Giải Tiếng việt lớp 4 VNEN Bài 11B: Bền gan vững chí
Giải Tiếng việt lớp 4 VNEN: Bài 11B: Bền gan vững chí có lời giải và đáp án đầy đủ các phần Sách VNEN Tiếng việt 4 trang 114 giúp các em học sinh ôn tập toàn bộ nội dung chương trình học Tiếng việt lớp 4.
Bài 11B: Bền gan vững chí
A. Hoạt động cơ bản Bài 11B Tiếng việt lớp 4 VNEN
Câu 1.
Trao đổi về nội dung sau:
a) Thế nào là một người học sinh có chí?
b) Nêu ví dụ về những biểu hiện của một học sinh không có chí.
a) Một người học sinh có chí là người không màng những khó khăn về gia đình, về học tập mà luôn luôn quyết tâm, cố gắng để đạt được những điều mà mình mong muốn, mình đã đặt mục tiêu từ trước đó.
b) Ví dụ về những biểu hiện của một học sinh không có chí là:
- Gặp bài tập khó bỏ qua không làm nữa
- Gia đình có chuyện nhỏ xảy ra đòi bỏ học
- Bị thầy cô khiển trách nên nản chí không muốn học nữa...
Câu 2.
Nghe thầy cô (hoặc bạn) đọc các câu sau:
1. Có công mài sắt, có ngày nên kim.
2. Ai ơi đã quyết thì hành
Đã đan thì lận tròn vành mới thôi!
3. Thua keo này, bày keo khác.
4. Người có chí thì nên
Nhà có nền thì vững.
5. Hãy lo bền chí câu cua
Dù ai câu chạch, câu rùa mặc ai!
6. Chớ thấy sóng cả mà rã tay chèo.
7. Thất bại là mẹ thành công.
(Tục ngữ)
Câu 3.
Thay nhau đọc từ ngữ và lời giải nghĩa:
- Nên: thành công.
- Hành: làm.
- Lận: dùng bàn chân và tay nắn, uốn tấm mê (đan bằng tre, nứa) vào vành cạp để tạo thành hình nong, nia, rổ, rá.
- Keo: một lần đấu sức.
- Cả: lớn.
- Rã: buông rơi.
Câu 4.
Cùng luyện đọc
Câu 5.
Dựa vào nội dung các câu tục ngữ, sắp xếp chúng vào 3 nhóm:
- Nhóm 1: Các câu tục ngữ khẳng định có ý chí thì nhất định thành công
- Nhóm 2: Các câu tục ngữ khuyên người ta giữ vững mục tiêu đã chọn
- Nhóm 3: Các câu tục ngữ khuyên người ta không nản lòng khi gặp khó khăn
Nhóm 1 |
|
Nhóm 2 |
|
Nhóm 3 |
|
Câu 6.
Cách diễn đạt của tục ngữ có đặc điểm gì khiến người đọc dễ nhớ, dễ hiểu?
Chọn ý em cho là đúng nhất để trả lời:
a. Ngắn gọn, có vần điệu
b. Có hình ảnh so sánh
c. Ngắn gọn, có vần điệu, hình ảnh
Đặc điểm của cách diễn đạt tục ngữ khiến người đọc dễ nhớ, dễ hiểu là:
Đáp án đúng là: c. ngắn gọn, có vần điệu, dễ hiểu.
Câu 8.
Em thích câu tục ngữ nào trong bài? Vì sao?
Câu tục ngữ em thích nhất đó là: Có công mài sắt có ngày nên kim
Vì: trong cuộc sống, con người ta đều có những thành công đạt được và những ước mơ muốn vươn tới. Và để thực hiện được điều đó thì ta phải có lòng kiên trì, bền bỉ, nỗ lực. Chính vì vậy ông cha ta đã có câu : “Có công mài sắt, có ngày nên kim” để động viên, khích lệ hay nói một cách khác là khuyên răn con cháu, dạy bảo những kinh nghiệm trong đời thường, cuộc sống.
B. Hoạt động thực hành Bài 11B Tiếng việt lớp 4 VNEN
Câu 1.
Đọc thầm câu chuyện sau: Bàn chân kì diệu
Ký bị liệt hai cánh tay từ nhỏ. Thấy các bạn được cắp sách đến trường, Ký thèm lắm. Em quyết định đến lớp xin vào học.
Sáng hôm ấy, cô giáo Cương đang chuẩn bị viết bài học vần lên bảng thì thấy một cậu bé thập thò ngoài cửa. Cô bước ra, dịu dàng hỏi:
- Em muốn hỏi gì cô phải không?
Cậu bé khẽ nói:
- Thưa cô, em xin cô cho em vào học. Có được không ạ?
Cô giáo cầm tay Ký. Hai cánh tay em mềm nhũn, buông thõng, bất động. Cô giáo lắc đầu: Khó lắm em ạ. Em hãy về nhà. Đợi lớn lên ít nữa xem sao đã.
Cô thoáng thấy đôi mắt Ký nhòe ướt. Em quay ngoắt lại, chạy về nhà. Hình như em vừa chạy, vừa khóc.
Cô giáo trở vào lớp. Suốt buổi học hôm ấy, hình ảnh cậu bé với hai cánh tay buông thõng luôn hiện lên trước mắt cô.
Mấy hôm sau, cô giáo đến nhà Ký. Bước qua cổng cô vừa ngạc nhiên, vừa xúc động: Ký đang ngồi giữa sân hí hoáy tập viết. Cậu cặp một mẩu gạch vào ngón chân và vẽ xuống đất những nét chữ ngoằn ngoèo. Cô giáo hỏi thăm sức khỏe của Ký rồi cho em mấy viên phấn.
Thế rồi, Ký lại đến lớp. Lần này em được nhận vào học. Cô giáo dọn một chỗ ở góc lớp, trải chiếu cho Ký ngồi tập viết ở đó. Em cặp cây bút vào ngón chân và tập viết vào trang giấy. Cây bút không làm theo ý muốn của Ký. Bàn chân em giẫm lên trang giấy, cựa quậy một lúc là giấy nhàu nát, mực giây bê bết. Mấy ngón chân Ký mỏi nhừ. Cô giáo thay bút chì cho Ký. Ký lại kiên nhẫn viết. Mấy ngón chân quắp lại giữ cho được cây bút đã khó, điều khiển cho nó viết thành chữ còn khó hơn, nhưng Ký vẫn gắng sức đưa bút theo nét chữ. Bỗng cậu nằm ngửa ra, chân giơ lên, mặt nhăn nhó, miệng xuýt xoa đau đớn. Cô giáo và mấy bạn chạy vội tới. Thì ra, bàn chân Ký bị chuột rút, co quắp lại, không duỗi ra được. Các bạn phải xoa bóp mãi mới ổn. Cái giống “chuột rút” làm khổ Ký rất nhiều. Nó đã rút một lần thì sau quen cứ rút mãi. Có lần đau tái người, Ký quăng bút vào góc lớp định thôi học. Nhưng cô giáo Cương an ủi, khuyến khích em hãy kiên nhẫn tập dần từng tí một. Các bạn cũng mỗi người nói một câu, giúp một việc. Lời khuyến khích dịu dàng của cô giáo, những cử chỉ thân thương của bè bạn tiếp sức cho Ký. Ký lại quắp bút vào ngón chân hì hục tập viết. Ký kiên nhẫn, bền bỉ. Ngày nắng cũng như ngày mưa, người mệt mỏi, ngón chân đau nhức, có lúc chân bị chuột rút liên hồi... nhưng Ký không nản lòng. Buổi học nào cũng vậy, trong góc lớp, trên mảnh chiếu nhỏ không bao giờ vắng mặt Nguyễn Ngọc Ký.
Nhờ luyện tập kiên trì, Ký đã thành công. Hết lớp Một, Ký đã đuổi kịp các bạn. Chữ Ký viết ngày một đều hơn, đẹp hơn. Có lần Ký được 8 điểm, 9 điểm rồi 10 điểm về môn Tập viết. Bao năm khổ công, thế rồi Ký thi đại học, trở thành sinh viên Trường Đại học Tổng hợp.
Nguyễn Ngọc Ký là tấm gương sáng về ý chí vượt khó. Ngày Bác Hồ còn sống, đã hai lần gởi tặng huy hiệu của Người cho cậu học trò dũng cảm giàu nghị lực ấy.
Hiện nay, ông Nguyễn Ngọc Ký là Nhà giáo Ưu tú, dạy môn Ngữ văn của một trường trung học ở Thành phố Hồ Chi Minh. Ông là tác giả bài thơ Em thương trong sách Tiếng Việt 3, tập hai.
Câu 2.
Dựa vào câu chuyện Bàn chân kì diệu, em và một bạn (đóng vai người thân) để trao đổi về tính cách đáng khâm phục của anh Nguyễn Ngọc Ký.
Phân vai: Em đóng vai Con, bạn đóng vai mẹ
- Con: Chạy từ cổng vào, vừa chạy vưa hô to: Thưa bố mẹ con đã đi học về ạ!
- Mẹ: Con đi học về rồi đấy à, vào đây ngồi nghỉ với mẹ một tý rồi hai mẹ con cùng làm bữa tối nhé.
- Con: Vâng ạ! Mà mẹ ơi, con đố mẹ nhé! Theo mẹ, có ai mà viết chữ bằng chân mà chữ đẹp không?
- Mẹ: Viết chữ bằng chân mà lại đẹp ư? À mẹ nhớ rồi có Nguyễn Ngọc Ký đó con.
- Con: Gao, sao mẹ biết hay vậy, hôm nay con vừa được học bài đôi chân kì diệu nói về Nguyễn Ngọc Ký đó mẹ.
- Mẹ: Con đã học được gì, kể lại cho mẹ nghe nào con gái.
- Con: Dạ, thưa mẹ: Ký là người bị liệt cả hai tay nhưng rất ham học. Được nhận vào học, cô giáo và các bạn trong lớp hết lòng giúp đỡ. Ban đầu, cây bút được cặp vào ngón chân không theo được sự điều khiển của Ký nên giấy nhàu nát, mực dây bê bết. Thế là cô giáo thay bút chì cho Ký và Ký tiếp tục kiên nhẫn viết. Đôi lúc Ký bật ngửa ra, chân giơ cao, mặt nhăn nhó đau đớn vì bị chuột rút. Các bạn chạy đến xoa bóp cho Ký. Quá nản chí trước những khó khăn, Ký định thôi học. Nhưng nhờ cô giáo động viên, các bạn trong lớp mỗi người góp một câu, Ký lại tiếp tục. Với nghị lực và kiên trì tập luyện, Ký đã học kịp các bạn. Bao năm khô công, Ký thi đỗ đại học.
- Mẹ: Đó là một người có nghị lực phải không con?
- Con: Vâng ạ! Con nghĩ đây chính là tấm gương mà con và các bạn cần phải học tập.
- Mẹ: Con nói đúng rồi. Con người rất tài năng, không có gì là không làm được. Quan trọng nhất là bản thân mình có muốn làm hay không thôi. Mẹ rất vui khi con gái của mẹ đã thực sự lớn khôn và trưởng thành.
- Con: Vậy mẹ còn chần chừ gì nữa, phải xông pha vào bếp thưởng cho con những món ngon đi chứ.
- Mẹ: Tuân lệnh công chúa của mẹ.
Câu 3.
Quan sát các tranh và đọc lời kể dưới mỗi tranh
Câu 4.
Kể lại chuyện Bàn chân kì diệu và nêu bài học mà mình học được ở Nguyễn Ngọc Ký/
- Tranh 1: Kí bị liệt hai cánh tay từ nhỏ. Thấy các bạn được cắp sách đến trường, Ký thèm lắm. Em quyết định đến lớp xin vào học.
- Tranh 2: Khi biết được hoàn cảnh và tình trạng đôi bàn tay của Ký, cô giáo Cương không dám nhận em vào học.
- Tranh 3: Mấy hôm sau cô giáo tới thăm Ký, nhìn thấy em đang ngồi trong sân dùng chân hí hoáy tập viết, hình ảnh ấy khiến cô giáo vô cùng ngạc nhiên và xúc động.
- Tranh 4: Thế rồi, Ký lại đến lớp và lần này em được nhận vào học.
- Tranh 5: Cô giáo Cương sắp xếp cho Ký một chiếc chiếu cuối lớp để ngồi học, kẹp bút vào ngón chân để tập viết trên trang giấy.Những ngày đầu gặp bao nhiêu là khó khăn khi thì cây bút không chịu nghe lời, lúc thì trang giấy nhàu nát, khi thì mực bê bết,... có khi luyện viết nhiều quá, mỏi cơ Ký bị chuột rút. Có lúc em cũng nản lòng muốn bỏ cuộc, nhưng nhờ có cô giáo Cương và bạn bè bên cạnh động viên, giúp đỡ Ký lại cố gắng, kiên trì, ngày mưa cũng như ngày nắng luôn chuyên cần đến lớp
- Tranh 6: Nhờ luyện tập kiên trì, Ký đã thành công. Hết lớp Một, Ký đã đuổi kịp các bạn. Chữ Ký viết ngày một đều hơn, đẹp hơn. Có lần Ký được 8 điểm, 9 điểm rồi 10 điểm về môn Tập viết. Bao năm khổ công, thế rồi Ký thi đại học, trở thành sinh viên Trường Đại học Tổng hợp. Nguyễn Ngọc Ký là tấm gương sáng về ý chí vượt khó. Ngày Bác Hồ còn sống, đã hai lần gởi tặng huy hiệu của Người cho cậu học trò dũng cảm giàu nghị lực ấy.
Kể lại toàn bộ câu chuyện:
Kí bị liệt hai cánh tay từ nhỏ. Thấy các bạn cắp sách đến trường, Kí thèm lắm. Kí quyết định đến lớp xin cô giáo vào học. Cô giáo cầm tay Kí thấy hai cánh tay mềm nhũn, buông thõng, bất động cô không dám nhận em vào học. Kí thất vọng trở về vừa đi vừa khóc.
Mấy hôm sau, cô giáo đến nhà Kí. Bất chợt cô thấy Kí ngồi ở giữa sân hí hoáy dùng chân tập viết. Cô rất cảm động cho em mấy viên phấn. Một thời gian sau, Kí lại đến lớp. Lần này, cô giáo nhận em vào học. Cô dọn cho Kí một chỗ riêng ở góc lớp, trải chiếu cho Kí ngồi tập viết ở đó. Kí cặp cây bút vào chân luyện viết. Lúc đầu cây bút không theo ý Kí, Bàn chân dẫm lên trang giấy nhàu nát, mực giây bê bết. Mấy ngon chân mỏi chuột rút, bàn chân co quắp lại, đau điếng. Kí quẳng bút chì vào góc lớp, chán nản. Nhưng nhờ cô giáo và các bạn động viên Kí lại lao vào tập luyện một cách kiên nhẫn và bền bỉ.
Sau một thời gian Kí đã thành công. Hết lớp Một Kí đuổi kịp các bạn. Chữ của Kí mỗi ngày đẹp hơn. Bao năm khổ luyện Kí đã tốt nghiệp phổ thông và thi đậu vào trường Đại học Tổng hợp.
Nguyễn Ngọc Kí là tấm gương sáng về ý chí vượt khó. Ngay Bác Hồ còn sống, đã hai lần Bác gửi tặng huy hiệu của Người cho cậu học trò dũng cảm giàu nghị lực ấy.
----------------------------------------------------
Ngoài giải bài tập Toán 4 VNEN, VnDoc còn giúp các bạn Giải vở bài tập Tiếng Việt lớp 4 và bài tập tương ứng. Các em học sinh hoặc quý phụ huynh còn có thể tham khảo thêm đề thi học kì 1 lớp 4 và đề thi học kì 2 lớp 4 các môn Toán, Tiếng Việt, Tiếng Anh, Khoa, Sử, Địa theo chuẩn thông tư 22 của bộ Giáo Dục. Những đề thi này được VnDoc.com sưu tầm và chọn lọc từ các trường tiểu học trên cả nước nhằm mang lại cho học sinh lớp 4 những đề ôn thi học kì chất lượng nhất. Mời các em cùng quý phụ huynh tải miễn phí đề thi về và ôn luyện.
Tài liệu tham khảo: