Chữ viết của các quốc gia cổ đại phương Đông là gì?
VnDoc xin giới thiệu bài Chữ viết của các quốc gia cổ đại phương Đông là gì? được chúng tôi sưu tầm và tổng hợp lí thuyết trong chương trình giảng dạy. Nội dung tài liệu sẽ giúp các bạn học sinh học tốt môn Lịch sử lớp 10 hiệu quả hơn. Mời các bạn tham khảo.
Chữ viết của các quốc gia cổ đại phương Đông
Câu hỏi: Chữ viết của các quốc gia cổ đại phương Đông là gì?
Trả lời:
- Người ta cần ghi chép và lưu trữ nên chữ viết ra đời, đây là phát minh lớn của loài người.
- Vào khoảng thiên niên kỉ IV TCN, chữ viết đã xuất hiện ở Ai Cập và Lưỡng Hà.
- Ban đầu là chữ tượng hình (hình vẽ những gì mà họ muốn nói), sau đó họ sáng tạo thêm những kí hiệu biểu hiện khái niệm trừu tượng.
- Sau này, người ta cách điệu hóa chữ tượng hình thành nét và ghép các nét theo quy ước để phản ánh ý nghĩ của con người một cách phong phú hơn gọi là chữ tượng ý. Chữ tượng ý chưa tách khỏi chữ tượng hình mà thường được ghép với một thanh để phản ánh tiếng nói, tiếng gọi có âm sắc, thanh điệu của con người.
+ Người Ai Cập: viết trên giấy làm bằng vỏ cây papirút.
+ Người Trung Quốc: lúc đầu khắc chữ trên xương thú hoặc mai rùa, về sau họ đã biết kết hợp một số nét thành chữ và viết trên thẻ tre hay trên lụa.
1. Sự hình thành các quốc gia cổ đại phương Đông
Nếu như các quốc gia cổ đại phương Tây được hình thành ở gần các vùng biển lớn với điều kiện tự nhiên không quá thuận lợi thì ngược lại, các quốc gia cổ đại phương Đông được hình thành dọc theo lưu vực những con sông lớn. Tại các khu vực này đất đai màu mỡ và rất thuận lợi để phát triển nông nghiệp.
Bắt đầu từ cuối thiên niên kỷ thứ IV đến thiên niên kỷ thứ III (TCN), các quốc gia lớn được lần lượt hình thành bao gồm Ai Cập ở lưu vực sông Nin, Lưỡng Hà ở lưu vực sông Owphorat, Ấn Độ ở sống Hằng và Trung Quốc ở sông Hoàng Hà. Đây chính là 4 quốc gia cổ đại đầu tiên và lớn nhất ở phương Đông.
Trong quá trình phát triển, các quốc gia cổ đại này cũng bắt đầu hình thành lên những thể chế xã hội và có sự phân biệt các tầng lớp. Về cơ bản, xã hội của các quốc gia này phân ra làm 3 tầng lớp chính là nông dân công xã giữ vai trò sản xuất chủ đạo giúp tạo ra của cải cho xã hội. Tầng lớp thứ 2 là giai cấp thống trị gồm quý tộc và quan lại giữ vai trò nắm giữ của cải và có quyền thế. Cuối cùng là giai cấp nô lệ với thân phận hèn kém và bị bóc lột. Nếu xếp theo thứ tự đúng sẽ là tầng lớp nô lệ – tầng lớp nông dân công xa – tầng lớp quý tộc, quan lại.
2. Những thành tựu của các quốc gia cổ đại phương Đông
* Thành tựu về Lịch pháp và Thiên văn học
Ở các quốc gia cổ đại phương Đông, những tri thức Thiên văn học và Lịch pháp học có thể nói là ra đời sớm nhất, vì nó gắn liền với nhu cầu sản xuất nông nghiệp của người dân. Ở phương Đông, nghề trồng trọt ở nơi đây rất phát triển, và để cày cấy đúng thời vụ và mùa vụ, đòi hỏi người dân phải quan sát thời gian một cách chính xác nhất. Dần dần, họ biết đến sự chuyển động của Mặt Trời, Mặt Trăng. Đó là những tri thức đầu tiên về thiên văn, và dựa vào những kiến thức này, người phương Đông sáng tạo ra lịch. Theo đó, lịch của họ là nông lịch, một năm có 365 ngày được chia đều ra làm 12 tháng.
Đây cũng chính là cơ sở để họ tính ra được chu kỳ của thời gian và mùa. Cụ thể, thời gian được họ chia theo ngày, tuần, tháng, năm. Một năm được chia ra làm hai mùa: Mùa mưa là mùa nước lên, mùa khô là mùa nước xuống, mùa gieo trồng đất bãi. Khi đó, con người họ cũng biết đo thời gian bằng ánh sáng mặt trời, và tính được môi ngày sẽ có 24 giờ.
Thiên văn học và lịch học chính là dựa vào đấy mà ra đời.
* Chữ viết
- Các cư dân phương Đông là người đầu tiên phát minh ra chữ viết. Vào khoảng thiên niên kỉ IV TCN, chữ viết đã xuất hiện ở Ai Cập và Lưỡng Hà.
- Ban đầu là chữ tượng hình, sau đó là chữ tượng ý. Chữ tượng ý chưa tách khỏi chữ tượng hình mà thường được ghép với một thanh để phản ánh tiếng nói, tiếng gọi có âm sắc, thanh điệu của con người.
- Nguyên liệu được dùng để viết: Người Ai Cập là giấy làm bằng vỏ cây papirút. Người Su-me ở Lưỡng Hà dùng một loại cây sậy vót nhọn làm bút viết lên trên những tấm đất sét còn ướt rồi đem phơi nắng hoặc nung khô. Người Trung Quốc lúc đầu khắc chữ trên xương thú hoặc mai rùa, về sau họ đã biết kết hợp một số nét thành chữ và viết trên thẻ tre hay trên lụa.
* Toán học
- Lúc đầu, cư dân phương Đông biết viết chữ số từ 1 đến 1 triệu bằng những kí hiệu đơn giản.
- Người Ai Cập cổ đại rất giỏi về hình học. Họ tính được số Pi bằng 3,16; tính được diện tích hình tròn, hình tam giác, thể tích hình cầu v.v...
- Người Lưỡng Hà giỏi về số học. Họ có thể làm các phép cộng, trừ, nhân, chia cho tới một triệu.
- Chữ số mà ta dùng ngày nay, quen gọi là chữ số A-rập, kể cả số 0, là thành tựu lớn do người Ấn Độ tạo nên.
=> Những thành tựu trên là cơ sở để sau này ra đời những phát minh vĩ đại về toán học trên thế giới.
* Thành tựu về kiến trúc
Trong nền văn minh cổ đại phương Đông, nghệ thuật kiến trúc hạ tầng nơi đây phát triển rất phong phú và đa dạng. Nhiều di tích kiến trúc cách đây hàng nghìn năm vẫn còn lưu giữ, điển hình như Kim tự tháp ở Ai Cập, những khu đền tháp ở Ấn Độ, thành Babilon ở Lưỡng Hà, …
Những công trình kiến trúc cổ xưa là minh chứng chứng cho sự đóng góp lớn lao về sức lao động và tài năng sáng tạo phi thường của con người.
----------------------------------------
Trên đây VnDoc đã giới thiệu tới các bạn nội dung bài Chữ viết của các quốc gia cổ đại phương Đông là gì? Để có kết quả học tập tốt và hiệu quả hơn, VnDoc xin giới thiệu tới các bạn học sinh tài liệu Lịch sử 10 Cánh Diều, Giải bài tập Lịch Sử 10, Lịch sử 10 Kết nối tri thức, Lịch sử 10 Chân trời sáng tạo, Trắc nghiệm Lịch sử 10. Tài liệu học tập lớp 10 mà VnDoc tổng hợp biên soạn và đăng tải.