Giao diện mới của VnDoc Pro: Dễ sử dụng hơn - chỉ tập trung vào lớp bạn quan tâm. Vui lòng chọn lớp mà bạn quan tâm: Lưu và trải nghiệm

Phân tích hai câu đề và hai câu thực bài Tự Tình 2

Phân tích hai câu đề và hai câu thực bài Tự Tình 2 vừa được VnDoc.com biên soạn và xin gửi tới bạn đọc cùng tham khảo để bạn đọc có thêm tài liệu học tập nhé. Mời các bạn cùng tham khảo chi tiết và tải về tại đây.

1. Dàn ý phân tích hai câu đề và hai câu thực bài Tự Tình 2

Dàn ý phân tích hai câu đề và hai câu thực bài Tự Tình 2 mẫu 1

1. Mở bài

- Giới thiệu tác giả Hồ Xuân Hương và bài thơ Tự tình 2:

Hồ Xuân Hương được mệnh danh là “Bà Chúa Thơ Nôm”,…

Tự tình II nằm trong chùm thơ Tự tình gồm 3 bài của Hồ Xuân Hương.

2. Thân bài

a. 2 câu đề

Thời gian: đêm khuya, vắng vẻ, tĩnh lặng.

Không gian: tiếng trống dồn canh, nữ thi sĩ lẻ loi, đơn chiếc một mình.

Âm thanh: “văng vẳng”: lấy động tả tĩnh nhằm nhấn mạnh sự tĩnh lặng của đêm khuya.

“Trơ”: từ tượng hình mạnh mẽ diễn tả nỗi cô đơn, lẻ bóng pha chút cay đắng của người phụ nữ lẻ loi trong chính tình cảm của mình với một trái tim khao khát yêu thương.

b. 2 câu thực

“say lại tỉnh” trong nỗi buồn, nỗi cô đơn ấy người phụ nữ đã tìm đến chén rượu để giải sầu nhưng rượu không những không làm cho bà say mà còn khiến cho bà thêm tỉnh táo hơn, sự bất hạnh của cuộc đời lại hiện ra rõ nét hơn.

“Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”: Mượn hình ảnh ánh trăng để nói về chuyện tình cảm còn dang dở, chưa được trọn vẹn của mình.

→ Con người chơi vơi giữa một thế giới mênh mông hoang vắng - bất lực trước nỗi cô đơn trơ trọi của chính mình.

c. Khái quát chung

Nội dung: thể hiện tâm trạng vừa đau buồn, vừa phẫn uất trước duyên phận, gắng gượng vươn lên nhưng vẫn rơi vào bi kịch của nữ thi sĩ.

Nghệ thuật: đảo ngữ, sử dụng từ ngữ táo bạo,…

3. Kết bài

Khái quát lại giá trị nội dung, nghệ thuật, ý nghĩa của 4 câu thơ nói riêng và bài thơ nói chung.

Dàn ý phân tích hai câu đề và hai câu thực bài Tự Tình 2 mẫu 2

1. Mở bài

- Giới thiệu Hồ Xuân Hương

- Giới thiệu tác phẩm “Tự tình II” và bốn câu thơ đầu trong bài thơ:

2. Thân bài

– Hai câu thơ đầu mở ra cảm thức về thời gian và tâm trạng của nữ sĩ

+ Cảm thức về thời gian: Thời gian: đêm khuya. Âm hưởng của tiếng trống canh được đặt trong sự dồn dập, gấp gáp “trống canh dồn” cho thấy nữ sĩ cảm nhận sâu sắc bước đi không ngừng và vội vã của thời gian.

+ Cảm thức về tâm trạng: cảm nhận rõ ràng sự bẽ bàng của phận mình. Tác giả đã sử dụng biện pháp đảo ngữ, từ “trơ” được đưa lên đầu câu có tác dụng nhấn mạnh. “trơ” có nghĩa là tủi hổ, là bẽ bàng, cho thấy “bà Chúa thơ Nôm” đã ý thức sâu sắc bi kịch tình duyên của bản thân. Hai chữ “hồng nhan” được đặt cạnh danh từ chỉ đơn vị “cái” gợi lên sự bạc bẽo, bất hạnh của kiếp phụ nữ.

– Bức tranh tâm trạng đã được phóng chiếu rõ ràng hơn thông qua hai câu thơ tiếp theo

+ Cụm từ “say lại tỉnh” gợi lên sự tuần hoàn, luẩn quẩn, bế tắc đầy éo le của kiếp người đầy chua chát.

+ Hình tượng “vầng trăng” xuất hiện chính là ý niệm ẩn dụ cho cuộc đời của nữ sĩ: trạng thái “bóng xế”, sắp tàn nhưng vẫn “khuyết chưa tròn” nhấn mạnh bi kịch của cảm thức về thân phận: tuổi xuân đã trôi qua nhưng nhân duyên mãi mãi là sự dang dở, lỡ dở không trọn vẹn.

→ Bức tranh ngoại cảnh đồng nhất với bức tranh tâm trạng.

3. Kết bài

- Khái quát lại vấn đề

2. Phân tích hai câu đề và hai câu thực bài Tự Tình 2

Phân tích hai câu đề và hai câu thực bài Tự Tình 2 mẫu 1

Hồ Xuân Hương được mệnh danh là Bà chúa thơ Nôm với cá tính văn chương mạnh mẽ, dám đứng lên đấu tranh, bộc lộ cảm xúc, thái độ, tình cảm của mình trước sự bất công của xã hội, của số phận. Và thái độ đó được thể hiện rõ nét qua bài thơ Tự tình 2, tiêu biểu là 4 câu thơ đầu.

Hai câu thơ đầu bài thơ vừa tả cảnh, nhưng đồng thời cũng là lột tả hình ảnh một người phụ nữ trống vắng, cô đơn giữa đêm khuya tĩnh mịch.

“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non”

Người phụ nữ cô đơn trong đêm khuya vắng lặng nghe tiếng trống cầm canh báo thời khắc đi qua. Canh khuya là thời gian từ nửa đêm cho đến sáng. Nàng cảm thấy tiếng trống canh báo hiệu thời gian khắc khoải mong ngóng một điều gì. Tác giả sử dụng từ láy "văng vẳng" để miêu tả một âm thanh vừa rõ ràng, lại vừa mơ hồ, không do phương hướng nhưng lại có thể cảm nhận được ngày một rõ ràng. Thời gian và không gian làm cho con người dễ ràng rơi vào những trạng thái cảm xúc khó lột tả nhất. "Trơ cái hồng nhan với nước non" nói lên tâm trạng một con người đau buồn nhiều nỗi, nay nét mặt thành ra trơ đi trước cảnh vật, trước cuộc đời, tựa như gỗ đá, mất hết cảm giác. Từ "cái" gắn liền với chữ "hồng nhan" làm cho giọng thơ trĩu xuống, làm nổi bật cái thân phận, cái duyên phận, cái duyên số hẩm hiu. Qua hai câu thơ, ta có thể cảm nhận được thân phận cô độc, lẻ loi và nỗi buồn trống vắng khó tả trong lòng của người "hồng nhan" đó.

Để giải nỗi lòng, người phụ nữ ấy đã tìm đến ly rượu nồng:

“Chén rượu hương đưa rồi lại tỉnh
Vầng trăng xế bóng khuyết chưa tròn”

Tưởng uống rượu cho say để quên đi bao nỗi buồn, nhưng càng uống càng tỉnh. "Say lại tỉnh" để rồi tỉnh lại say, cái vòng luẩn quẩn ấy về duyên phận của nhiều phụ nữ đương thời như một oan trái. Người một lòng muốn say để quên đi tất cả, nhưng hương rượu nồng vào mũi dường như lại khiến tâm con người ta trở nên tỉnh táo hơn. Nỗi lòng của người phụ nữ lại càng như được lột tả rõ ràng hơn. Hình ảnh “vầng trăng bóng xế” có lẽ là một hình ảnh ẩn dụ hơn là một hình ảnh tả thực. Trăng xế bóng hay cũng là cuộc đời người phụ nữ đã ngả chiều. Trăng thường gợi kỉ niệm, gợi sự tròn đầy viên mãn của hạnh phúc lứa đôi nhưng giờ đây, ánh trăng sắp tàn như cuộc tình dang dở của người phụ nữ đã đến hồi dang dở.

Bốn câu thơ đã gợi mở và giúp cho người đọc thêm hiểu về hoàn cảnh, số phận ngang trái, cay đắng cũng như khao khát mãnh liệt có được tình yêu của Hồ Xuân Hương. Bài thơ không chỉ bộc bạch nỗi lòng của bà mà còn góp phần quan trọng đưa văn chương và tên tuổi của nữ thi sĩ đến gần hơn với bao thế hệ con người. Nhiều năm tháng qua đi nhưng bốn câu thơ nói riêng và bài thơ nói chung vẫn giữ nguyên vẹn những giá trị tốt đẹp ban đầu của nó và để lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc.

Phân tích hai câu đề và hai câu thực bài Tự Tình 2 mẫu 2

Từ xưa đến nay ta không thể phủ nhận vai trò, tầm quan trọng to lớn của người phụ nữ đối với xã hội và với cuộc sống. Họ không chỉ là những người hiền thục, đảm đang mà còn là những con người tài hoa, bản lĩnh. Nổi bật cho hình ảnh người phụ nữ Việt Nam xưa cá tính, mạnh mẽ chúng ta không thể không nhắc đến nhà thơ Hồ Xuân Hương. Nổi bật trong thơ bà là bài thơ Tự tình 2 nằm trong chùm thơ Tự tình. Hai câu thơ đầu đã khắc họa khung cảnh đêm khuya để làm nổi bật lên cảm xúc của nhà thơ.

"Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn".

Thời gian đêm khuya, vắng vẻ, tĩnh lặng. Không gian chỉ có tiếng trống dồn canh, nữ thi sĩ lẻ loi, đơn chiếc một mình. Âm thanh “văng vẳng” tiếng trống lấy động tả tĩnh nhằm nhấn mạnh sự tĩnh lặng của đêm khuya. Tất cả thời gian, không gian, âm thanh và cảnh vật đều góp phần diễn tả nỗi lòng, tâm tư, tình cảm, những sầu não của nhân vật trữ tình. Trong đêm khuya thanh vắng, khi tất cả con người và cảnh vật vào trạng thái nghỉ ngơi, thư giãn thì vẫn còn có một người ngồi đó im lặng trong đêm.

Hình ảnh nhân vật trữ tình trong đêm khuya thanh vắng được khắc họa rõ nét thông qua câu thơ:

“Trơ cái hồng nhan với nước non”

“Trơ” từ tượng hình mạnh mẽ diễn tả nỗi cô đơn, lẻ bóng pha chút cay đắng của người phụ nữ lẻ loi trong chính tình cảm của mình với một trái tim khao khát yêu thương. Dù ý thức được vẻ đẹp của bản thân mình nhưng bà vẫn không tìm được cách nào để trống trọi lại với những định kiến, những gian truân của cuộc đời mình.

Để giải tỏa tinh thần, nữ thi sĩ đã tìm đến rượu, chỉ có rượu mới giúp được con người:

Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,
Vầng trăng bóng xê khuyết chưa tròn.

Say lại tỉnh diễn tả trong nỗi buồn, nỗi cô đơn ấy người phụ nữ đã tìm đến chén rượu để giải sầu nhưng rượu không những không làm cho bà say mà còn khiến cho bà thêm tỉnh táo hơn, sự bất hạnh của cuộc đời lại hiện ra rõ nét hơn. Những lúc say là những lúc quên đi được nỗi bất hạnh, nhưng càng muốn quên lại càng nhớ, càng muốn say lại càng tỉnh. Những khó khăn vẫn cứ bủa vây, bám lấy người con gái ấy. Trong câu thơ “Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”, tác giả đã mượn hình ảnh ánh trăng để nói về chuyện tình cảm còn dang dở, chưa được trọn vẹn của mình. Con người chơi vơi giữa một thế giới mênh mông hoang vắng, bất lực trước nỗi cô đơn trơ trọi của chính mình. Trăng đã xế như tuổi đã luống mà chưa bao giờ có được hạnh phúc trọn vẹn. Hai hình ảnh gợi hai lần đau xót của thân phận người phụ nữ.

Bốn câu thơ nói riêng và bài thơ nói chung đã góp phần làm nên thành công cho tên tuổi của nhà thơ Hồ Xuân Hương cũng như mang cuộc đời, mang số phận của bà đến gần hơn với nhiều kiếp người khác. Cuộc sống luôn có những khó khăn, đau khổ, chúng ta hãy không ngừng nỗ lực, vươn lên để làm chủ chính mình, làm chủ cuộc sống để thấy cuộc đời này ý nghĩa hơn.

Phân tích hai câu đề và hai câu thực bài Tự Tình 2 mẫu 3

Giai đoạn vào giữ thế kỷ 18, đầu thế kỷ 19 là khoảng thời gian phát triển rực rỡ nhất của văn học trung đại Việt Nam. Thời điểm đó xuất hiện những câu bút rất nổi tiếng và người ta hay nhắc đến nhất là đại thi hào Nguyễn Du với tác phẩm Truyện Kiều, cùng bà chúa thơ Nôm Hồ Xuân Hương. Một trong số những tác phẩm tiêu biểu của nữ sĩ Hồ Xuân Hương đó là bài thơ Tự tình 2. Qua bài thơ, ta mới hiểu tại sao Hồ Xuân Hương lại được mệnh danh là bà chúa thơ Nôm, là nhà thơ của phụ nữ, chuyên viết về phụ nữ.

Hồ Xuân Hương sống vào giai đoạn lịch sử đất nước có nhiều biến động. Quê gốc ở Quỳnh Lưu, Nghệ An, nhưng bà chủ yếu sống ở kinh thành Thăng Long. Cuộc đời của Xuân Hương rất truân chuyên, là con vợ lẽ, bản thân cũng đi làm lẽ cho người ta, rồi sớm góa chồng, thậm chí bà góa chồng tận 2 lần. Bà là người có tài lại có sắc, vừa thông minh vừa bản lĩnh. Về sự nghiệp sáng tác, đến nay chỉ còn lưu lại được 40 bài thơ Nôm, và một số bài thơ chữ Hán chép chung trong tập Lưu Hương ký. Nội dung nổi bật là thể hiện sự cảm thông thương xót đối với thân phận éo le, thiệt thòi của những người phụ nữ trong xã hội xưa. Đồng thời trân trọng, khẳng định, đề cao, ngợi ca vẻ đẹp phẩm chất tâm hồn cùng ngoại hình, thể hiện cái khát khao được vươn lên trong cuộc sống, được hạnh phúc sâu sắc của người phụ nữ. Về nghệ thuật, bà luôn tìm cách Việt hóa thơ Đường trong các khía cạnh đề tài, hình ảnh, ngôn ngữ.

Tự tình 2 nằm trong chùm thơ Tự tình, với âm điệu gần giống những câu ca dao than thân xưa. Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật nên gồm 4 phần, đề, thực, luận, kết. Nội dung chính là mạch tâm trạng của người phụ nữ khi giãi bày tâm tư tình cảm của mình. Trong đó, hai câu đề là nỗi buồn tủi, chán chường số phận, hai câu thực là sự cố gắng trốn chạy, cố quên nhưng lại phải đối mặt với thực cảnh và thực tình của mình để thấm thía hơn.

Hai câu thơ đề đã gợi ra nỗi chán chường, buồn tủi của nhân vật trữ tình bằng việc tái hiện lại bối cảnh thời gian và không gian trong câu khai đề:

"Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn".

Thời gian vào lúc "đêm khuya" khi vạn vật đã chìm vào nghỉ ngơi, con người còn thức đến khuya thì có nghĩa đây là khoảng thời gian để đối diện với chính mình, chìm đắm vào nỗi suy tư, nỗi buồn tẻ, thao thức. Tiếng "trống canh dồn" gợi ra bước đi rất vội vã gấp gáp của thời gian. Từ đó, ta có thể đọc được tâm trạng con người trong bối cảnh thời gian ấy, đang chất chứa nhiều nỗi niềm, đó là sự bất an, lo lắng, rối bời, hoảng hốt. Bút pháp lấy động tả tĩnh trong từ "văng vẳng", cho ta cảm nhận được âm thanh từ rất xa vọng lại, chính tỏ đây là một không gian rộng lớn, tĩnh vắng đến lạ thường. Trong không gian ấy, con người trở nên nhỏ bé, cô đơn, lạc lõng, trơ trọi.

Nỗi niềm buồn tủi chán chường không chỉ được gợi ra trong không gian và thời gian, mà còn được diễn tả một cách rất trực tiếp trong câu thừa đề bằng cách sử dụng những từ ngữ gây ấn tượng mạnh.

"Trơ cái hồng nhan với nước non"

Tác giả nhấn mạnh từ "Trơ" bằng hai biện pháp nghệ thuật kết hợp, đó là nghệ thuật đảo cấu trúc phối hợp với cái nhịp ngắt đầy phá cách 1/3/3. Thông qua đó, tác giả diễn tả nỗi đau và bản lĩnh của Hồ Xuân Hương. "Trơ" có nghĩa là trơ trọi, lạc lõng, tủi hổ, bẽ bàng. "Trơ" cũng còn có nghĩa là trơ lì, chai sạn, ngẩng cao đầu thách thức. Cuối cùng, bà nhấn mạnh khắc sâu hai vế đối lập "cái hồng nhan/nước non", là cá nhân người phụ nữ với xã hội phong kiến rộng lớn. Từ đó, ta thấy rõ hơn cái bi kịch của người phụ nữ trong xã hội xưa, nhỏ bé, yếu đuối thế mà phải đối mặt với cái xã hội to lớn, đầy rẫy bất công, tưởng chẳng thể ngóc đầu lên được. Cụm từ "cái hồng nhan" là một kết hợp từ rất độc đáo, "hồng nhan" vốn là từ hán việt mang sắc thái trang trọng, thể hiện sự trân trọng với vẻ đẹp của người phụ nữ thế mà lại kết hợp với từ "cái", một lượng từ thường kết hợp với những từ chỉ đồ vật bé nhỏ, vô tri, vô giác, tầm thường. Gợi ra sự rẻ rúng, coi thường với giá trị của người phụ nữ, thật xót xa, buồn tủi. Hồ Xuân Hương đã cất lên tiếng than cho những thân phận má đào ở xã hội xưa, góp thêm một tiếng nói trong trào lưu nhân đạo của văn học cuối thế kỷ 18, đầu thế kỷ 19.

Đến hai câu thực đó là nỗi đau thân phận nổi trôi giữa say và tỉnh, dường như Hồ Xuân Hương đã ngồi nhẫn tàn canh, ngồi một mình trong nỗi cô đơn, để làm bạn với chén rượu cay nồng, để đối mặt với đêm khuya lẻ bóng với vầng trăng lạnh đang soi.

"Chén rượu hương đưa, say lại tỉnh,

Vầng trăng bóng xế, khuyết chưa tròn"

Câu thơ chứa đựng biết bao nỗi niềm ngao ngán, nhà thơ uống rượu để cho say, cho quên đi nỗi sầu khổ nhân thế, nhưng trái ngang sao cứ "say lại tỉnh", gợi cái vòng luẩn quẩn, bế tắc, lặp đi lặp lại. Bà muốn say nhưng rượu cũng chẳng khiến bà say mãi, rồi cũng có lúc phải tỉnh lại. Bà lại phải đối mặt với nỗi cô đơn, với cái nỗi lẻ loi, phải đối diện với đêm khuya mịt mù, thứ mà bà muốn say để trốn tránh. Và khi tỉnh ra rồi lại càng thấm thía hơn cái nỗi cô đơn, trơ trọi mà mình phải gánh chịu.

Câu "Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tàn" trước hết là ngoại cảnh, sau cũng tâm cảnh. Bởi nó bộc lộ được cảm xúc của nhà thơ, tạo nên cái sự đồng nhất giữa trăng và người. Ta nhận thấy hình ảnh "Vầng trăng bóng xế" có nghĩa là trăng đêm đã sắp tàn, tuổi xuân đã sắp trôi qua hết, nhưng trái ngang sao vẫn "khuyết chưa tròn", tình duyên của nhà thơ vẫn chưa trọn vẹn, còn lắm lận đận, truân chuyên nhiều bề.

Hai câu thơ thực mang dáng dấp của một lời than vãn, nghe đâu đây có tiếng thở dài. Nhà thơ như than cho số phận éo le và cũng là than thay cho những người phụ nữ khác có cùng chung cảnh ngộ với bà. Lời than ấy vừa đau đớn, vừa xót xa, như châm kim vào lòng người đọc, một nỗi đau thấu tâm can.

Như vậy chỉ qua hai câu thơ đề và hai câu thơ luận của Tự tình 2 ta đã thấy được phần nào nỗi cô đơn, lẻ loi, nỗi xót xa, đau đớn trước cái số phận nghiệt ngã lắm truân chuyên của Hồ Xuân Hương, đồng thời cũng là của những người phụ nữ thời bấy giờ. Những dòng thơ ngắn ngủi còn cho thấy cái bản lĩnh mạnh mẽ của một người phụ nữ tuy cuộc đời lắm nhiêu khê, nhưng vẫn dám thách thức với xã hội, đồng thời còn thể hiện cái tài năng thơ văn tuyệt diệu, thâm sâu của mình.

Phân tích hai câu đề và hai câu thực bài Tự Tình 2 mẫu 4

Trong xã hội phong kiến xưa, số phận người phụ nữ luôn là tấm gương oan khổ của những éo le, bất công. Sống trong xã hội với quan điểm “trọng nam khinh nữ”, có những người trầm lặng cam chịu, nhưng cũng có những người ý thức sâu sắc được bi kịch bản thân, cất lên tiếng nói phản kháng mạnh mẽ. Nữ sĩ Hồ Xuân Hương là một trong những người phụ nữ làm được điều đó. Bài thơ “Tự tình II” nằm trong chùm thơ bao gồm ba bài là tác phẩm thể hiện rõ điều này. Bốn câu thơ đầu trong bài thơ đã làm nổi bật hoàn cảnh cũng như tâm trạng vừa buồn tủi, vừa phẫn uất muốn vượt lên trên số phận của nữ sĩ:

“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn

Trơ cái hồng nhan với nước non

Chén rượu hương đưa say lại tỉnh

Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”.

Tâm trạng của tác giả đã được gợi lên trong đêm khuya, và cảm thức về thời gian đã được tô đậm, nhấn mạnh để làm nền cho cảm thức tâm trạng:

Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn,

Trơ cái hồng nhan với nước non.

Thời gian lúc nửa đêm nên không gian thật vắng lặng, tịch mịch, chỉ nghe tiếng trống cầm canh từ xa vẳng lại, vạn vật đã chìm sâu trong giấc ngủ, chỉ có nhà thơ còn trăn trở thao thức với tâm sự riêng tây.

Đã nghe văng vẳng thì không thể có tiếng trống thúc dồn dập được. Âm thanh tiếng trống trở thành âm vang của cõi lòng nôn nao, bồn chồn. (Mỏ thảm không khua mà cũng cốc/ Chuông sầu chẳng đánh cớ sao om). Bao sức sống dồn nén trong chữ dồn ấy như chực trào ra.

Lẻ loi trước thời gian đêm khuya và bẽ bàng trước không gian non nước nên cái hồng nhan trơ ra. Cách dùng từ sáng tạo và đầy bất ngờ: hồng nhan là một vẻ đẹp thanh quý mà dùng từ cái tầm thường để gọi thì thật là rẻ rúng, đầy mỉa mai chua xót. Trơ là một nội động từ chỉ trạng thái bất động, hàm nghĩa đơn độc, chai sạn trước nắng gió cuộc đời. Biện pháp đảo ngữ trơ cái hồng nhan đã nhấn mạnh nỗi đơn độc, trơ trọi, bẽ bàng của thân phận. Câu thơ chứa đựng nỗi đau của kiếp hồng nhan. Đặt cái hồng nhan trong mối tương quan với nước non quả là táo bạo, thách thức, cho thấy tính cách mạnh mẽ của nữ thi sĩ, khao khát bứt phá khỏi cái lồng chật hẹp của cuộc đời người phụ nữ phong kiến.

2. Hai câu thực nói rõ hơn tâm trạng của nhà thơ:

Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,

Vầng trăng bóng xê khuyết chưa tròn.

Hai câu thơ có hai hình ảnh ẩn dụ. Hương rượu như hương tình, lúc lên men dậy sóng nhưng cũng chóng nhạt phai nên cuộc đời chao đảo, ngả nghiêng. Thật là trớ trêu cho con tạo. Cái ngọt ngào nồng nàn chỉ thoảng qua còn lại là dư vị chua chát, đắng cay. Say rồi lại tỉnh gợi cái vòng luẩn quẩn, dở dang. Còn vầng trăng khuya càng thêm chơ vơ, lạnh lẽo. Trăng đã xế như tuổi đã luống mà chưa bao giờ có được hạnh phúc trọn vẹn. Hai hình ảnh gợi hai lần đau xót. Vầng trăng của Thuý Kiều (Truyện Kiều - Nguyễn Du) là vầng trăng vỡ, còn của Xuân Hương mãi mãi là vầng trăng khuyết.

Như vậy, thông qua cách sử dụng ngôn ngữ giàu giá trị biểu đạt kết hợp với những biện pháp tu từ như đảo ngữ, cùng những sáng tạo trong việc xây dựng hình tượng, bốn câu thơ đầu của bài thơ “Tự tình II” đã làm nổi bật cảm thức về thời gian, cho thấy tâm trạng buồn tủi cũng như ý thức sâu sắc về bi kịch duyên phận đầy éo le, ngang trái của nữ sĩ Hồ Xuân Hương.Chính những yếu tố trên đã giúp bà trở thành “Bà Chúa thơ Nôm”, đồng thời cũng là nhà thơ phụ nữ viết về phụ nữ với tiếng nói cảm thương và tiếng nói tự ý thức đầy bản lĩnh.

Phân tích hai câu đề và hai câu thực bài Tự Tình 2 mẫu 5

Trong thời kỳ vào giữa đầu thế kỷ 18, đầu thế kỷ 19, văn học trung đại Việt Nam đã phát triển mạnh mẽ. Người ta thường nhắc đến những câu bút nổi tiếng nhất, trong đó có đại thi hào Nguyễn Du với tác phẩm Truyện Kiều cùng bà chúa thơ Nôm Hồ Xuân Hương. Nữ sĩ Hồ Xuân Hương đã viết bài thơ Tự tình 2, một trong những tác phẩm tiêu biểu của bà, từ đó ta có thể hiểu vì sao bà được gọi là bà chúa thơ Nôm, là nhà thơ của phụ nữ và chuyên viết về phụ nữ.

Hồ Xuân Hương sống trong thời kỳ đất nước đang trải qua nhiều biến động. Bà sinh ra ở Quỳnh Lưu, Nghệ An, nhưng sống chủ yếu tại Thăng Long. Cuộc đời của bà đầy trắc trở, là con vợ lẻ, bản thân lại phải làm công cho người khác, sau đó lại mất chồng sớm và đau khổ khi mất chồng lần thứ hai. Bà là người thông minh và gan dạ, và chỉ còn lại 40 bài thơ Nôm cho đến ngày nay, cùng với một số bài thơ chữ Hán được ghi chép trong tập Lưu Hương ký. Các tác phẩm của bà thường thể hiện sự đồng cảm và thông cảm với những người phụ nữ bị thiệt thòi trong xã hội xưa. Đồng thời, bà cũng tôn trọng, ca ngợi vẻ đẹp của tâm hồn, phẩm chất cùng ngoại hình của phụ nữ, thể hiện khát khao hạnh phúc sâu sắc của họ. Về nghệ thuật, bà luôn tìm cách Việt hóa thơ Đường trong các khía cạnh về đề tài, hình ảnh và ngôn ngữ.

Bài thơ Tự tình 2 thuộc chùm thơ Tự tình, có âm điệu giống như những câu ca dao than thân xưa. Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật, gồm 4 phần đề, thực, luận và kết. Nội dung chính là suy nghĩ và cảm xúc của người phụ nữ khi giãi bày tâm tư tình cảm của mình.

Những dòng mở đầu của bài thơ gợi lên cảm giác u uất, buồn bã của nhân vật chính thất tình qua việc vẽ nên một bức tranh sinh động về thời gian và địa điểm:

“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn”.

Trong khung cảnh đêm đầy tiếng đồng hồ tích tắc, khi xung quanh tĩnh lặng, chỉ có con người là thức. Tiếng đồng hồ tích tắc biểu thị sự hối hả và khẩn trương của thời gian, nó tích tắc trôi đi không ngừng. Thời điểm này của đêm tượng trưng cho khoảng thời gian nhìn lại nội tâm, chỉ còn lại một mình đối diện với những suy nghĩ, cảm xúc của mình, cảm giác bồn chồn, lo lắng, tuyệt vọng. Trong không gian này, cá nhân trở nên bé nhỏ, lẻ loi, lạc lõng, bơ vơ. Cảm giác u uất, buồn chán không chỉ được chuyển tải qua không gian, thời gian mà còn qua cách sử dụng ngôn ngữ giàu sức gợi ở phần còn lại của bài thơ.

“Trơ cái hồng nhan với nước non”

Tác giả sử dụng hai kỹ thuật nghệ thuật để nhấn mạnh từ “Trơ” trong bài thơ của Hồ Xuân Hương. Đó là kỹ thuật đảo cấu trúc và kết hợp với nhịp độ phá cách 1/3/3 để tạo ra hiệu ứng ngắt quãng. Nhờ đó, tác giả diễn tả được cảm xúc đau đớn và sự can đảm của nhân vật Hồ Xuân Hương trong bài thơ. Từ “Trơ” có nghĩa là tuyệt vọng, lạc lõng, tủi hổ, bẽ bàng. Nó cũng có nghĩa là kiên cường, đứng vững trước thử thách. Tác giả cũng tập trung vào sự đối lập giữa “cái hồng nhan” và “nước non” để thể hiện sự khốn khổ của người phụ nữ trong xã hội phong kiến. Từ “cái hồng nhan” kết hợp giữa từ “hồng nhan” với ý nghĩa trang trọng và từ “cái” với ý nghĩa phủ nhận, gợi ra sự coi thường và bất công với giá trị của người phụ nữ. Bài thơ của Hồ Xuân Hương là một tiếng nói độc đáo trong trào lưu nhân đạo của văn học cuối thế kỷ 18 và đầu thế kỷ 19, thể hiện sự đau đớn và hy vọng của những người phụ nữ yếu đuối trong xã hội cũ.

Hồ Xuân Hương trải qua nỗi đau bồng bềnh giữa men say và tỉnh táo, như thể nàng ngồi suốt đêm cô đơn, một mình chịu đựng cơn đau đớn, chỉ có rượu đắng và ánh trăng lạnh soi bóng đêm.

Với câu thơ “Chén rượu hương đưa, say lại tỉnh/Vầng trăng bóng xế, khuyết chưa tròn”, nhà thơ đã gửi gắm những cảm xúc xót xa của mình. Cô uống để quên đi những muộn phiền của cuộc đời nhưng dường như dù có uống bao nhiêu cô cũng không thể say mãi được. Thay vào đó, cô bị mắc kẹt trong vòng quay vô tận của say xỉn và tỉnh táo, không thể thoát khỏi sự cô đơn và bóng tối của đêm mà cô muốn quên đi. Cô ấy đối mặt với sự cô độc của mình và sự hoang vắng đi kèm với nó, ngay cả khi cô ấy tỉnh táo. Những giây phút tỉnh táo khiến cô càng cảm nhận sâu sắc hơn sức nặng của nỗi cô đơn mà mình phải gánh chịu.

Câu thơ “Vầng trăng bóng xế, khuyết chưa tàn” không chỉ miêu tả bối cảnh xung quanh mà còn phản ánh tâm trạng của nhà thơ. Bằng cách này, nó làm cho trăng và con người trở nên đồng điệu với nhau. Hình ảnh “Vầng trăng bóng xế” được hiểu là biểu tượng cho sự tàn phai của tuổi trẻ và thời gian đã qua, tuy nhiên, “khuyết chưa tròn” thể hiện tình yêu của nhà thơ vẫn chưa hoàn thiện, còn nhiều sóng gió, khó khăn.

Những câu thơ này thể hiện tâm trạng của nhà thơ đang than vãn, đổ lỗi cho số phận khắc nghiệt của mình và đồng cảm với những người phụ nữ khác đang phải đối mặt với cùng một khó khăn. Những lời than này mang trong mình cảm giác đau đớn và xót xa, gợi lên những nỗi đau thầm kín trong tâm hồn người đọc.

Chỉ trong bốn câu thơ của Tự tình 2, ta đã cảm nhận được phần nào nỗi cô đơn, sự lẻ loi và nỗi đau đớn của Hồ Xuân Hương, cũng như của những người phụ nữ cùng thời. Dòng thơ ngắn gọn này còn cho thấy bản lĩnh mạnh mẽ của một người phụ nữ với những gian khó trong cuộc đời, và sự tài năng thơ văn tuyệt vời của bà. Đồng thời, bài thơ còn thể hiện được cảm xúc và tâm trạng của nhà thơ thông qua việc tạo hình ảnh trăng đêm để diễn tả tình trạng tâm lý của bản thân.

Phân tích hai câu đề và hai câu thực bài Tự Tình 2 mẫu 6

Hồ Xuân Hương một nữ sĩ đại tài của văn học Việt Nam, bà được mệnh danh là Bà chúa thơ Nôm. Các vần thơ của bà tập trung nói về người phụ nữ với sự ý thức cao độ về vẻ đẹp hình thức và nhân cách. Nhưng đằng sau những vần thơ ấy còn là nỗi đau thân phận bị rẻ rúng. Nỗi niềm đó được thể hiện trong bài thơ Tự tình II, và điều này được thể hiện rất rõ qua hai câu đề và 2 câu thực của bài thơ.

Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn

Trơ cái hồng nhan với nước non.

Chén rượu đưa hương say lại tỉnh

Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn.

Trước hết thân phận người phụ nữ trong bài thơ được thể hiện đầy cay đắng xót xa, họ ý thức về thân phận mình, ý thức về tuổi thanh xuân trôi nhanh mà hạnh phúc lứa đôi chưa được trọn vẹn:

Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn,

Trơ cái hồng nhan với nước non.

Câu phá đề mở ra thời gian và không gian nghệ thuật rất đặc biệt: đêm đã về khuya, không gian quá mênh mông và vắng lặng. Chính là nhờ tính từ “văng vẳng” được nữ sĩ dùng vừa tự nhiên, vừa rất tinh tế mà ta nhận ra cùng một lúc không gian mênh mông (tiếng trống cầm canh từ xa xôi theo gió “vẳng” tới,vọng tới; và không gian vắng lặng (bút pháp lấy động tả tĩnh quen thuộc của thi pháp cổ điển). Đã có hai trong tổng số ba bài thơ Tự tình nhà thơ chọn thời gian và không gian nghệ thuật giống nhau đặt ở câu phá đề. Cách cảm nhận bước đi của thời gian qua tiếng trống điểm canh và tiếng gà gáy là cách cảm nhận rất Á Đông. Đó là thời gian tâm lí, thấm đẫm chất trữ tình. Đêm khuya là lúc vạn vật chìm trong giấc ngủ, mọi hoạt động ban ngày dừng lại, đó cũng là lúc tâm tư sâu lắng nhất. Người đang thao thức, suy tư trong đêm khuya lại là một phụ nữ. Đó cũng là điều bất thường. người phụ nữ được đặt trong một không gian mênh mông vắng lặng, giữa đêm hôm khuya khoắt chắc là đầy ắp nỗi niềm không biết ngỏ cùng ai, chẳng coái bên cạnh đề mà sẻ chia, thấu hiểu. Nàng hoàn toàn trơ trọi, lẻ loi, cô độc. Thời gian nghệ thuật thể hiện sự tự cảm thấy của con người trong thế giới. Cảm thức thời gian luôn gắn liền với ý thức về “cái tôi”. Ý thức về “cái tôi” càng trưởng thành, càng sâu sắc thì cảm thức về thời gian trôi chảy càng mãnh liệt. Đã đành thời gian khách quan là vô thủy vô chung. Nhưng thời gian chủ quan của một đời người là hữu hạn. Tuổi xuân của người phụ nữ lại càng ngắn ngủi, cho nên thời gian trong cảm thức cá nhân gắn liền với sự tàn phai và có sức hủy diệt ghê gớm. Cái tiếng “trống canh dồn” kia cũng là một thứ âm thanh tâm lí, nó như “dồn” nén lòng người, nhất là lòng người phụ nữ cô đơn, niềm phẫn uất, nỗi hoang mang, lo sợ.

Cái đáng sợ nhất là cảm thức về sự trôi chảy của thời gian luôn luôn ở thế nghịch đối với niềm vui, nỗi buồn, hạnh phúc và khổ đau của con người. khi vui sướng, hạnh phúc thì có cảm giác “ngày vui ngắn chẳng tày gang” (Nguyễn Du), khi sầu thương, đau khổ thì thời gian bò như ốc, như sên. Trong thời gian và không gian ấy, với Hồ Xuân Hương, chỉ còn lại cái vô duyên, bẽ bàng:

Trơ/ cái hồng nhan/ với nước non.

Trong phép đảo ngữ, nữ sĩ đã đặt tử “trơ” lên đầu câu thơ gây một ấn tượng mạnh mẽ. Từ “trơ” đứng riêng ra,ăn hẳn một nhịp vừa nói được thế lẻ loi, trơ trọi lại vừa nói đến sự vô duyên (trơ ra). Từ “trơ” còn hàm chứa nhiều ngữ nghĩa hơn thế: “trơ” có nghĩa là tủi hổ: “Đuốc hoa để đó, mặc nàng nằm trơ” (Nguyễn Du, Truyện Kiều); “trơ” cũng hàm ý mỉa mai cay đắng, xót xa khi đi với tổ hợp từ “cái hồng nhan”, thì ra “hồng nhan” đi với “bạc phận”, từ “hồng nhan” bị bỏ rơi, chẳng ai đoái hoài đến, đang “trơ” ra với “nước non” (không gian), với thời gian vô thủy vô chung. Càng nghĩ càng thấy phẫn uất, đắng đót, ngậm ngùi. Đời Hồ Xuân Hương sao chẳng thể vui với nước non, mà chỉ thấy “Bảy nổi ba chìm với nước non”, chỉ thấy “Trơ cái hồng nhan với nước non”? Nghĩa là Hồ Xuân Hương đau khổ những vẫn vững vàng bản lĩnh như “Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt” (Bà huyện Thanh Quan, Thăng Long thành hoài cổ).

Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,

Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn

Tên của bài thơ là Tự tình cho nên câu thực đầu tiên thể hiện tình thực của Hồ Xuân Hương. Trong cô đơn giữa đêm khuya vắng lặng, người phụ nữ ấy đã phải mượn đến chén rượu giải sầu đã là chuyện đầy vơi của nỗi niềm, tâm trạng. Người phụ nữ đến chén rượu độc ẩm đêm khuya mới là việc cực chẳng đã. Uống rượu mà như uống sầu uống tủi, như nuốt thầm giọt đắng giọt cay. “Say”, có thể lãng quên giây lát nỗi sầu thương. Nhưng “say” rồi sẽ lại “tỉnh”, và lúc ấy mới thật là buồn: “Khi tỉnh rượu, lúc tàn canh- Giật mình, mình lại thương mình xót xa” (Nguyễn Du, Truyện Kiều). Cụm từ “say lại tỉnh” gợi lên cái vòng luẩn quẩn, bế tắc trong tâm trạng, trong tình cảnh của Hồ Xuân Hương.

Đêm đã tàn canh. Vầng trăng lạnh đã “bóng xế” non đoài. Người còn ngồi đó trong tình trạng “say lại tỉnh”, đúng là “Trơ cái hồng nhan với nước non”. Hai câu thực đã triển khai ý chủ đạo được mở ra hai câu đề. Thực cảnh cũng là thực tình. Hình tượng “Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn” đang đồng nhất với thân phận của nữ sĩ. Hình tượng thơ hết sức gợi: tuổi xuân của người phụ nữ trôi mau như “vầng trăng bóng xế” mà nhân duyên không trọn vẹn như vầng trăng chưa bao giờ là trăng rằm tròn đầy, tỏa sáng.

Qua phân tích hai câu đề và hai câu thực bài Tự Tình chúng ta đã hiểu được phần nào nỗi cô đơn, lẻ loi, nỗi xót xa, đau đớn trước cái số phận nghiệt ngã lắm truân chuyên của Hồ Xuân Hương, đồng thời cũng là của những người phụ nữ thời bấy giờ.

---------------------------------------

Trên đây VnDoc.com vừa giới thiệu tới các bạn Phân tích hai câu đề và hai câu thực bài Tự Tình 2. Mong rằng qua đây các bạn có thể học tập tốt hơn môn Toán. Mời các bạn cùng tham khảo thêm các môn Toán 11, Ngữ văn 11, tiếng Anh 11, đề thi học kì 1 lớp 11, đề thi học kì 2 lớp 11...

Chia sẻ, đánh giá bài viết
5
Sắp xếp theo
    🖼️

    Gợi ý cho bạn

    Xem thêm
    🖼️

    Ngữ văn lớp 11

    Xem thêm