hàng loạt bài thơ, tập thơ, và cũng là nét khác biệt rõ rệt so với thơ của nhiều người cùng thế hệ. Gần như chị trở thành nhân vật văn học của chính thơ chị. Chị đam mê sống, đam mê yêu, đam mê trong thiên chức làm vợ làm mẹ − những điều ấy, nhân vật kia nói lên giúp. Mọi sự vẫn như thế thôi, nhưng đã là sang một thế giới khác, dịu nhẹ hơn, có thể dệt thêm màu vẻ cho cả khổ đau lẫn hạnh phúc. Vẫn chỉ là mình và người mình yêu đấy thôi, nhưng đó đã như mơ ước của mình về mình và cho mình. Phải chăng đấy là cái “cuộc đời khác nữa” mà Xuân Quỳnh tìm thấy trong văn học, nơi thăng hoa và giải thoát độc đáo cho tấn kịch của chị? Nói một cách giản dị, chính là sống trọn vẹn tấn kịch của chính mình, ghi lại bằng thơ những động thái tâm hồn mình, chị trở thành nhà thơ được công chúng thừa nhận. Có thể là chị không lưu ý lắm đến cái được gọi là “hằng số nhân bản” mà các nhà khoa học thường xuyên nêu lên, nhưng hẳn là chị tin rằng không có chuyện gì của cuộc đời một con người lại là quá ư dị biệt, xa lạ với cuộc đời những người khác.

Ai xúc tiếp nhiều với Xuân Quỳnh, hẳn sẽ thấy chị rất không ưa những gì nghiêm nghị, trịnh trọng. Chị sẵn sàng phá vỡ cái không khí nghi thức đạo mạo bằng những câu đùa hoặc hóm hỉnh, ngộ nghĩnh, nghịch ngợm, hoặc đôi khi khá chanh chua, nhưng thường là hết sức dân dã, hết sức phố xá. Đằng sau cái tác phong mà không phải ai cũng dễ ưa ấy, phải chăng có thể nghĩ rằng ở con người này đang dần dần hội lại những nét gì tương tự như là sự thông tuệ dân gian, trí khôn và cách ứng xử dân gian? Tôi vẫn ngờ rằng con người Xuân Quỳnh thuộc về văn hóa dân gian và cổ truyền nhiều hơn là thuộc về văn hóa hiện đại. Nếu vậy, hẳn đây lại là chỉ dẫn về một khía cạnh nữa trong tấn kịch của chị, bởi hình như cũng ở mức nhiều hơn ai, chị cố gắng làm người của hiện đại, của đương thời, cả trong đời sống lẫn trong văn học.

Chỉ học hết lớp 6, chị đã đi làm, và từ đó, sự tự học của chị thật bền bỉ. Chị có mặt ở hầu hết các loại lớp văn hóa, chính trị, chuyên môn, ngoại ngữ do Hội tổ chức. Vài năm gần đây, chị vẫn gắng học thêm để nâng cao trình độ tiếng Pháp, tập dịch thơ rồi nhờ thầy sửa giúp, để rút kinh nghiệm hơn là để đưa đăng. Và chị đọc rất chăm. Phải thức khuya mà đọc, chị bảo thế. Nhất là sách dịch, từ nhiều nền văn học khác nhau. Tôi còn nhớ, khi đọc xong Trăm năm cô đơn, chị còn mượn đọc các tài liệu phân tích, để hiểu tác phẩm của một nền văn hóa khác, với chúng ta còn là xa cách, lạ lẫm. Cũng có thể thấy dấu vết sự học hỏi của Xuân Quỳnh ở ngay thơ chị. Từ bài mở đầu tập Chồi biếc in rõ dấu ca dao, sang những tập thơ sau này, chị đã trở nên lành nghề, thậm chí đã biết tận dụng cả sự khéo tay, tận dụng những cách cấu tứ của cả nhà thơ cùng lứa lẫn nhà thơ lớp trước. Và chị đã văn chương hóa không ít, hơn nữa, đã cùng các nhà thơ cùng lứa tạo ra một kiểu “văn chương hóa” mới, một kiểu trang sức mới. Nhưng cốt cách thơ Xuân Quỳnh, qua mọi biến thái vẫn gắn nhiều hơn với những gì đã có nơi chị từ điểm xuất phát. Ấy là một giọng thơ dù biến hóa đến mức văn hoa kiểu sức vẫn còn lại cái phần gắn bó với lối nói, lối nghĩ, lối cảm thông thường, có thể là xa xưa nữa, của người Việt, của tiếng Việt.

Thơ Xuân Quỳnh bao giờ cũng dễ hiểu đối với công chúng đông đảo. Sáng rõ, nhã nhặn, giản dị − là những đặc tính được chị ưa thích, cả cho thơ lẫn cho văn xuôi. Không phải chị không biết đến luật thay đổi của thời gian đối với các thị hiếu nghệ thuật. Đã có lúc chị thẳng thắn chế giễu cái chất mà chị goi là “âm lịch”, tức là cái cổ lỗ, cũ kỹ trong thơ văn của những cây bút nào đó. Và chị cũng không tự coi mình là “tân thời”. Không phải là không có dụng ý khi tập thơ tuyển Sân ga chiều em đi được kết thúc bằng hai câu nhắn gửi người đọc

“Anh hãy nghĩ khác xa điều tôi nghĩ.

Thơ tôi làm không phải để anh theo”.

Nhưng dẫu sao, Xuân Quỳnh, với tư cách một con người và một nhà thơ, vẫn gắn bó, vẫn hướng nhiều hơn về phía những chuẩn mực, những nền nếp đã hình thành từ xưa của đời sống và của nghệ thuật. Ở con người Xuân Quỳnh vẫn tiềm tàng nét đơn giản, thậm chí trẻ thơ, “đã yêu củ ấu cũng tròn”, đối với mọi người, mọi sự. Xuân Quỳnh không thích, thậm chí không đồng tình với một số tìm tòi khác lạ của một số bạn viết mới gần đây − đó âu cũng là một sự thường. Vả chăng cũng là một nét thuộc nhân cách nghệ sĩ: mọi phản ứng của một nhân cách như vậy đều nhằm bảo vệ thị hiếu nghệ thuật của mình, tín niệm nghệ thuật của mình. Một đội ngũ nghệ sĩ cùng thời cùng lứa chỉ có yêu văn chương của nhau, tâng bốc nghệ thuật của nhau, không có xung đột về thị hiếu, về xu hướng nghệ thuật − thì chưa hẳn đã là đội ngũ có thể làm nên một nền nghệ thuật thật sự đặc sắc, đa dạng.

Xuân Quỳnh đã từng tự bảo vệ thị hiếu và quan niệm nghệ thuật của chị, bằng chính sáng tác của chị. Công chúng nhận ra ở chị một hồn thơ gần gũi, như đã thân quen từ lâu. Đến lượt những bạn viết mới, họ cũng phải tự tìm ra và tự bảo vệ lấy quan niệm nghệ thuật của họ, bằng sáng tác của họ, và họ cũng sẽ tạo ra được công chúng của mình.

Mươi năm trước đây, Xuân Quỳnh viết trong một bài thơ:

Sẽ có ngày tóc tôi trắng như bông

Đi giữa dòng người, đi giữa tháng năm…

Hôm nay, thật đau đớn, cái điều chị mong sẽ có đó − sẽ không thể có nữa. Những người cùng thời cùng lứa với chị phải bắt đầu tập nghĩ rằng chị đã là người thiên cổ. Nhưng những bài hát của chị, những bài hát tình yêu có hương vị cổ truyền, có cả cay đắng, ngọt ngào, hờn giận, xót xa, nông nổi, những điệu ru đằm thắm tình mẫu tử ấp iu, những tiếng lòng tâm sự nhỏ nhẹ hồn hậu về cuộc sống thường nhật của con người từng sống trong thời đạn bom hôm qua và thời gây dựng lại xiết bao nhọc nhằn mà không thiếu niềm vui hôm nay, những bài hát ấy của Xuân Quỳnh sẽ không dễ lìa xa cuộc sống chúng ta, con người chúng ta, văn học chúng ta.

-----------------------------

Trên đây VnDoc.com đã giới thiệu tới bạn đọc tài liệu: Cảm nhận về một bài thơ hoặc một nhà thơ. Hi vọng qua bài viết này bạn đọc có thêm tài liệu bổ ích nhé.

Đánh giá bài viết
54 59.161
Sắp xếp theo

    Ngữ văn 10

    Xem thêm