Giao diện mới của VnDoc Pro: Dễ sử dụng hơn - chỉ tập trung vào lớp bạn quan tâm. Vui lòng chọn lớp mà bạn quan tâm: Lưu và trải nghiệm

Soạn bài Tự tình

Soạn bài lớp 11: Tự tình do Hồ Xuân Hương tác thuộc môn Ngữ văn lớp 11 học kỳ 1. Bài soạn dưới đây được VnDoc sưu tầm và giới thiệu với các bạn để tham khảo hiểu rõ hơn về tình cảm và tâm sự của một người phụ nữ đa đoan luôn khát khao được hạnh phúc nhưng luôn gặp phải nhiều điều bất hạnh giúp học tập tốt môn Ngữ Văn lớp 11 chuẩn bị cho bài giảng sắp tới đây của mình.

Khái quát về tác giả Hồ Xuân Hương và bài thơ Tự Tình II

1. Tiểu sử tác giả Hồ Xuân Hương

Theo các tài liệu lưu truyền, Hồ Xuân Hương (chưa rõ năm sinh năm mất) quê ở làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An nhưng sống chủ yếu ở kinh thành Thăng Long. Nữ sĩ có một ngôi nhà riêng ở gần Hồ Tây (Hà Nội bây giờ) lấy tên là Cổ Nguyệt Đường.

Cuộc đời Hồ Xuân Hương lận đận, nhiều nỗi éo le ngang trái: hai lần lấy chồng nhưng đề là lẽ, để đến cuối cùng vẫn sống một mình, cô độc.

Hồ Xuân Hương đi nhiều nơi và thân thiết với nhiều danh sĩ, có người nổi tiếng như Nguyễn Du…

2. Sự nghiệp văn chương của Hồ Xuân Hương

Hồ Xuân Hương từng được mệnh danh là “Bà Chúa Thơ Nôm”.

Sáng tác của Hồ Xuân Hương gồm cả chữ Hán và chữ Nôm. Theo giới nghiên cứu, hiện có khoảng trên dưới 40 bài thơ Nôm tương truyền là của Hồ Xuân Hương. Nổi bật trong sáng tác thơ Nôm Hồ Xuân Hương là tiếng nói thương cảm đối với người phụ nữ, là sự khẳng định, đề cao vẻ đẹp và khát vọng của họ.

Nữ thi sĩ còn có tập thơ Lưu hương kí (phát hiện năm 1964) gồm 24 bài chữ Hán và 26 bài chữ Nôm.

Trong lịch sử văn học Việt Nam, Hồ Xuân Hương là hiện tượng rất độc đáo: nhà thơ phụ nữ viết về phụ nữ, trào phúng mà trữ tình, đậm đà chất văn học dân gian từ đề tài, cảm hứng, đến ngôn ngữ, hình tượng.

3. Nội dung, nghệ thuật bài thơ Tự tình II

Nội dung: Bài thơ nói lên bi kịch tình yêu, gia đình của người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa. Đồng thời cho thấy khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc của Hồ Xuân Hương nói riêng, của tất cả những người phụ nữ trong xã hội phong kiến nói chung

Nghệ thuật: Từ ngữ giản dị mà đặc sắc với những động từ mạnh, từ láy tượng thanh đã thể hiện khao khát đến cháy bỏng và sự nổi loạn trong tâm hồn của Hồ Xuân Hương; những hình ảnh giàu sức gợi.

Soạn bài lớp 11: Tự tình mẫu 1

TỰ TÌNH

Hồ Xuân Hương

Kiến thức cơ bản

1. Hồ Xuân Hương là nữ sĩ tài năng, là hiện tượng văn học trung đại Việt Nam, song cũng là nhà thơ mà cuộc đời còn rất nhiều bí ẩn. Hiện nay phần đông các nhà nghiên cứu thống nhất ý kiến: Bà là con ông Hồ Phi Diễn, một nhà Nho nghèo quê ở Nghệ An. Ông Hồ Phi Diễn ra Bắc dạy học và lấy vợ lẽ, rồi sinh ra Hồ Xuân Hương. Gia đình bà từng sống ở Thăng Long. Bà giao du rộng rãi, đường tình duyên của bà gặp nhiều trắc trở.

2. Bài thơ thuộc chùm ba bài thơ Tự tình của Hồ Xuân Hương. Chùm thơ bộc lộ tâm sự của một người phụ nữ đa đoan luôn khát khao hạnh phúc nhưng luôn gặp những điều bất hạnh. Hiện lên trong chùm thơ là người phụ nữ đằm thắm, cá tính mãnh liệt nhưng không thiếu sự dịu dàng yếu đuối của nữ tính. Bài thơ đã thể hiện một số đặc điểm nổi bật trong phong cách nghệ thuật Hồ Xuân Hương, đó là cảm xúc táo bạo, cái Tôi cá nhân đầy tâm trạng và những hình thơ đầy cá tính với một niềm khát khao hạnh phúc, khát khao sống mãnh liệt. Bài thơ Tự tình tiêu biểu cho phong cách thơ Hồ Xuân Hương ở nỗi cô đơn, ở niềm khát khao hạnh phúc, ở tâm trạng uất ức luôn muốn phá vỡ những khuôn khổ chật hẹp của cuộc sống. Trong bài thơ có sự xuất hiện rất rõ ràng và cụ thể hình tượng nhân vật trữ tình. Cái Tôi cá nhân xuất hiện rất rõ với tâm trạng buồn và cô đơn trĩu nặng.

Rèn kỹ năng

1. Hai câu đầu khái quát không gian, thời gian làm nền cho tâm trạng. Thời gian: đêm khuya. Không gian: trống trải, mênh mông, văng vẳng tiếng trống cầm canh. Đêm khuya buồn và vắng. "Trống canh dồn" gợi vẻ tĩnh lặng của không gian và sự trôi chảy gấp gáp của thời gian. Trên cái nền không gian trống trải ấy xuất hiện hình ảnh nhỏ nhoi đến cô độc "trơ cái hồng nhan". Cái đối với nước non đã nhỏ nhoi lắm rồi lại thêm "cái" như một sự xác đinh, như sự đóng đinh cái lẻ loi vào nền không gian trải rộng. Hai câu thơ làm nổi bật lên sự cố đơn, lẻ loi của nhân vật trữ tình.

2. Hai câu 3 - 4 trực tiếp thể hiện tâm trạng. Đó là tâm trạng buồn không lối thoát. Nhân vật trữ tình tìm đến rượu để giải thoát mình khỏi nỗi cô đơn. Nhưng hương rượu lại càng làm cho người tỉnh táo hơn. Tỉnh và nhận ra sự thật phũ phàng: hạnh phúc không vẹn tròn. Hình ảnh "Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn" thể hiện nỗi cay đắng. Nó khiến người ta liên tưởng đến cảnh ngộ của người phụ nữ bị rơi vào cảnh ngộ duyên phận lỡ làng. Người phụ nữ ấy không chấp nhận thực tại và vẫn khát khao hạnh phúc.

3. Hai câu 5 - 6 mang đậm cá tính của Hồ Xuân Hương. Hai hình ảnh thiên nhiên rất dữ dội thể hiện sự bức bối trong tâm trạng và khát khao phá vỡ những lối mòn quen thuộc của cuộc sống để được tự do. Lối đảo ngữ cùng với những động từ mạnh và gợi cảm thể hiện rõ hơn nỗi khát khao hạnh phúc, giải thoát khỏi cô đơn của nhân vật trữ tình.

4. Hai câu kết bỗng nhiên chùng xuống. Dường như mọi cố gắng đều vô ích. Sự thật vẫn là sự thật. Tâm trạng được trực tiếp bộc lộ. Thời gian vô tình cứ trôi chảy, xuân của tự nhiên qua đi rồi trở lại nhưng xuân của người thì không. Câu thơ cuối phản phất sự cay đắng chua xót của người phụ nữ bất hạnh, có những cuộc tình duyên không trọn vẹn đủ đầy.

5. Trong Tự tình, nhà thơ đã dùng nhiều từ ngữ và hình ảnh gây ấn tượng mạnh, đó là các từ thuần Việt giàu hình ảnh, màu sắc với sắc thái đặc tả mạnh, như các động từ dồn, trơ, xế, đâm toạc, xiên ngang, đi, lại lại, san sẻ..., các tính từ say, tỉnh, khuyết, tròn... Các từ ngữ này có khả năng biểu lộ chính xác và tinh tế trạng thái tâm trạng của nhân vật trữ tình. Đó là sự cô đơn, là khát khao được sống, được hạnh phúc. Tâm trạng uất ức bị dồn nén dường như được thoát ra, trải ra cùng những hình ảnh, những từ ngữ táo bạo ấy.

Tư liệu tham khảo

1. Về tác giả

"... Đường chồng con chắc nhiều long đong. Đến nay mới rõ tên một người chồng là Trần Phúc Hiển, vào những năm 1810, thế kỷ XIX làm tri phủ Tam Đài tức về sau là Vĩnh Tường, rồi tiếp theo giữ chức tham hiệp An Quảng và mất năm 1819. Còn ông phủ Vĩnh Tường có phải Trần Phúc Hiển hay một người khác, Tổng Cóc là ai? Có phải là Nguyễn Bình Kính ở phủ Lâm Thao hay là người nào? Cứ lẽ thường ngày xưa, khó lòng một ông quan tỉnh lại đi lấy vợ góa của kẻ thấp hơn mình dù lấy làm thiếp và vì nể tài. Mấy mươi bài thơ xướng họa giữa Tốn Phong Thị được sáng tác vào quãng 1807-1814, mà giọng chân thực không có gì đáng nghi ngờ, lại cho thấy một Hồ Xuân Hương không còn mười tám đôi mươi nhưng "quả mai ba bảy đương vừa" mà trong tâm tư đã cho mình thuộc số má đào phận bạc và lấy làm xấu hổ khi nghĩ đến chuyện chồng con. Chỗ này chưa thấy ánh sáng. Điều chắc chắn là phận chồng con không ra gì.

Một điều thường được ghi nhận là Xuân Hương đi đây đi đó nhiều nơi, lên tận Tuyên Quang, vào tới Thanh Hóa, qua đến An Quảng, sang cả Ninh Bình, còn Vĩnh Yên, Sơn Tây, Hà Đông đều có vết chân của nữ sĩ. Thời xưa, với phụ nữ, chu du như vậy rất khó. Có người không dám tin, nhưng thơ Hồ Xuân Hương lại là bằng chứng.

Xuân Hương lãng du như thế vào thời gian nào? Khó mà xác định nhưng bao nhiêu cảnh bấy nhiêu tình là chỗ từng trải của Xuân Hương.

Xuân Hương mất năm nào? Chưa đâu đáng tin bằng lời thơ của Miên Thẩm: trước 1842. Như vậy Xuân Hương thuộc vào thế hệ các nhà thơ cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX và nhỏ tuổi hơn Nguyễn Du.

Nói thêm một chút về ngôn ngữ: Sở dĩ ngôn ngữ Xuân Hương lột được mọi ý đồ của nữ sĩ chính vì cái tài vô song của người vận dụng. Cái tài ấy chẳng khác cái tài của người làm xiếc. Vượt xa trên mức tưởng tượng. Tài tình như thần thông biến hóa. Dân gian mà cổ điển. Điêu luyện mà cứ hồn nhiên. Thực hư, hư thực, nó đấy mà không phải nó, bóng mà hình, hình mà bóng, đùa mà thật, thật mà đùa. Có vẻ như Tôn Ngộ Không. Với Tam Tạng thì chỉ một thân, trung thực, chân chất đến xúc động, nhưng với yêu quái, ma vương thì có đến trăm Tôn Ngộ Không, chẳng biết đâu là thật là giả...

Chính xác đến ghê người. Nói đến con dê chưa thật đã lớn, nhưng cũng chẳng còn là dê con, loại dê choai choai, hăng máu một cách liều lĩnh, Xuân Hương dùng "dê cỏn" chứ không dùng "dê con". ấy là Xuân Hương muốn chỉ bọn thầy khóa hãy trẻ tơ, chưa đủ lông đủ cánh gì, non nớt tuổi đời, non cả tài thơ mà dám chơi trèo, định ghẹo tới bà chị và làm thơ để ghẹo...
Chỗ tài tình nhất có lẽ là sự lấp lửng nghĩa nọ nghĩa kia, ở một hình tượng, ở một từ, một cách nói...

Đồn rằng Nguyễn Khuyến nói về Hồ Xuân Hương có câu:

Thơ thánh, thơ tiên đời vẫn có,
Tung hoành thơ quỷ hiếm hoi thay!

Tản Đà cũng cho "trong thơ Xuân Hương có quỷ". Xuân Diệu gọi nữ sĩ là "Bà chúa thơ Nôm". Hẳn đó là những lời khen đáng tin. Tuy có vẻ mỗi người như muốn nhìn một mặt của thơ Xuân Hương, nhưng ngẫm kỹ thì đều dụng ý nói toàn diện cái tài tình của nữ sĩ, nội dung cũng như hình thức."

Lê Trí Viễn (Nghĩ về thơ Hồ Xuân Hương, Sở giáo dục Nghĩa Bình xuất bản năm 1987)

2. Thơ Hồ Xuân Hương

"Nhìn chung trong thơ cổ điển của nước ta, bao gồm từ Chu Mạnh Trinh trở lên, nếu xét về khía cạnh có tính cách dân tộc hơn cả có lẽ thơ Hồ Xuân Hương "thì treo giải nhất chỉ nhường cho ai". Thơ Hồ Xuân Hương Việt Nam hơn cả vì đã thống nhất được đến cao độ hai tính cách dân tộc và đại chúng...

... Nội dung thơ Hồ Xuân Hương toát ra từ đời sống "bình dân, hằng ngày và trên đất nước nhà. Xuân Hương nói ngay những cảnh có thực của núi sông ta, vứt hết cả sách vở, khuôn sáo, lấy hai con mắt của mình mà nhìn, cái đèo Ba Dội của Xuân Hương rõ là ba dội, ba đèo, tùm hum nóc, lún phún rêu, gió lắt lẻo, sương đầm đìa, phong cảnh sống như cựa quậy lên...

... Hồ Xuân Hương tưởng như đã lìa cái gốc nho sĩ của mình mà "lăn lóc" giữa bình dân. Xuân Hương là con ốc, quả mít, cái bánh trôi. Xuân Hương làm thơ với cỏ gà, cá giếc, quả cam, lá trầu, con ong, cái giếng, khung cửi, cây đa, cái diều... Mà những thứ ấy vẫn giữ nguyên chất bình dân, chứ không bị mang hia, đội mũ như trong lối thơ khẩu khí...

... Hồ Xuân Hương là nhà thơ dòng Việt, bà chúa thơ Nôm... Xuân Hương đã làm cho chữ "nôm na" không đồng nghĩa với "mánh qué" nữa, mà nôm na là đồng nghĩa với thuần túy, trong trẻo, tuyệt vời. Bà chúa thơ Nôm là chúa cả nội dung và hình thức. Xuân Hương đã sáng tạo được một chất thơ rất man mác, nên thơ...

(Xuân Diệu, Hồ Xuân Hương, Bà chúa thơ Nôm, Nxb Văn học, 1987)

Soạn bài lớp 11: Tự tình - Hồ Xuân Hương mẫu 2

Bố cục

Phần 1 (bốn câu thơ đầu): Tâm trạng, nỗi lòng của nhân vật trữ tình trong cảnh cô đơn, lẻ loi.

Phần 2 (bốn câu thơ sau): Thái độ vùng vẫy của nhân vật trước số phận nhưng vẫn không thể thoát khỏi nỗi sầu lẻ loi.

Câu 1 (trang 19 SGK Ngữ Văn 11 tập 1)

- Hoàn cảnh: nhân vật bị đặt trong không gian cô đơn, trống trải.

+ Đêm khuya: không gian gợi sự cô đơn, suy tư.

+ Văng vẳng trống canh dồn: không gian rộng lớn nhưng hoang vu, chỉ nghe thấy tiếng trống canh dội lại.

+ Trơ: lẻ loi, một mình.

+ Cái hồng nhan đặt trong sự đối lập với nước non: cái nhỏ bé đối lập với cái rộng lớn mênh mông

- Tâm trạng của nhân vật trữ tình:

+ Chén rượu hương đưa say lại tỉnh: mượn rượu giải sầu nhưng càng say lại càng nhận ra nỗi cô đơn của mình.

+ Vầng trăng, bóng xế, khuyết chưa tròn: ý thức về thân phận lẻ loi, cuộc đời nhiều dở dang.

⇒ Nhân vật trữ tình tự nhận thức được cảnh ngộ lẻ loi, đơn độc đến chơ vơ của mình.

Câu 2 (trang 19 SGK Ngữ Văn 11 tập 1)

- Hình tượng thiên nhiên: độc đáo, khác thường, phá vỡ trật tự thông thường.

+ Phép đảo ngữ: vị ngữ (xiên ngang mặt đất, đâm toạc chân mây) đứng trước vị ngữ (rêu từng đám, đá mấy hòn).

+ Đảo trật tự từ: danh từ trung tâm (rêu, đá) đứng trước các từ chỉ loại, chỉ lượng (từng đám, mấy hòn).

⇒ Tâm trạng, thái độ của nhà thơ trước số phận: bất mãn, muốn bứt tung, muốn vùng vẫy.

Câu 3 (trang 19 SGK Ngữ Văn 11 tập 1)

+ Xuân: vừa có nghĩa chỉ mùa xuân, kết hợp với cụm từ “lại lại” chỉ sự chảy trôi của thời gian.

+ Xuân: cũng có nghĩa là tuổi thanh xuân, tuổi trẻ đang trôi qua.

+ Mảnh tình - san sẻ - tí - con con: thủ pháp tăng tiến, cái vốn đã bé nhỏ, khiếm khuyết giờ còn phải chia năm xẻ bảy.

⇒ Tâm sự của tác giả: đau buồn, bất lực trước số phận hẩm hiu, dở dang nhưng đồng thời cũng khao khát cuộc sống hạnh phúc.

Câu 4 (trang 19 SGK Ngữ Văn 11 tập 1)

- Bi kịch duyên phận: dở dang, cô lẻ.

+ Trơ cái hồng nhan với nước non; Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn; Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại; Mảnh tình san sẻ tí con con.

- Khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc.

+ Xiên ngang mặt đất rêu từng đám; Đâm toạc chân mây đá mấy hòn.

+ Song song với ý thức về duyên phận dở dang là khát vọng cuộc sống hạnh phúc tròn đầy.

Luyện tập

Câu 1 (trang 20 SGK Ngữ Văn 11 tập 1):

Tự tình I

Tự tình II

Giống nhau

+ Sử dụng thể thơ thất ngôn bát cú.

+ Bày tỏ ý thức về số phận dở dang, hẩm hiu và tâm trạng buồn rầu, bất mãn; đồng thời khẳng định khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc của nhà thơ.

Khác nhau

Nỗi oán hận, sầu thảm vì chẳng gặp được duyên. Tuy nhiên nhân vật trữ tình vẫn hiện lên với vẻ cao ngạo, khinh đời.

Nỗi sầu muộn, chán ngán, chua chát vì duyên đã đến nhưng lại dở dang, hẩm hiu. Nhân vật trữ tình dù khao khát hạnh phúc nhưng cũng không tránh khỏi nỗi sầu bi trước số phận.

Ý nghĩa

Bài thơ thể hiện tâm trạng, thái độ của Hồ Xuân Hương: vừa đau buồn, vừa phẫn uất trước duyên phận, gắng gượng vươn lên nhưng vẫn rơi vào bi kịch. Bài thơ cho thấy khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc và tài năng độc đáo của “Bà chúa Thơ Nôm” trong nghệ thuật sử dụng từ ngữ và xây dựng hình tượng.

Soạn bài lớp 11: Tự tình - Hồ Xuân Hương mẫu 3

1. Bố cục

Cách chia 1:

+ Hai câu đề: Giới thiệu về hình ảnh người vợ lẽ

+ Hai câu thực: Cách giải quyết nỗi tâm tư của người vợ lẽ

+ Hai câu luận: Khát khao tìm đến hạnh phúc của người phụ nữ

+ Hai câu kết: Quy luật khắc nghiệt của thời gian và tuổi trẻ

- Cách chia 2:

+ Phần 1 (4 câu đầu): thể hiện nỗi lòng cô đơn, buồn tủi, khát vọng hạnh phúc

+ Phần 2 (4 câu tiếp): Tâm trạng tuyệt vọng của cảnh đời lẽ mọn

2. Hướng dẫn

Câu 1 (trang 19 sgk Ngữ văn 11 Tập 1):

- Thời gian: Đêm khuya.

- Không gian: yên tĩnh, trống trải, mênh mông

- Hoàn cảnh: Một mình đơn côi gối chiếc

- Tâm trạng: tủi hổ, bẽ bàng, cảm thấy bản thân bị rẻ rúng đầy mỉa mai. Tuy nhiên từ “trơ” còn kết hợp với từ “nước non” (cái vĩnh hằng) thể hiện thái độ thách đố của Hồ Xuân Hương

- Cụm từ “say lại tỉnh” gợi lên cái vòng luẩn quẩn, tình duyên đã trở thành trò đùa của con tạo, càng say lại càng tỉnh, càng cảm thấy nỗi đau thân phận.

- Hình ảnh “Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn” thể hiện sự éo le: trăng sắp tàn mà vẫn “khuyết chưa trong”. Tuổi thanh xuân sắp trôi qua mà nhân duyên không trọn vẹn. Chỉ trách phận hẩm duyên ôi

Câu 2 (trang 19 sgk Ngữ văn 11 Tập 1):

Câu 5, 6 sử dụng:

- Phép đối từng cặp: xiên ngang >< đâm toạc; rêu từng đám >< đá mấy hòn; mặt đất >< chân mây...

- Biện pháp đảo ngữ kết hợp với các động từ mạnh ( xiên, đâm) thể hiện sự bướng bỉnh, ngang ngạnh của Hồ Xuân Hương.

- Rêu xiên ngang mặt đất, đá đâm toạc chân mây như vạch đất, vạch trời mà hờn oán, không chỉ phẫn uất mà còn phản kháng.

⇒ Tinh thần phản kháng, sức sống mãnh liệt của Hồ Xuân Hương ngay cả trong tình huống bi thương.

Câu 3 (trang 19 sgk Ngữ văn 11 Tập 1):

- Cụm từ “xuân đi xuân lại lại”: Thể hiện sự tuần hoàn của mùa xuân cũng như tuổi xuân qua đi. Từ “lại” thứ nhất nghĩa là thêm lần nữa, “lại” thứ hai nghĩa lại trở lại. Sự trở lại của mùa xuân đồng nghĩa với sự ra đi của tuổi xuân. Cụm từ đó lại kết hợp với từ “ngán” thể hiện tâm trạng ngán ngẩm, ngán lắm rồi cái nỗi đời éo le, bạc bẽo.

- Nghệ thuật tăng tiến “mảnh tình – tí – con con” nhấn mạnh sự nhỏ bé dần, sự ít ỏi, sự sẻ chia trong hạnh phúc cuộc đời của Hồ Xuân Hương làm cho nghịch cảnh càng éo le hơn: mảnh tình vốn đã ít, đã bé, đã không trọn vẹn lại còn phải “san sẻ” thành ra chẳng còn gì (tí con con) nên càng xót xa, tội nghiệp.

⇒ Tâm trạng xót xa, tủi cực, hẩm hiu của người phụ nữ mang thân đi làm lẽ

Câu 4 (trang 19 sgk Ngữ văn 11 Tập 1):

- Bài thơ vừa nói lên bi kịch, của tuổi xuân, của duyên phận. Trong quang thời gian đẹp nhất của người con gái lại phải mang thân phận vợ lẽ, chăn đơn gối chiếc. Phải sống trong cảnh chồng chung, phải san sẻ tình cảm của mình cho người khác.

- Hồ Xuân Hương vẫn luôn khát khao hạnh phúc, gồng mình lên để chống lại sự nghiệt ngã của số phận.

3. Luyện tập

(trang 19 sgk Ngữ văn 11 Tập 1)

Câu 1 (trang 20 sgk Ngữ văn 11 Tập 1):

So sánh bài thơ Tự tình I và Tự tình II của tác giả Hồ Xuân Hương

a, Giống nhau:

- Sử dụng thơ Nôm Đường luật

- Sử dụng ngôn ngữ sắc sảo, tài hoa nhất là khả năng sử dụng các biện pháp nghệ thuật: đảo ngữ, phép đối, tăng tiến...

- Bộc lộ tâm trạng: nỗi buồn tủi, xót xa, phẫn uất trước cảnh duyên phận hẩm hiu.

b, Khác nhau:

- Cảm xúc trong Tự tình I : yếu tố phản kháng, thách đố duyên phận mạnh mẽ hơn.

- Còn ở Tự tình II: Vẫn có yếu tố phản kháng, nhưng bên cạnh đó còn thể hiện nỗi niềm xót xa, tủi hổ, bẽ bàng của người phụ nữ

Câu 2 (trang 20 sgk Ngữ văn 11 Tập 1):

Học thuộc và đọc diễn cảm bài thơ.

Trên đây VnDoc.com đã giới thiệu tới bạn đọc tài liệu: Soạn bài lớp 11: Tự tình. Để có kết quả cao hơn trong học tập, VnDoc xin giới thiệu tới các bạn học sinh tài liệu soạn văn lớp 11, Đề thi học kì 2 lớp 11, các tài liệu môn Ngữ văn 11 mà VnDoc tổng hợp và đăng tải.

Chia sẻ, đánh giá bài viết
6
Sắp xếp theo
    🖼️

    Gợi ý cho bạn

    Xem thêm
    🖼️

    Soạn bài lớp 11

    Xem thêm