Địa lí 11 Chân trời sáng tạo bài 7
Địa lý 11 Chân trời sáng tạo bài 7: Thực hành Tìm hiểu nền kinh tế tri thức
Địa lí 11 Chân trời sáng tạo bài 7: Thực hành Tìm hiểu nền kinh tế tri thức được VnDoc.com tổng hợp và xin gửi tới bạn đọc cùng tham khảo. Mời các bạn cùng theo dõi để có thêm tài liệu giải sgk Địa 11 Chân trời sáng tạo nhé.
I. Nội dung
Câu hỏi: Hãy thu thập tư liệu, viết báo cáo tìm hiểu về đặc điểm và các biểu hiện của nền kinh tế tri thức.
Bài làm
- Nền kinh tế tri thức dựa ngày càng nhiều vào các thành tựu của khoa học - công nghệ, gồm: Nghiên cứu, sáng tạo ra công nghệ mới, sản phẩm mới. Vì vậy, hình thành và phát triển tài nguyên trí lực là nhiệm vụ quan trọng hiện nay nhằm đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững.
Cách đây hơn 180 năm, C. Mác đã nhận định, khoa học sẽ trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Trong bộ Tư bản, C. Mác khẳng định: “Sự phát triển của tư bản cố định là chỉ số cho thấy tri thức xã hội phổ biến đã chuyển hóa đến mức độ nào đó thành lực lượng sản xuất trực tiếp”(1).
C. Mác cũng dự báo, theo đà phát triển của đại công nghiệp, việc tạo ra của cải thực sự trở nên ít phụ thuộc vào thời gian lao động và số lượng lao động đã chi phí mà chúng phụ thuộc vào trình độ chung của khoa học và tiến bộ kỹ thuật, hay là phụ thuộc vào việc ứng dụng khoa học ấy trong sản xuất. Lao động biểu hiện ra không phải chủ yếu là lao động được nhập vào quá trình sản xuất mà chủ yếu là một loại lao động, trong đó, con người là người kiểm soát và điều tiết bản thân quá trình sản xuất. Hệ thống máy móc tự động sẽ từng bước thay thế hầu hết lao động trực tiếp. Bởi vậy, thay vì làm tác nhân chủ yếu của quá trình sản xuất, công nhân lại đứng bên cạnh quá trình ấy. Khi ấy tri thức trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, phát minh trở thành một nghề đặc biệt, và đối với nghề này thì việc vận dụng khoa học vào nền sản xuất trực tiếp tự nó trở thành một trong những yếu tố có tính chất quyết định và kích thích. Quá trình sản xuất từ chỗ là một quá trình lao động giản đơn thành một quá trình khoa học. Lao động trực tiếp về lượng sẽ quy vào một phần nhỏ hơn, còn về chất được chuyển hóa thành một yếu tố cần thiết, nhưng là thứ yếu so với lao động khoa học phổ biến và đối với sự áp dụng khoa học tự nhiên vào công nghệ.
Một khi lao động dưới hình thái trực tiếp không còn là nguồn gốc của của cải nữa thì nền sản xuất dựa trên giá trị trao đổi sẽ bị sụp đổ và sự rút ngắn thời gian lao động cần thiết nhằm tăng thời gian lao động thặng dư sẽ thay bằng tăng thời gian nhàn rỗi cho xã hội nói chung và cho từng thành viên của xã hội nói riêng, nghĩa là tạo ra khả năng rộng rãi để phát triển một cách hoàn toàn đầy đủ lực lượng sản xuất của từng người, do đó cũng là của cả xã hội.
Nếu sức sản xuất của lao động tăng lên nhờ ứng dụng các thành tựu khoa học - công nghệ hiện đại vẫn nhắm vào mục tiêu rút ngắn thời gian lao động cần thiết để tăng lao động thặng dư thì tình trạng thất nghiệp và sản xuất thừa tương đối sẽ ngày càng trầm trọng. Bởi vậy, quần chúng công nhân phải tự mình chiếm hữu lấy lao động thặng dư của mình. Khi nào công nhân bắt đầu thực hiện việc đó, thì khi ấy, một mặt thước đo thời gian lao động cần thiết sẽ là những nhu cầu của cá nhân xã hội, và mặt khác, sự phát triển của sức sản xuất xã hội sẽ diễn ra nhanh chóng đến mức mặc dù sản xuất sẽ nhằm vào sự giàu có của tất cả mọi người, nhưng thời gian nhàn rỗi của mọi người sẽ tăng lên. Bởi vì sự giàu có thật sự là sức sản xuất phát triển của tất cả các cá nhân. Khi ấy thước đo sự giàu có tuyệt nhiên sẽ không còn là thời gian lao động nữa, mà là thời gian nhàn rỗi.
Như vậy, không thể nóng vội xóa bỏ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa khi lực lượng sản xuất chưa đòi hỏi, khi sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa chưa trở thành xiềng xích kìm hãm sự phát triển lực lượng sản xuất, khi những điều kiện cho sự tiêu vong của sở hữu tư bản chủ nghĩa chưa xuất hiện.
Cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại
So với các cuộc cách mạng công nghiệp trước, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư khác cả về tốc độ, phạm vi và chắc chắn sẽ tác động to lớn lên toàn bộ các hệ thống toàn cầu, báo trước sự chuyển hóa toàn bộ các hệ thống: sản xuất, quản lý, phân phối, tiêu dùng... Không giống các cuộc cách mạng công nghiệp trước vốn chỉ tập trung ở các quốc gia phát triển, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư phủ khắp toàn cầu, do đó, tầm ảnh hưởng cũng rộng hơn.
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại có hai đặc trưng chủ yếu:
Một là, thời gian cho một phát minh mới của khoa học - công nghệ ra đời thay thế cho phát minh cũ có xu hướng rút ngắn lại và phạm vi ứng dụng vào sản xuất và đời sống ngày càng mở rộng. Vì vậy, đòi hỏi cần được kết hợp chặt chẽ giữa chiến lược phát triển khoa học - công nghệ với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội.
Hai là, khoa học - công nghệ đã thực sự trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp (bao gồm cả khoa học tự nhiên, khoa học xã hội - nhân văn...) do con người tạo ra và thông qua con người tác động trở lại đời sống kinh tế - xã hội... Vì vậy, đòi hỏi cần phải có chính sách đầu tư cho khoa học - công nghệ một cách thích ứng...
Trong giai đoạn hiện nay, khoa học - công nghệ luôn gắn bó chặt chẽ với nhau: khoa học là tiền đề trực tiếp của công nghệ và công nghệ lại là kết quả trực tiếp của khoa học. Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư làm thay đổi căn bản phương thức sản xuất và mọi mặt đời sống xã hội, hình thành và phát triển kinh tế tri thức, kinh tế số, xã hội số, chính phủ số… Ngày nay, cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, nhất là cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư phát triển mạnh mẽ, thì nguồn lực chuyển mạnh từ nguồn lực hữu hình là các tư liệu sản xuất sang nguồn lực vô hình là tri thức của loài người, trí tuệ của con người, trí tuệ nhân tạo, là công nghệ tiên tiến, hiện đại, công nghệ kỹ thuật số, in-tơ-nét vạn vật, thông tin, dữ liệu lớn (big data), bằng sáng chế, phát minh, giải pháp công nghệ, bản quyền, thương hiệu, nhãn hiệu hàng hóa, lợi thế thương mại, uy tín trên thương trường..Vì vậy, phải coi phát triển khoa học - công nghệ thực sự là quốc sách hàng đầu; phải chuyển mạnh từ áp dụng, “bắt chước” công nghệ sẵn có sang đổi mới sáng tạo công nghệ, phát triển công nghệ mới, tiên tiến hiện đại là một đột phá chiến lược. Bên cạnh đó, cần có công nghệ “Made by Vietnam” để tạo ra hàng hóa “Made by Việt Nam”. Những yêu cầu đó đòi hỏi phải hoàn thiện thể chế về sở hữu trí tuệ theo hướng khuyến khích đổi mới sáng tạo, phát triển khoa học - công nghệ, bảo đảm tính minh bạch và độ tin cậy cao; quyền sở hữu trí tuệ được bảo vệ và thực thi hiệu quả...
II. Chuẩn bị
Câu hỏi:
- Thu thập tư liệu về khái niệm, đặc điểm, biểu hiện của nền kinh tế tri thức từ internet, sách, báo, tạp chí,..
- Hệ thống hóa các tư liệu. So sánh, xử lí tư liệu thu thập được nhằm phục vụ nội dung của báo cáo.
- Xây dựng đề cương báo cáo.
Bài làm
Kinh tế tri thức bao gồm các hoạt động như chuyển giao, nghiên cứu công nghệ,… để tạo nên nhiều của cải vật chất và nâng cao những giá trị tinh thần của con người. Chung quy lại thì đây là nền kinh tế phát triển chủ yếu bởi sức mạnh của tri thức trong việc vận dụng hiệu quả các nguồn lực về kinh tế. Nhờ có nền kinh tế này mà đời sống của con người ngày càng được nâng cao hơn so với trước đây rất nhiều.
Vai trò, đặc trưng nền kinh tế tri thức
Nền kinh tế tri thức có những vai trò và đặc trưng nào đối với sự phát triển của đất nước và đời sống con người? Cùng đi sâu vào tìm hiểu về các vai trò và đặc trưng dưới đây nhé!Đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của nhân loại
Tri thức trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp
Tất cả chúng ta đều biết rằng, tri thức đóng vai trò quan trọng nhất đối với nền kinh tế đang phát triển dựa vào tri thức. Việc con người áp dụng nguồn tri thức vào hoạt động sản xuất của cải và vật chất chính là tiền đề quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế. Để làm được điều này thì đòi hỏi đội ngũ lao động có chất xám, tay nghề cao và được đào tạo chuyên môn một cách bài bản.
Sản xuất công nghệ là hình thức sản xuất quan trọng
Đối với nền kinh tế công nghiệp thì việc tối ưu hóa cũng như hoàn thiện công nghệ sẵn có sẽ tạo nên sức cạnh tranh phần lớn. Tuy nhiên, đối với nền kinh tế tri thức thì phải luôn luôn nghiên cứu và sáng tạo không ngừng để sản xuất ra nền công nghệ mới. Đây cũng chính là hình thức sản xuất quan trọng nhất.
Lao động tri thức chiếm tỷ trọng cao trong sản xuất kinh doanh
Tại sao nói lao động tri thức chiếm tỷ trọng cao trong sản xuất kinh doanh? Bởi vì đối với nền kinh tế tri thức thì lao động trí tuệ sẽ giúp tạo ra rất nhiều sản phẩm mang giá trị cao. Theo đó, cơ cấu lao động sẽ được thay đổi từ trình độ thấp đổi mới sang lao động trí tuệ.
Điều quan trọng là nguồn lực lao động phải luôn luôn được tri thức hóa. Chỉ có như vậy thì nguồn lực lao động mới không ngừng đổi mới, sáng tạo hơn để bắt kịp với những nhu cầu mới nhất của xã hội. Năng lực và trí tuệ luôn luôn là yếu tố mẫu chốt để mang lại tiềm năng phát triển cũng như nâng cao tính cạnh tranh đối với mỗi quốc gia.
Kinh tế tri thức là hệ quả tất yếu của toàn cầu hóa
Nền kinh tế tri thức chỉ được tạo ra và phát triển khi lực lượng lao động sản xuất có trình độ cao và hệ thống sản xuất có sự kết nối nối giữa các công ty đến từ nhiều quốc gia trên thế giới. Từ đó, các quốc gia khắp thế giới sẽ tạo ra những công dân toàn cầu có thể làm việc tại bất cứ đất nước nào mà có cùng trình độ và cần nền kinh tế này. Do vậy, đây là hệ quả tất yếu dẫn đến toàn cầu hóa.
Cơ hội
Chúng ta đều biết rằng, kinh tế tri thức đóng vai trò quan trọng đối với không chỉ Việt Nam mà cả thế giới. Nhờ phát triển vượt bậc tạo ra cho nhân loại rất nhiều cơ hội. Cùng điểm qua những lợi thế của nền kinh tế như sau:
Hoạt động sản xuất kinh doanh nhờ áp dụng nguyên liệu và năng lượng tự nhiên nên tạo ra những sản phẩm sạch và không gây ô nhiễm môi trường. Từ đó tạo tiền đề phát triển bền vững;
Sản xuất sản phẩm theo nhu cầu tiêu dùng, luôn luôn có sự cân bằng giữa cung và cầu, hạn chế hàng tồn kho;
Cái mới luôn được sáng tạo liên tục chứ không phải từ cái cũ phát triển lên;
Quá trình nghiên cứu, sáng tạo của con người luôn không ngừng được thực đẩy, phát triển ra kỹ thuật công nghệ hiện đại;
Có sự ứng dụng công nghệ thực tế ảo hay còn gọi là VR trong các hoạt động như học tập, thiết kế, xây dựng, kiến trúc, thực nghiệm khoa học,… giúp tiết kiệm được thời gian, công sức và tiền bạc, đồng thời nâng cao năng suất lao động.Quá trình nghiên cứu, sáng tạo không ngừng của con người
Thách thức
Bên cạnh những ưu thế và cơ hội mà nền kinh tế tri thức mang lại thì nhân loại vẫn còn phải đối mặt với những thách thức mới. Những thách thức này đòi hỏi thế giới phải không ngừng đổi mới và có giải pháp khắc phục. Những thách thức chủ yếu mà con người phải đối mặt
Con người bắt buộc phải không ngừng học tập, sáng tạo nên nhiều cái mới để thích ứng và bắt kịp với thời đại. Từ đó dẫn tới việc con người làm việc như một cỗ máy không có thời gian nghỉ ngơi để kiếm tìm cái mới;
Công nghệ, kỹ thuật thay đổi liên tục dẫn tới sự lãng phí và ảnh hưởng tới môi trường;
Sự phân hóa giàu nghèo gia tăng, nguy cơ thất nghiệp ngày càng nhiều;
Áp dụng quá nhiều khoa học công nghệ hiện đại như tự động hóa, rô bốt thay thế sức lao động dẫn tới việc con người quá ỷ lại vào công nghệ, ít vận động ảnh hưởng tới sức khỏe;
Tình trạng nghiện thiết bị điện tử như điện thoại thông minh, máy tính và lối sống ảo của giới trẻ ngày càng cao;
III. Gợi ý một số thông tin tham khảo
Câu hỏi: Thu thập tư liệu từ một số website như:
- Tạp chú Cộng sản/ Các bài viết về phát triển kinh tế tri thức tại Việt Nam.
- Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế/ Khái niệm, đặc điểm; các bài viết về khoa học- công nghệ và đổi mới sáng tạo trên thế giới
- Liên hợp quốc/ Các bài viết, báo cáo về phát triển kinh tế tri thức thế giới toàn cầu.
Bài làm
Thu thập một số thông tin như: Công nghệ thông tin, ứng dụng thành tựu về công nghệ của cách mạng,..
------------------------------------
Bài tiếp theo: Địa lí 11 Chân trời sáng tạo bài 8
VnDoc.com vừa gửi tới bạn đọc bài viết Địa lí 11 Chân trời sáng tạo bài 7: Thực hành Tìm hiểu nền kinh tế tri thức. Hi vọng qua bài viết này bạn đọc có thêm tài liệu để học tập tốt hơn môn Địa lí 11 Chân trời sáng tạo. Mời các bạn cùng tham khảo thêm tại mục Ngữ văn 11 Chân trời sáng tạo, Lịch sử 11 Chân trời sáng tạo.