Soạn bài Xin lập khoa luật
Soạn bài Xin lập khoa luật trích từ bản điều trần số 27: Tế cấp bát điều do Nguyễn Trường Tộ sáng tác thuộc môn Ngữ văn lớp 11 học kỳ 1. Bài soạn dưới đây được VnDoc sưu tầm và giới thiệu với các bạn để tham khảo về các nội dung của luật để khẳng định khả năng bao quát của luật đối với xã hội. Sau đó, khẳng định vai trò của luật đối với việc trị dân của vua từ đó xin lập khoa luật giúp học tập tốt môn Ngữ Văn lớp 11 chuẩn bị cho bài giảng sắp tới đây của mình.
Soạn bài: Xin lập khoa luật (Nguyễn Trường Tộ)
- Soạn bài lớp 11: Đổng Mẫu
- Soạn bài lớp 11: Bài ca ngất ngưởng
- Soạn bài lớp 11: Bài ca phong cảnh Hương Sơn
1. Soạn bài: Xin lập khoa luật mẫu 1
1.1. Tóm tắt
Xin lập khoa luật được Nguyễn Trường Tộ ghi trong bản điều trần Tế cấp bát điều (Tám việc cần làm gấp) dâng lên triều đình. Văn bản này bàn về sự cấp thiết của luật pháp đối với xã hội nhằm thuyết phục triều đình cho mở khoa Luật.
1.2. Bố cục
Phần 1 (từ đầu đến “thì đó là quốc dân giết”): Vai trò của luật pháp đối với đời sống của đất nước.
Phần 2 (tiếp theo đến “chất phác?”): Điểm hạn chế của Nho giáo trong việc thực thi luật.
Phần 3 (đoạn còn lại): Mối quan hệ giữa luật pháp và đạo đức.
1.3. Câu 1 (trang 73 SGK Ngữ văn 11 tập 1)
+ Luật bao gồm các lĩnh vực: Kỉ vương, uy quyền, chính lệnh, tam cường ngũ thương và những việc hành chính của sáu bộ.
+ Giới thiệu việc thực thi luật ở các nước phương Tây:
- Những người nhận nhiệm vụ điều tra, xét xử không bị o ép bởi bất cứ thế lực nào.
- Họ chỉ có thăng trật chứ không bị biếm truất.
- Đến vua cũng không có quyền tự đoán phạt một người mà thiếu sự xem xét của những người này.
1.4. Câu 2 (trang 73 SGK Ngữ văn 11 tập 1)
+ Tác giả chủ trương: vua, quan và dân đều phải tôn trọng và thực thi pháp luật.
+ Chủ trương như vậy để tạo ra một xã hội bình đẳng, công bằng, nghiêm minh.
1.5. Câu 3 (trang 73 SGK Ngữ văn 11 tập 1)
Theo Nguyễn Trường Tộ, Nho học truyền thống chưa có sự tôn trọng luật pháp.
1.6. Câu 4 (trang 73 SGK Ngữ văn 11 tập 1)
Mối quan hệ giữa đạo đức và luật pháp:
+ Giữ đúng luật chính là đạo đức.
+ Luật pháp chính là cái đức lớn nhất, là chí công vô tư, hợp với đức trời, đạo người.
1.7. Câu 5 (trang 73 SGK Ngữ văn 11 tập 1):
Nhắc đến Khổng Tử và các khái niệm đạo đức, văn chương, tác giả đã sử dụng phép lập luận phản đề, chứng minh thực tế Nho gia đi ngược lại với chính lý thuyết sách vở họ đặt ra.
⇒ Tăng tính sắc bén, tính chiến đấu cho lời văn.
Ý nghĩa
Qua văn bản ta thấy được ý nghĩa quan trọng của luật pháp đối với quốc gia, đồng thời thấy được tư tưởng tiến bộ vượt thời đại của Nguyễn Trường Tộ cùng những tâm tư, tình cảm, sự trăn trở của ông trước vận mệnh đất nước thể hiện qua ngòi bút nghệ thuật đặc sắc.
2. Soạn bài: Xin lập khoa luật mẫu 2
XIN LẬP KHOA LUẬT
(Trích từ bản điều trần số 27: Tế cấp bát điều)
Nguyễn Trường Tộ
2.1. Kiến thức cơ bản
Nguyễn Trường Tộ (1830 - 1871) là một tri thức yêu nước và theo đạo Thiên Chúa. Ông là người làng Bùi Chu, xã Hưng Trung, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Nguyễn Trường Tộ sớm được tiếp xúc với tư tưởng phương Tây nên ông có nhiều tư tưởng tiến bộ, Ông đã dâng lên vua Tự Đức nhiều bản điều trần có giá trị, tập trung ở Tế cấp bát điều nhưng tiếc là không được chấp nhận.
Tế cấp bát điều là bản điều trần thứ 27 của Nguyễn Trường Tộ. Bản điều trần thể hiện tài năng và tư tưởng tiến bộ của ông. Trong bản điều trần ông chỉ ra tám việc cần làm gấp để canh tân đất nước, thể hiện suy nghĩ sắc sảo và tầm nhìn xa trông rộng của tác giả.
Đoạn Xin lập khoa luật đã đưa ra những lí do rất xác đáng về việc mở khoa luật để dạy cho người việt Nam. Với cái nhìn tiến bộ và đầy tinh thần trách nhiệm, Nguyễn Trường Tộ đã chỉ rõ vai trò của luật pháp đối với sự ổn định của xã hội. Và cuối cùng khẳng định việc lập khoa luật để dạy luật pháp cho nhân dân là cần thiết và đúng đắn.
2.2. Rèn kĩ năng
2.2.1. Đoạn 1, tác giả nêu ra các nội dung của luật để khẳng định khả năng bao quát của luật đối với xã hội. Sau đó, khẳng định vai trò của luật đối với việc trị dân của vua.
a, Luật bào gồm: "kỉ cương, uy quyền, chính lệnh của quốc gia, trong đó tam cương ngũ thường cho đến việc hành chính của sáu bộ đều đầy đủ". Có nghĩa là luật bao trùm cả vấn đề đạo đức và trách nhiệm. Cũng ở đây, tác giả chỉ ra tác dụng của luật: quan dùng luật để trị, dân theo luật mà giữ gìn". Ông đặc biệt nhấn mạnh vai trò của luật đối với việc trị dân của vua. Tác giả đã đề cập đến vấn đề dân chủ trong việc thi hành luật pháp.
b, Tác giả đã vào đề theo cách trực tiếp. Cách vào đề đó giúp cho người đọc chủ động tiếp nhận những nội dung được trình bảy ở phần sau.
c, Trong chế độ phong kiến, vua là trên hết nhưng tác giả đã dùng những lí lẽ thuyết phục nhà vua tuân theo pháp luật, đó là "Vua cũng không được đoán phạt một người nào theo ý mình mà không có chữ kí của các quan trong bộ ấy. Làm thế là để cho dân chúng thấy rõ đạo công bằng. Vả lại vua không dự vào những việc ngũ hình để tỏ đạo nhân ái..."
d, Nguyễn Trường Tộ viết "Phàm những ai đã nhập ngạch bộ Hình xử đoán... được một bậc" là đúng. Bởi vì, điều đó sẽ khiến cho các vị quan thực hành luật pháp có thể xử án một cách vô tư, đảm bảo sịư công minh, công bằm của luật, "để giúp cho các vị này được thong dong trong việc chấp hành luật pháp không bị một bó buộc nào cả".
2.2.2. Đoạn 2, tác giả khẳng định vai trò của luật.
a, Ông đã chỉ ra rằng, lí thuyết của sách Nho "chỉ là nói suông trên giấy", đó là những lẽ phải nhưng tự nó không có đủ khả năng làm cho mọi người thay đổi tâm tính, tự giác sửa mình. Đưa ra những nhược điểm của việc trị dân bằng lí thuyết nhà Nho, tác giả không chỉ hướng đến mục đích phê phán sách Nho mà để khẳng định luật cần thiết đối với sự ổn định của xã hội. Nho gia giáo dục con người bằng đạo đức, bằng những tấm gương đạo đức của quá khứ nên nặng tính lí thuyết suông.
b, Cuối mỗi điều phê phán Nho giáo, Nguyễn Trường Tộ kết lại bằng lời của Khổng Tử khiến cho lí lẽ của ông càng thuyết phục người nghe, nhất là nhà Nho vốn rất bảo thủ. Luật có vai trò biến lí thuyết của sách Nho thành hiện thực.
2.2.3. Đoạn 3, Nguyễn Trường Tộ đã lí giải thấu đáo vai trò của luật, đồng thời giải quyết triệt để những nghi ngờ về khả năng của luật. Ông dùng lập luận để bác bỏ quan điểm "luật lệ chỉ tốt cho việc cai trị chứ không có đạo đức tinh vi". Ông khẳng định "trái luật là tội, giữ đúng luật là đức". Để khẳng định tác giả đã dùng các câu nghi vấn tu từ. Bằng lập luận rõ ràng, lí lẽ thấu đáo, Nguyễn Trường Tộ đã chỉ ra một cách thuyết phục sự cần thiết của việc dùng luật để trị dân. Từ đó khẳng định: lập khoa luật để dạy dân hiểu luật là việc làm cấp thiết.
2.2.4. Với cái nhìn tiến bộ và đầy tinh thần trách nhiệm, Nguyễn Trường Tộ đã chỉ rõ vai trò của luật pháp đối với sự ổn định của xã hội. Tư tưởng ấy của ông dù được nói đến cách đây hàng trăm năm nhưng đến nay vẫn còn nguyên giá trị.
3. Soạn bài: Xin lập khoa luật mẫu 3
3.1. Câu 1 trang 73 SGK Văn 11.
Theo Nguyễn Trường Tộ, nội dung của luật bao gồm: Kỉ cương, uy quyền, chính lệnh (chính sách và luật pháp) của quốc gia.
Nguyễn Trường Tộ khẳng định: "Bất cứ một hình phạt nào trong nước đều không vượt ra ngoài luật" và ông dẫn chứng giới thiệu: "ở các nước phương Tây, phạt những ai đã nhập ngạch bộ Hình xử đoán các vụ kiện tụng thì chỉ có thăng trật chứ không bao giờ bị phiếm truất. Dù vua, triều đình cũng không giáng chức họ được một bậc". Từ việc dẫn này có thể thấy tác giả rất đề cao luật, đề cao những người hiểu biết luật và có khả năng dùng luật để điều khiển công việc quốc gia.
3.2. Câu 2 trang 73 SGK Văn 11.
Theo Nguyễn Trường Tộ, kỉ cương, uy quyền, chính lệnh để duy trì sự tồn tại của đất nước. Vì vậy, tác giả khẳng định: “Bất luận quan hay dân mọi người đều phải học luật nước”. Luật đã bao trùm lên tất cả. Nếu đất nước không có các bộ luật thì làm sao giữ được kỉ cương phép nước. Từ quan cho đến thứ dân đều phải hiểu và làm theo luật. Xưa đã đúng, nay càng thấy đúng và thấm thìa hơn.
3.3. Câu 3 trang 73 SGK Văn 11.
Theo tác giả, Nho học không có truyền thống tôn trọng luật pháp. Bởi: "Biết rằng đạo làm người không gì bằng trung hiếu, không gì cần thiết bằng lễ nghĩa. Nhưng các sách Nho chỉ nói suông trên giấy, không làm cũng chẳng bị ai phạt, có làm cũng chẳng được ai thưởng. Bởi vậy xưa nay học đã nhiều mà mấy ai đổi được tâm tính, sửa được lỗi lầm?". Hơn thế, "từ xưa đến nay các vua chúa nắm quyền thống trị cứu nước giúp đời đều nhờ hiểu luật, còn các sách vở khác cũng chỉ là phụ thuộc. Nếu trong nước không có luật thì dù có vạn quyển sách cũng không thể trị dân được".
3.4. Câu 4 trang 73 SGK Văn 11.
Dù lời văn của tác giả tỏ ra đề cao luật pháp, nhưng theo ông, luật pháp và đạo đức gắn bó chật chẽ với nhau. Tác giả khẳng định: "Nếu bảo luật chỉ tốt cho việc cai trị chứ không có đạo đức tinh vi, thế là không biết rằng trái luật là tội, giữ đúng luật là đức. Nếu tận dụng cái lõi công bằng trong luật mà xử thì mọi quyền, pháp trong luật đều là đạo đức. Có cái đức nào lớn hơn chí công vô tư không?". Như thế, theo Nguyễn Trường Tộ, cái đức của pháp luật ấy chính là cái lẽ công bằng. Chí công vô tư đó chính là cái gốc của đức trong luật vậy.
3.5. Câu 5 trang 73 SGK Văn 11.
- Để tăng thêm sức thuyết phục với nhà vua, Nguyễn Trường Tộ đưa ra quan niệm luật của đạo Nho: “Từ tam cương ngũ thường cho đến việc hành chính của sáu bộ đều đầy đủ” (tam cương chỉ mối quan hệ của vua - tôi, cha - con, vợ - chồng. Ngũ thường gồm nhân, trí, tín, lễ, nghĩa). Tam cương ngũ thường là luật bao trùm toàn bộ xã hội và gia đình dưới chế độ phong kiến. Nó là trụ cột để giữ kỉ cương của chế độ phong kiến. Lục bộ là sáu bộ. Đó là cơ quan đầu não của nhà nước phong kiến, lí lẽ ấy chắc Tự Đức không thể chối từ. Tác giả phê phán đạo Nho ớ tính chất vô tích sự, nói suông không có tác dụng, “Biết rằng đạo làm người không gì lớn bằng trung hiếu, không gì cần thiết bằng lễ nghĩa. Nhưng các sách Nho chỉ nói suông trên giấy, không làm cũng chẳng ai bị phạt, có làm cũng chẳng được ai thưởng”. Vì vậy phải có luật và luật phải gắn với thực tiễn hành động của con người. Đó là làm theo pháp luật. Tác giả lấy ngay lời của Khổng Tử “Ta chưa hề thấy ai nhận được lỗi mình mà biết tự trách phạt”. Đúng là chiêu thức “gậy ông đập lưng ông”.
- Phê phán các loại sách ra đời ở thời phong kiến: “Sách vở chỉ chép nào là sự tích chính sự thời xưa của cổ nhân, nào là những bài luận hay ho của người xưa để lại, nào là những áng văn chương trau chuốt của chư tử (học giả thời cổ đại), nào những tiểu thuyết dã sử của những người hiếu sự đặt bày. Trong đó hay có, dở có, người nói này, người nói khác, xét kĩ nhũng thứ sách vở đó chỉ làm rối chí thêm chẳng được tích sự gì”. Tác giả lại lấy lời của Khổng Tử để phủ nhận: “Chép những lời nói suông chẳng bằng thân hành ra làm việc”. Cũng là biện pháp lập luận “gậy ông đập lưng ông”. Tác giả đưa ra dẫn chứng “Thử xem có những nhà nho suốt đời đọc sách đáng lẽ cử chỉ của họ phải làm khuôn thước cho đời, vậy mà tại sao có nhiều người cuộc đời của họ và ứng xử của họ còn tệ hơn những người quê mùa chất phác”.
Lời lẽ ấy như đặt ra câu hỏi: Vì sao lại có tình trạng như vậy? Chỉ có thể trả lời vì họ không được học luật. Vì thế mới cần có luật vậy.
Trên đây VnDoc.com đã giới thiệu tới bạn đọc tài liệu: Soạn bài Xin lập khoa luật. Để có kết quả cao hơn trong học tập, VnDoc xin giới thiệu tới các bạn học sinh tài liệu Đề thi học kì 1 lớp 11, Soạn bài lớp 11, Học tốt Ngữ văn 11, Tài liệu học tập lớp 11 mà VnDoc tổng hợp và đăng tải.