Giao diện mới của VnDoc Pro: Dễ sử dụng hơn - chỉ tập trung vào lớp bạn quan tâm. Vui lòng chọn lớp mà bạn quan tâm: Lưu và trải nghiệm

Nguyên nhân thắng lợi và ý nghĩa lịch sử của phong trào Tây Sơn

Nguyên nhân thắng lợi và ý nghĩa lịch sử của phong trào Tây Sơn được chúng tôi sưu tầm và tổng hợp lí thuyết trong chương trình giảng dạy Lịch sử 7. Hi vọng rằng đây sẽ là những tài liệu hữu ích trong công tác giảng dạy và học tập của quý thầy cô và các bạn học sinh.

Lưu ý: Nếu bạn muốn Tải bài viết này về máy tính hoặc điện thoại, vui lòng kéo xuống cuối bài viết.

Câu hỏi: Nguyên nhân thắng lợi và ý nghĩa lịch sử của phong trào Tây Sơn?

Lời giải:

Nguyên nhân thắng lợi và ý nghĩa lịch sử của phong trào Tây Sơn:

* Nguyên nhân thắng lợi:

+ Nhờ ý chí đấu tranh chống áp bức bóc lột, tinh thần yêu nước, đoàn kết và hi sinh cao cả của nhân dân ta.

+ Sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Quang Trung và bộ chỉ huy nghĩa quân. Quang Trung là anh hùng dân tộc vĩ đại.

* Ý nghĩa lịch sử

+ Thắng lợi của phong trào Tây Sơn trong việc lật đổ chính quyền phong kiến thối nát Nguyễn - Trịnh - Lê đã xoá bỏ ranh giới chia cắt đất nước, đặt nền tảng cho việc thống nhất quốc gia.

+ Thắng lợi của phong trào Tây Sơn trong việc chống quân xâm lược Xiêm và Thanh có ý nghĩa lịch sử to lớn: giải phóng đất nước, giữ vững nền độc lập của Tổ quốc, một lần nữa đập tan tham vọng xâm lược nước ta của các đế chế quân chủ phương Bắc.

Trong lịch sử phong kiến Việt Nam, thế kỷ XVIII là thời kỳ của chiến tranh nông dân với đỉnh cao là phong trào Tây Sơn. Dưới sự lãnh đạo của ba anh em nhà Tây Sơn, từ một phong trào ở ấp Tây Sơn đã phát triển thành phong trào quật khởi của cả dân tộc, là kết tinh của phong trào nông dân đấu tranh trong thế kỷ XVIII. Bài viết hướng đến tìm hiểu một số đặc trưng của phong trào Tây Sơn, qua đó thấy được những nét đặc sắc của phong trào, đồng thời khẳng định những đóng góp của phong trào đối với sự nghiệp thống nhất và bảo vệ độc lập dân tộc của đất nước.

1. Mở đầu

Thế kỷ XVI – XVIII, đất nước bị chia cắt Đàng Trong – Đàng Ngoài, thống nhất đất nước trở thành nhu cầu cấp thiết của toàn dân, là nguyện vọng tha thiết của nhân dân, yêu cầu khách quan của xã hội. Phong trào Tây Sơn xuất hiện năm 1771 đã từng bước giành được thắng lợi, lật đổ các chính quyền phong kiến Lê – Trịnh – Nguyễn, non sông nước Việt sau thời gian dài bị chia cắt đã được thu về một mối. Sau khi đánh đổ chính quyền phong kiến phản động trong nước, phong trào Tây Sơn đã vươn lên làm nghĩa vụ dân tộc, chống thù trong giặc ngoài, cứu dân cứu nước – một thắng lợi vĩ đại của phong trào Tây Sơn.

2. Nội dung

a. Bối cảnh lịch sử Đại Việt thế kỷ XVIII

Thế kỷ XV chế độ phong kiến nhà Lê phát triển đến giai đoạn cực thịnh. Nhưng đến đầu thế kỷ XVI, triều đình phong kiến nhà Lê bắt đầu suy yếu, tranh chấp giữa các phe phái diễn ra quyết liệt, gây ra các cuộc nội chiến kéo dài, đời sống nhân dân ngày càng cực khổ.

Các vua Lê Uy Mục, Lê Tương Dực chỉ lo ăn chơi, không lo triều chính. Nội bộ triều Lê “chia bè kéo cánh”, tranh giành quyền lực. Dưới triều Lê Uy Mục, quý tộc ngoại thích nắm hết quyền lực, giết hại công thần. Dưới triều Lê Tương Dực, tướng Trịnh Duy Sản gây bè phái, đánh giết nhau liên miên suốt hơn mười năm. Chế độ phong kiến nhà Lê dần rơi vào cảnh khủng hoảng do các vua trị vì ăn chơi sa đọa, tha hóa làm cho triều đình rối loạn. Nhân khi triều đình rối loạn, quan lại ở địa phương cậy quyền, ức hiếp dân, đời sống của các tầng lớp nhân dân lâm vào cảnh khốn cùng.

Từ giữa thế kỷ XVIII, tình hình chính trị ở Đàng Ngoài ngày càng mất ổn định, vua Lê không còn thực quyền, mọi quyền bính đều rơi vào tay chúa Trịnh, phủ chúa quanh năm hội hè, yến tiệc, phung phí tiền của. Nhà nước trung ương không ngừng tăng cường bóc lột nhân dân, nhà nước tận thu tô thuế, họ Trịnh đánh thuế vào cả những diện tích đất “đồng chua nước mặn”, “bãi cát trắng”, đất không sản xuất được; chính sách thuế thổ sản đánh vào tất cả các nghề thủ công của nhân dân làm cho nhiều nghề thủ công bị phá sản, hoạt động công thương nghiệp bị kìm hãm. Tình trạng thiếu thuế năm này dồn sang năm khác trở thành gánh nặng khủng khiếp đối với người dân, nhiều người phải bỏ nghề, phá bỏ công cụ sản xuất để tránh nộp thuế, cuộc sống của nhân dân ngày càng khổ cực, vào những năm 40 của thế kỷ XVIII, hàng chục vạn nông dân chết đói, người sống sót phải bỏ làng quê, phiêu tán khắp nơi. Không những thế, việc mua quan bán tước ngày càng trở nên phổ biến, năm 1736 – 1740, chúa Trịnh Giang bốn lần quy định thể lệ mua quan bán tước, cho phép quan lại nộp tiền để thăng chức và nhà giàu nộp tiền để được làm quan; năm 1750, họ Trịnh đặt “tiền thông kinh”, nộp ba quan tiền thì được miễn khảo hạch và coi như trúng sinh đồ.

Trong khi triều đình trung ương chỉ lo ăn chơi, không chăm lo đến đời sống sống nhân dân, quan lại địa phương càng ra sức đục khoét, ức hiếp, nhũng nhiễu nhân dân, cuộc sống của người dân thường xuyên bị đe dọa. Đồng thời, nạn chiếm đoạt ruộng đất trở thành hiện tượng phổ biến và ngày càng nghiêm trọng. Bằng nhiều hình thức và thủ đoạn, tầng lớp địa chủ đã chiếm đoạt ruộng tư của nông dân, mặt khác xâm lấn vào ruộng đất công của làng xã. Phần lớn ruộng công làng xã – niềm tin của nông dân công xã đã bị nhà nước cắt xén để ban cấp cho quan lại và quân lính. Kết quả là phần ruộng cho nông dân ngày càng ít, hàng loạt nông dân bị gạt ra khỏi ruộng đất hoặc cố bám lấy mảnh ruộng “chết đói” để gắng gượng một cuộc sống cơ cực.

Bên cạnh đó, thiên tai, vỡ đê, hạn hán xảy ra liên miên; các năm 1678, 1681, 1684, 1687… là những năm hạn hán, mất mùa lớn. Đặc biệt, nạn đói khủng khiếp năm 1740 – 1741 ở Đàng Ngoài “dân phiêu tán dắt díu nhau đi kiếm ăn đầy đường. Giá gạo cao vọt, một trăm đồng tiền không được một bữa no, nhân dân phần nhiều phải ăn rau, ăn củ, đến nỗi ăn cả thịt rắn, thịt chuột, chết đói chồng chất lên nhau; số dân còn lại mười phần không được một. Làng nào vốn có tiếng trù mật cũng chỉ còn lại độ năm ba hộ mà thôi” [1, tr. 852], cuộc sống của người dân rơi vào cảnh cùng khốn.

Nếu như chính sách của chế độ quân chủ tập quyền Đàng Ngoài thời kỳ này đã đẩy mâu thuẫn giữa nông dân với địa chủ, giữa nhân dân với nhà nước phong kiến trở nên gay gắt, làm bùng nổ các cuộc khởi nghĩa, thì đến nửa cuối thế kỷ XVIII, ở Đàng Trong, những mâu thuẫn cố hữu của chế độ phong kiến cũng đã đẩy xã hội Đàng Trong lâm vào cuộc khủng hoảng.

Chúa Nguyễn Phúc Khoát sau khi xưng vương, tạo lập triều đình riêng, cho xây dựng cung điện theo quy mô của một đế đô. Không chỉ riêng các chúa Nguyễn mà tất cả quan lại, quý tộc Đàng Trong đều đua nhau ăn chơi, hưởng lạc đến cực độ, trong đó nổi bật là Trương Phúc Loan, ông nắm hết quyền hành, khét tiếng tham nhũng, vàng, bạc, châu, ngọc, lụa chất “thành núi”, ruộng vườn, nhà cửa, trâu ngựa không đếm xuể. Chính sách thuế khóa của chính quyền họ Nguyễn cũng hết sức nặng nề, phức tạp “hàng trăm thứ thuế, mà trưng thu thì phiền phức, gian lận, nhân dân khốn khổ về nỗi một cổ hai tròng” [2, tr. 413], thuế thổ sản có hàng trăm ngàn thứ, nhà nước cần gì thì đặt ra thứ thuế ấy để thu. Hệ thống quan thu thuế “bản đường quan” đông đảo, luôn tìm cách hạch sách, nhũng nhiễu nhân dân. Quan trường trở thành nơi làm giàu của bọn quan lại, do vậy nạn mua bán quan tước diễn ra rất phổ biến.

Về kinh tế, trong thời Trịnh – Nguyễn phân tranh và sau đó là giai đoạn đất nước bị chia cắt, kinh tế Đàng Trong có sự phát triển hơn Đàng Ngoài. Thế nhưng, bước sang thế kỷ XVIII, kinh tế Đàng Trong bắt đầu có những dấu hiệu suy thoái trên các lĩnh vực: ngoại thương sa sút, các đô thị như Thanh Hà, Hội An dần dần lụi tàn; khi ngoại thương suy giảm, “nạn tiền hoang” gây ra tình trạng rối loạn nội tệ, dẫn đến tình trạng đầu cơ tích trữ, làm ngưng trệ mọi hoạt động lưu thông; phần lớn ruộng đất đều tập trung trong tay giai cấp địa chủ giàu có, giai cấp nông dân cực khổ, mâu thuẫn giai cấp ngày càng trở nên sâu sắc. Hơn nữa, đói kém xảy ra, đặc biệt năm 1774, Thuận Hóa bị đói lớn, dân bị chết đói rất nhiều, xác chết chồng chất lên nhau. Trước tình hình đó, người nông dân đã nổi dậy đấu tranh, mở đầu là cuộc khởi nghĩa của chàng Lía ở Quy Nhơn, sau đó là phong trào Tây Sơn – phong trào làm rung chuyển cả đất nước.

Như vậy, thế kỷ XVIII chế độ phong kiến Đàng Ngoài và Đàng Trong bước vào cuộc khủng hoảng nghiêm trọng, giai cấp địa chủ chiếm đoạt ruộng đất của nông dân, chính sách thuế khóa nặng nề và những thủ đoạn bóc lột tàn bạo của nhà nước phong kiến đã đẩy người nông dân vào cuộc sống bần cùng nghèo khổ, nhiều người phải phiêu bạt, lưu tán. Bên cạnh đó, hạn hán, đói kém xảy ra, đời sống nhân dân ngày càng cơ cực, tất cả những điều đó đã đẩy mâu thuẫn kinh tế xã hội ở nước ta lên đỉnh điểm và là nguyên nhân dẫn tới sự bùng nổ của phong trào nông dân khởi nghĩa.

b. Sơ lược về phong trào Tây Sơn

Phong trào Tây Sơn nổ ra ở Đàng Trong vào nửa cuối thế kỷ XVIII, do ba anh em nhà họ Nguyễn: Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ lãnh đạo. Năm 1771 cuộc khởi nghĩa Tây Sơn bùng nổ với khẩu hiệu: “đánh đổ quyền thần Trương Phúc Loan, ủng hộ hoàng tôn Nguyễn Phúc Dương”. Mục đích của khởi nghĩa Tây Sơn là chống lại áp bức của bọn cường hào, địa chủ, tiêu diệt Trương Phúc Loan, “thực hiện công lý trong xã hội”. Phong trào Tây Sơn không ngừng phát triển và liên tiếp giành được những thắng lợi to lớn: năm 1773, chiếm phủ Quy Nhơn; từ năm 1776 đến năm 1783, nghĩa quân Tây Sơn đã bốn lần đánh vào Gia Định. Trong lần tiến quân thứ hai (năm 1777) Tây Sơn bắt giết được chúa Nguyễn, chỉ còn Nguyễn Ánh chạy thoát, chính quyền họ Nguyễn Đàng Trong bị lật đổ. Sau nhiều lần thất bại, Nguyễn Ánh sang Xiêm cầu cứu. Chớp cơ hội, tháng 7 năm 1784 vua Xiêm sai tướng đem 5 vạn quân thủy bộ theo Nguyễn Ánh sang xâm lược nước ta. Cuối năm 1784, quân Xiêm đã chiếm miền Tây Gia Định, chúng ra sức cướp phá, giết người. Nguyễn Nhạc đã cử Nguyễn Huệ vào Nam đánh giặc. Tháng 1 năm 1785 Nguyễn Huệ lãnh đạo quân Tây Sơn đánh thắng trận Rạch Gầm – Xoài Mút. Chiến thắng Rạch Gầm – Xoài Mút là một trong những trận thủy chiến lớn nhất, đập tan âm mưu xâm lược của vua Xiêm do Nguyễn Ánh dẫn đường và khẳng định sức mạnh to lớn của nghĩa quân Tây Sơn cũng như thiên tài quân sự Nguyễn Huệ.

Năm 1786, với danh nghĩa “phù Lê diệt Trịnh” phong trào Tây Sơn chuyển mục tiêu đấu tranh ra phía Bắc, quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ lãnh đạo đã đánh đổ hoàn toàn nền thống trị của họ Trịnh. Sau đó, bằng những cuộc tiến công ra Bắc năm 1787 – 1788, quân Tây Sơn lật đổ sự thống trị của vua Lê, chế độ vua Lê chúa Trịnh thống trị ở Bắc hà bị sụp đổ.

Sau khi đánh đổ các chính quyền phong kiến phản động trong nước, phong trào Tây Sơn đã vươn lên làm nhiệm vụ chống ngoại xâm, bảo vệ đất nước. Với chiến thắng Ngọc Hồi – Đống Đa, Quang Trung đã đánh tan đội quân Mãn Thanh do Tôn Sĩ Nghị chỉ huy, bảo vệ độc lập dân tộc.

Phong trào Tây Sơn là một trong những phong trào nông dân tiêu biểu trong thời phong kiến Việt Nam. Phong trào đã lần lượt đánh đổ ba chính quyền phong kiến, phá tan hai cuộc xâm lược và can thiệp của ngoại bang, xóa bỏ tình trạng chia cắt Đàng Trong – Đàng Ngoài, thực hiện công cuộc thống nhất đất nước, để lại dấu ấn đậm nét trong lịch sử nước nhà.

c. Một số đặc trưng của phong trào Tây Sơn thế kỷ XVIII

* Sự phát triển về quy mô và kết hợp vấn đề giai cấp – dân tộc

Tây Sơn là vùng đất thuộc phủ Quy Nhơn, dinh Quảng Nam – là khu vực trù phú nhưng cũng là vùng chịu tô thuế hà khắc thời bởi các chính sách áp bức của các chúa Nguyễn. Năm 1771, ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ lên vùng Tây Sơn thượng đạo (nay thuộc An Khê, Gia Lai) lập căn cứ, dựng cờ khởi nghĩa chống chính quyền họ Nguyễn ở Đàng Trong.

Trong giai đoạn đầu của phong trào, nghĩa quân Tây Sơn tranh thủ được sự ủng hộ của các cá nhân thuộc giai cấp thống trị bằng khẩu hiệu “đánh đổ quyền thần Trương Phúc Loan, ủng hộ hoàng tôn Nguyễn Phúc Dương”. Nguyễn Nhạc đã lợi dụng mâu thuẫn này để phân hóa kẻ thù, kết quả là phong trào không những thu hút được các tầng lớp nhân dân mà còn lôi kéo được một bộ phận trong tầng lớp thống trị vốn bất bình với phe cánh của Trương Phúc Loan “hào mục bản thổ đua nhau nổi dậy hưởng ứng với Nhạc, thế giặc càng ngày càng bùng lên” [3, tr. 17].

“… Giận Quốc phó ra lòng bội bạc nên Tây Sơn xướng nghĩa Cần Vương;

Trước là ngăn cột đá giữa dòng kẻo đảng nghịch đặt mưu ngấp nghé, Sau là tưới mưa dầm khi hạn, kéo cùng dân ra chốn lầm than…”

Ngoài ra, Tây Sơn còn tập hợp được đông đảo nông dân trong vai trò chủ lực của nghĩa quân qua khẩu hiệu “lấy của nhà giàu chia cho nhà nghèo” – quyền lợi kinh tế gắn liền với nông dân. Điều đó được các giáo sĩ Tây Ban Nha, điển hình là Diego de Jumilla ghi lại, sách Les Espagnols dans l’Empire d’Annam trích dẫn như sau: “Ban ngày họ xuống các chợ, kẻ đeo gươm, người mang cung tên, có người mang súng. Họ không hề làm thiệt hại đến người và của. Trái lại họ tỏ ra muốn bình đẳng giữa mọi người Đàng Trong; họ vào nhà giàu, nếu đem nộp họ ít nhiều thì họ không gây tổn hại, nhưng nếu chống cự lại thì họ cướp lấy những của quý đem chia cho người nghèo; họ chỉ giữ gạo và lương thực cho họ mà thôi… Người ta gọi họ là bọn cướp đạo đức và nhân từ đối với quần chúng nghèo khổ..” [4, tr. 33].

Tây Sơn không những tranh thủ được sự ủng hộ của nông dân mà phong trào còn tranh thủ được các tầng lớp khác như hào trưởng có thế lực ở vùng Thuận Nghĩa, ông bầu gánh hát tuồng Nhung Quy, kép hát Tư Linh. Đặc biệt, có cả thương nhân Trung Quốc như Tập Đình, Lý Tài – một trong những lực lượng đóng góp về tài chính nhiều nhất cho nghĩa quân. Đồng thời, Nguyễn Nhạc với chính sách “thượng vận” đã thu hút một phần lớn cư dân miền núi, người Thượng, những người rất thông thạo về đường sá, giỏi bắn cung, đặc biệt là rất trung thành, đã tin ai là tin đến cùng. Từ căn cứ Tây Sơn, nghĩa quân tỏa về giải phóng các làng xã, trừng trị bọn xã trưởng, quan thu thuế, đốt hết các giấy tờ sổ sách, tuyên bố bãi bỏ mọi thứ thuế, nghĩa quân đi đến đâu đều được nông dân hưởng ứng tham gia.

Từ căn cứ Tây Sơn thượng đạo, với các khẩu hiệu “đánh đổ quyền thần Trương Phúc Loan, ủng hộ hoàng tôn Nguyễn Phúc Dương”, “lấy của nhà giàu chia cho người nghèo”, nghĩa quân nhanh chóng được sự ủng hộ của các tầng lớp nhân dân. Nghĩa quân dần mở rộng căn cứ xuống vùng đồng bằng, thanh thế nghĩa quân lan rộng nhanh chóng. Năm 1773, quân đội Tây sơn kiểm soát phần lớn phủ Quy Nhơn. Lần đầu tiên nghĩa quân hạ được một thành lũy, dinh thự của quan lại phong kiến, uy thế của nghĩa quân lên cao. Chiếm được thành Quy Nhơn, nghĩa quân mở rộng đánh và chiếm Quảng Ngãi. Đó là một thắng lợi có ý nghĩa chiến lược quan trọng, đánh dấu bước trưởng thành vượt bậc của cuộc khởi nghĩa. Đến cuối năm 1773, vùng kiểm soát của Tây Sơn kéo dài từ phía nam Quảng Ngãi đến Khánh Hòa. Tuy nhiên, đến giữa năm 1774, quân của chúa Nguyễn phản công và đánh chiếm lại Bình Thuận, Diên Khánh, Bình Khang, quân Tây Sơn chỉ kiểm soát căn cứ Quy Nhơn và Quảng Ngãi.

Năm 1776, Nguyễn Lữ đem quân đánh vào Gia Định, quân chúa Nguyễn phải bỏ thành Gia Định, chạy lên Trấn Biên. Năm 1777, Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ tiến quân vào Gia Định lần thứ hai, quân Tây Sơn đánh bại và bắt giết chúa Nguyễn là Nguyễn Phúc Thuần và Nguyễn Phúc Dương, Nguyễn Phúc Ánh chạy thoát, chấm dứt sự thống trị của chúa Nguyễn ở Đàng Trong. Năm 1786, Nguyễn Huệ tiến quân ra Bắc, lật đổ tập đoàn chúa Trịnh, trao trả quyền lực cho vua Lê Hiển Tông. Vua Lê phong Nguyễn Huệ làm Uy quốc công và gả công chúa Ngọc Hân cho ông, cắt đất Nghệ An nhường cho Tây Sơn. Sau khi Tây Sơn trở vào Nam, tình hình Bắc hà trở nên rối loạn, Nguyễn Hữu Chỉnh lộng quyền, Nguyễn Huệ cử Ngô Văn Sở, Phan Văn Lân cùng Vũ Văn Nhậm diệt Nguyễn Hữu Chỉnh, còn vua Lê (Lê Chiêu Thống) chạy lên Kinh Bắc, rồi chạy sang Trung Quốc cầu cứu nhà Thanh, sự nghiệp thống trị của nhà Lê đến đây chấm dứt.

Tóm lại, từ một phong trào nổ ra ở địa phương, sau 18 năm phong trào Tây Sơn đã phát triển mạnh mẽ ra phạm vi cả nước, thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân tham gia và đạt được nhiều thắng lợi. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam có một phong trào nông dân phát triển rộng lớn, kéo dài với quy mô ngày càng mở rộng, lực lượng tham gia đông đảo về thành phần và số lượng. Phong trào không những đã đánh đổ cả ba chính quyền phong kiến Lê – Trịnh – Nguyễn, chấm dứt tình trạng chia cắt đất nước mà còn đánh bại giặc ngoại xâm Xiêm, Thanh, bảo vệ chủ quyền quốc gia.

Trong lịch sử phong kiến Việt Nam, phong trào nông dân Tây Sơn là phong trào duy nhất có sự kết hợp giữa việc giải quyết vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc, đó chính là sự chuyển biến về tính chất của phong trào so với các phong trào nông dân khác.

Sự chuyển biến về tính chất được thực hiện từ lúc nghĩa quân Tây Sơn lật đổ sự thống trị của chúa Nguyễn ở Đàng Trong. Nguyễn Ánh chạy thoát, cầu viện quân Xiêm với âm mưu khôi phục chế độ phong kiến phản động. Với chiến thắng Rạch Gầm – Xoài Mút, một mặt làm thất bại âm mưu xâm lược của quân Xiêm, mặt khác đưa phong trào Tây Sơn phát triển lên một tầm cao mới, làm chủ toàn bộ Đàng Trong, tạo điều kiện tiến ra Đàng Ngoài, lật đổ chính quyền thống trị Lê – Trịnh.

Lần thứ hai, lòng yêu nước được thăng hoa, trở thành đỉnh cao, là biểu tượng cho thời đại Tây Sơn khi nhân dân ta tập trung sức người, sức của chống quân xâm lược Mãn Thanh. Với chiến thắng Ngọc Hồi – Đống Đa vào Tết Kỷ Dậu 1789, giải phóng Thăng Long, hoàn thành sứ mệnh giải phóng dân tộc, bảo vệ độc lập và thống nhất nước nhà.

Sự chuyển biến về quy mô và tính chất là một nét đặc sắc của phong trào nông dân Tây Sơn trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Từ căn cứ Tây Sơn thượng đạo, phong trào Tây Sơn đã phát triển lớn mạnh, trở thành một phong trào quật khởi của cả dân tộc. Phong trào Tây Sơn ban đầu có tính chất địa phương, sau trở thành trung tâm thu hút mạnh mẽ quần chúng nhân dân tham gia và phát triển thành phong trào có phạm vi hoạt động rộng lớn trên phạm vi cả nước, có sự kết hợp giữa việc giải quyết vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc.

---------------------------------

Ngoài Nguyên nhân thắng lợi và ý nghĩa lịch sử của phong trào Tây Sơn đã được VnDoc.com giới thiệu, mời các bạn cùng tham khảo thêm Giải bài tập SGK môn Lịch sử lớp 7, Giải bài tập SBT môn Lịch sử 7 để hoàn thành tốt chương trình học THCS.

Chia sẻ, đánh giá bài viết
1
Sắp xếp theo
    🖼️

    Gợi ý cho bạn

    Xem thêm
    🖼️

    Lịch sử lớp 7

    Xem thêm