Giao diện mới của VnDoc Pro: Dễ sử dụng hơn - chỉ tập trung vào lớp bạn quan tâm. Vui lòng chọn lớp mà bạn quan tâm: Lưu và trải nghiệm

Lý thuyết Ngữ văn 10 bài: Thơ duyên - Xuân Diệu CTST

VnDoc xin giới thiệu bài Lý thuyết Ngữ văn lớp 10 bài: Thơ duyên - Xuân Diệu được chúng tôi sưu tầm và tổng hợp lí thuyết và bài tập có đáp án đi kèm nằm trong chương trình giảng dạy môn Ngữ văn lớp 10 sách chân trời sáng tạo. Mời quý thầy cô cùng các bạn tham khảo tài liệu dưới đây.

1. Tìm hiểu chung

1.1. Tác giả Xuân Diệu

Tiểu sử

- Xuân Diệu (1916- 1985) tên khai sinh là Ngô Xuân Diệu

- Quê: Can Lộc - Hà Tĩnh nhưng sống với mẹ ở Quy Nhơn

- Năm 1937, Xuân Diệu ra Hà Nội học trường Luật và viết báo, là thành viên của Tự Lực Văn Đoàn

- Cuối năm 1940, ông vào Mĩ Tho (nay là Tiền Giang) làm viên chức tham tá thương chánh

- Năm 1942, ông quay lại Hà Nội sống bằng nghề viết văn

- Năm 1944, Xuân Diệu tham gia phong trào Việt Minh

- Trong kháng chiến, Xuân Diệu di tản lên chiến khu Việt Bắc, hoạt động văn nghệ cách mạng

- Hòa bình lập lại, Xuân Diệu về sống và làm việc tại Hà Nội đến khi mất

Sự nghiệp văn học

- Phong cách sáng tác:

+ Xuân Diệu đã đem đến cho thơ ca đương đại một sức sống mới, một nguồn cảm xúc mới, thể hiện một quan niệm sống mới mẻ cùng với những cách tân nghệ thuật đầy sáng tạo

+ Ông là nhà thơ của tình yêu, của mùa xuân và tuổi trẻ với một giọng thơ sôi nổi, đắm say, yêu đời thắm thiết

- Di sản văn học: Tác phẩm tiêu biểu là Thơ thơ (1938), Gửi hương cho gió (1945), Riêng chung (1960)... Ngoài ra ông còn viết văn xuôi và tiểu luận phê bình, nghiên cứu văn học

Vị trí và tầm ảnh hưởng

- Là nhà thơ mới nhất trong các nhà thơ mới

- Xuân Diệu là cây bút có sức sáng tạo mãnh liệt, dồi dào, bền bỉ, có đóng góp to lớn trên nhiều lĩnh vực đối với nền văn học Việt Nam hiện đại

- Xuân Diệu xứng đáng với danh hiệu một nhà thơ lớn, một nghệ sĩ lớn, một nhà văn hóa lớn

- Ông được nhà nước trao tặng giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học và nghệ thuật (1996)

1.2. Tác phẩm Thơ duyên

Xuất xứ

Bài thơ được in trong tập Tuyển tập Xuân Diệu (thơ) – NXB Văn học, Hà Nội, 1986, tr 100 – 101).

Thể loại

Thể thơ thất ngôn (7 chữ).

Bố cục

Chia bài thơ làm 3 phần:

- Đoạn 1: khổ 1,2: Khung cảnh một buổi chiều thu

- Đoạn 2: khổ 3: Sự hòa hợp trong tâm hồn nhà thơ

- Đoạn 3: khổ 4,5: Vạn vật trong thơ duyên trở nên có linh tính.

2. Đọc hiểu văn bản

2.1. Khung cảnh của một buổi chiều thu

- Nhìn vào buổi chiều thu nhà thơ thấy được một cái đẹp rất riêng.

- Đó là một buổi chiều mộng hòa thơ trên nhánh duyên.

- Ở đó có tiếng chim hót ríu vang, có màu xanh của lá cũng trở nên xanh hơn, có bầu trời tuyệt đẹp.

-->Các yếu tố đó đã tổng hòa với nhau tạo thành một cái duyên, một cái thơ rất đẹp, đáng yêu, yêu kiều…

- Lúc này cả không gian đều được hiện ra trong vẻ đẹp tuyệt mĩ của mình.

- Nó như một âm thanh không nghe thấy được nhưng lại huyền diệu vô cùng.

-->Từ đó mọi điều bình thường bỗng chốc trở nên khác thường và đẹp hơn.

2.2. Sự hòa hợp trong tâm hồn của nhà thơ

- Con đường bé nhỏ ấy đã trở nên đẹp hơn và ngọn gió chiều cũng đã thổi se sẽ hơn.

- Những cánh hoa lả xuống trước ngọn gió liêu xiêu.

-->Sự hòa hợp trong chính tâm hồn.

- Từ nỗi yêu thương ấy đã làm nhà thơ muốn đi đến tận cùng tình cảm của mình.

-Đó là một điều rất lạ và cũng rất đỗi ngạc nhiên.

- Câu thơ cuối cùng với ý nghĩa là một cặp vần. Đó cũng chính là sự hòa hợp trọn vẹn của ngôn từ và âm thanh để tạo nên cái kỳ diệu trong thơ.

2.3. Vạn vật trong Thơ duyên cũng trở nên có linh tính

- Khi nhận ra được sự thay đổi trong lòng mình nhà thơ đã nhìn ra vạn vật xung quanh.

- Tất cả đều đổi thay như được chinh phục bởi một sức mạnh diệu kỳ.

- Khi này vạn vật không còn vô tri, vô giác nữa mà đã trở nên có linh tính hơn.

- Chúng cũng biết yêu thương, xao động như những con người.

- Từ một đám mây, cánh cò, cánh chim, bông hoa đều có những sự trăn trở bên trong.

- Câu thơ này thể hiện được cái náo nức, phân vân của một thế hệ thơ mới, thế hệ của những nhà thơ hiện đại.

3. Tổng kết

3.1. Về nội dung

Qua việc miêu tả thiên nhiên để bộc lộ tình yêu lứa đôi, tình yêu với cuộc sống, với con người, và sự giao hòa, hòa hợp tuyệt diệu giữa thiên nhiên và con người.

3.2. Về nghệ thuật

- Sử dụng các từ láy

- Phép nhân hóa linh hoạt

- Các từ ngữ đặc sắc một nét khá đặc biệt trong bài thơ là cách ngắt câu

4. Bài tập minh họa

Bài tập: Phân tích bài Thơ duyên - Xuân Diệu, SGK Ngữ văn 10 tập 1 Chân Trời Sáng Tạo.

Hướng dẫn giải:

- Giới thiệu Thơ duyên có những vẻ riêng, một chất riêng so với phần Lớn thơ Xuân Diệu nói chung, trong thơ ca nói riêng.

- Thơ duyên ca ngợi cái duyên, sự hòa hợp đến kì diệu xảy đến vào một buổi chiều thu.

+ Sự hòa hợp lạ lùng xảy ra trong thiên nhiên, giữa vạn vật, giữa thời gian và không gian, giữa bầu trời và mặt đất, giữa cây cỏ với chim muông.

+ Sự hòa hợp làm cho những sự vật bình thường bỗng trở nên đáng yêu, bỗng làm nảy sinh tình cảm yêu mến trong trái tim con người.

+ Sự hòa hợp, cảm thông giữa hai con người vốn xa lạ, hoàn toàn ngoài ý muốn chủ quan, một sự hòa hợp đẹp đẽ, trọn vẹn. Mọi vật bỗng trở nên sinh động.

+ Đẹp nhất vẫn là sự hòa hợp giữa con người.

- Khẳng định giá trị của Thơ duyên. Tình yêu cuộc sống.

Lời giải chi tiết:

Nói đến thơ Xuân Diệu là nói đến những cảm xúc tột cùng mãnh liệt, những yêu thương tột độ đắm say, sôi nổi. Bởi vậy, đọc tập Thơ thơ, người đọc vừa ngạc nhiên vừa thú vị khi gặp một bài thơ rất dịu dàng, dịu từ ý đến lời: Thơ duyên.

Xét cho cùng. Thơ duyên cũng là một bài thơ về tình yêu, nhưng là tình yêu theo nghĩa rộng lớn, tình yêu đối với cuộc sống, đối với con người, đối với mọi vẻ đẹp, sự hòa hợp ở đời. Đây là thơ về cái duyên, cái hài hòa tuyệt vời mà một ngày kia nhà thơ bỗng nhận ra, giữa vũ trụ với cuộc đời, giữa đất trời với cây cỏ muông thú, giữa thời gian với không gian, giữa vạn vật với con người.

Điều ấy không phải bất kì lúc nào cũng xảy ra nhưng đã có lần xảy ra. Lúc ấy, nhìn vào bầu trời đến mặt đất, nhà thơ cũng chỉ nhìn thấy cái đẹp:

Chiều mộng hòa thơ trên nhánh duyên.
Cây me ríu rít cặp chim chuyền
Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá,
Thu đến nơi nơi động tiếng huyền

Chiều mộng hòa thơ trên nhánh duyên. Quả thật đây là lúc mà cả không gian lẫn thời gian đều thi nhau mà hiện ra trong vẻ tuyệt mĩ của mình. Bởi vậy mối quan hệ nhánh duyên là một mối quan hệ tuyệt mĩ: hòa thơ. Từ mối liên hệ ấy, mọi điều đều trở nên hài hòa tuyệt đẹp. Cặp chim đang chuyển cành hót vang ríu rít. Tiếng ríu rít hình như không chỉ vang lên từ cặp chim chuyền mà lên cả từ cây me nữa. Muôn lá vốn xanh, bầu trời vốn xanh, cả trời cùng muôn lá trở nên xanh hơn, xanh đến tuyệt đẹp: xanh ngọc. Trong khổ thơ, có đường nét, dáng hình, có cả màu sắc, âm thanh, mà điều nào cũng đến tột cùng của cái duyên, cái thơ, cái đẹp, cái đáng yêu. Kết thúc khổ thơ, Xuân Diệu phát hiện ra:

Thu đến nơi nơi động tiếng huyền

Có một điều gì đó thật là huyền bí, thật là đẹp đẽ, chi phối cả vũ trụ lúc này, tạo nên mọi vẻ đẹp lúc này. Nó như một âm thanh không nghe thấy được nhưng huyền diệu vô cùng, có sức mạnh vô cùng. Lắng nghe được tiếng huyền ấy của vũ trụ, nhà thơ nhìn vào cảnh vật xung quanh mình: Tất cả những điều bình thường bỗng trở nên khác thường đẹp hơn, đáng yêu hơn, có tình hơn, hòa hợp hơn:

Con đường nho nhỏ gió xiêu xiêu

Là lá cành hoang nắng trở chiều

Buổi ấy lòng ta nghe ý bạn

Lần đầu rung động nỗi thương yêu.

Con đường như nhỏ lại để trở nên đẹp hơn. Ngọn gió chiều thổi se sẻ hơn, nhưng nhẹ hơn bởi ngọn gió như ý thức được việc mình đang làm. Những cành hoang lả xuống trước ngọn gió xiêu xiêu nhưng cũng tự mình lả xuống để hòa hợp cùng ngọn gió. Từ cảnh vật ấy, nhà thơ nhìn lại chính lòng mình. Hóa ra điều kì diệu ấy cũng đang xảy ra đến trong tâm hồn con người. “Lòng thu ý bạn”, đây là điều chỉ mới xảy ra lần thứ nhất trong đời. Một sự lắng nghe nhưng không lắng nghe bằng tai mà nghe bằng lòng người nói thà không nói bằng lời mà lại nói bằng ý, cho nên lòng ta nghe ý bạn. Đây là sự cảm thông, một sự hòa hợp tự nhiên của tâm hồn, không muốn, không đinh, mà vẫn xảy ra. Và kết quả của điều xảy ra ấy là một nỗi thương yêu. Xuân Diệu rất tinh tế khi dùng mấy tiếng “nỗi thương yêu" để xác định tâm trạng của mình. Đây không phải là yêu, là tình yêu, mà là thương yêu, một tình cảm về sự hòa hợp trọn vẹn, lại không phải là tình mà là nỗi, một nỗi niềm xúc động, rung động của trái tim, không dành riêng cho một đối tượng cá biệt nào cả, cũng không vì một mục đích ngắn ngủi hay tư lợi nào. Từ nỗi thương yêu ấy nhà thơ muốn đi đến tột cũng tình cảm của mình. Lại cũng xảy ra điều rất lạ:

Em bước điềm nhiên không vướng chân,
Anh đi lững thững chẳng theo gần

Đã "điềm nhiên" lại còn “không vướng chân” hình như nhà thơ dùng từ hơi thừa thãi, nhưng đó chính là cách để nhà thơ muốn nhấn mạnh vào tâm trạng điềm nhiên, hoàn toàn vô tư của con người. Vì vậy với câu thơ tiếp theo, đã "đi lững đứng" lại còn "chẳng theo gần”. Rồi sang câu thơ mở đầu tác giả lại nhấn mạnh: Vô tâm. Nghĩa là giữa hai con ngươi, chưa một sự chuẩn bị nào, một mong muốn khát khao nào. Thế mà cái thu phai đón vần cứ đến, đến như một quy luật, như một lẽ bình thường của trời, trung cái khoảng không gian và thời gian đặc biệt của buổi chiều hôm nay

Anh và em như một cặp vần

Một cặp vần, ấy là sự hòa hợp trọn vẹn của ngôn từ và âm thanh để tạo nên cái điều kì diệu trong đời được gọi là thơ. Sự hòa hợp giữa hai tâm hồn ở đây là thư thế, trọn vẹn đến độ hoàn toàn. Xuân Diệu còn nhấn mạnh đây là sự hòa hợp của một cặp vần trong "một bài thơ dịu”. Sự hòa hợp ấy được nâng lên đến độ tuyệt đối.

Từ sự thay đổi của lòng mình, nhà thơ nhìn ra vạn vật xung quanh. Tất cả đều đổi thay như được chinh phục bởi một sức mạnh thần diệu. Vạn vật không còn vô tư, vô cảm nữa, vạn vật cũng có cảm xúc, có linh hồn, cũng biết yêu thương, xao động như con người. Từ một đám mây, một cánh cò, một cánh chim, một bông hoa, một giọt sương, tất cả đều có sự trăn trở bên trong:

Mây biếc về đâu bay gấp gấp

Con cò trên ruộng cánh phân vân

Chim nghe trời rộng giang thêm cánh

Hoa lạnh chiều thưa sương xuống dần

Những đám mây đã bay hàng ngàn năm trong thơ cổ Việt Nam, trong thơ Đường, thơ Tống, nhưng chưa bao giờ có những đám mây “bay gấp gấp" như trong thơ Xuân Diệu. Những con cò đã từng bay hàng ngàn năm trên đồng ruộng Việt Nam, trong ca dao và thơ Việt Nam, chưa bao giờ có đôi cánh phân vân như trong thơ Xuân Diệu. Đây là cái náo nức, phân vân của một thế hệ mới, thế hệ các nhà thơ hiện đại, các nhà thơ trong phong trào Thơ Mới.

Thế là nhà thơ đang ngắm nghía cả bề rộng và bề sâu của trời đất, của vạn vật xung quanh, đã cảm nhận cá bề sâu làn bề rộng của lòng mình. Tự nhiên, như một sự tổng hợp tất yếu, sự kì diệu cuối cùng lại xảy ra nơi lòng con người:

Ai hay tuy lặng bước thu êm

Tuy chẳng búng nhăn gạ tô niềm

Trông thấy chiều hôm ngơ ngẩn vậy

Lòng anh thôi đã cưới lòng em

Hình như bắt đầu vốn chẳng có gì cả, không có một vật muốn chủ quan nào, cũng chẳng có một sự môi giới khách quan nào tác động. Con người bước đi êm ả giữa mùa thu. Chính nhà thơ cũng đã lấy làm lạ: Buổi chiều này nào có gì đâu! Nhà thơ gọi cái buổi chiều này là buổi “chiều hôm ngơ ngẩn”. Ngơ ngẩn nghĩa là thế nào? Nghĩa là rất vớ vẩn, rất bình thường, chẳng có gì đặc biệt đáng người ta quan tâm. Buổi chiều đẹp đến ngơ ngẩn lòng người'. Cũng không biết nữa, chỉ biết làng cái buổi chiều ấy tạo nên sự lạ lùng:

Lòng anh thôi đã cưới lòng em

Anh cưới em! Không phải, lòng anh cưới lòng em. Từ “cưới" mà Xuân Diệu dùng ở đây, độc đáo đến lạ lùng, mới mẻ đến vô lí. Ngẫm nghĩ ra ta lại thấy nhà thơ có lí, lòng anh cưới lòng em, đó là sự hòa hợp hai tấm lòng, hai tâm hồn đến độ trọn vẹn. tuyệt đối, sự hòa hợp trong mức độ cao nhất của cảm nhận về hạnh phúc. Từ “thôi” trong câu thơ này cũng rất lạ. “Thôi' nghĩa là thế nào? Nghĩa là đành vậy, đành phải chấp nhận như vậy, không còn cách nào khác, không thể từ chối được, không thế lẩn tránh được. Như vậy, cái việc lòng anh cưới lòng em, cái việc lòng anh hòa hợp với lòng em là việc tự nhiên, như của trời đất, con người không thể tạo ra, con người không thể chối bỏ.

Sao gọi là “thơ duyên"? Duyên vốn được coi như sự hòa hợp mà trời đất tạo ra. Xưa nay đã từng có chuyện:

Hữu duyên thiên lí năng tương ngộ

Vô duyên đối diện bất tương phùng

Cái duyên trong Thơ duyên của Xuân Diệu chính là cái duyên ấy, nhưng còn bao hàm một cái duyên lớn hơn, cái duyên của vũ trụ, của đất trời, của cuộc sống nói chung. Cái duyên ấy không phải lúc nào cũng có nhưng khi đã có thì nó tạo ra cho cuộc sống sự hài hòa đẹp vô cùng, kì diệu vô cùng. Không thể nói được thơ Xuân Diệu nghệ thuật vị nghệ thuật. Thơ Xuân Diệu là tình yêu cuộc sống, nó khiến ta biết yêu cuộc sống, biết quý trọng mọi vẻ đẹp của cuộc đời. Tất nhiên, khi biết yêu cuộc đời, con người ta phải biết góp phần làm cho cuộc đời trở nên đẹp hơn.

------------------------------

Như vậy, VnDoc.com đã gửi tới các bạn Lý thuyết Ngữ văn 10 bài: Thơ duyên - Xuân Diệu CTST. Ngoài ra, các em học sinh có thể tham khảo môn Hóa 10 Chân trời sáng tạo, Lý 10 Chân trời sáng tạoToán 10 Chân trời sáng tạo tập 1, Sinh 10 Chân trời sáng tạo đầy đủ khác.

Chia sẻ, đánh giá bài viết
1
Chọn file muốn tải về:
Chỉ thành viên VnDoc PRO tải được nội dung này!
79.000 / tháng
Đặc quyền các gói Thành viên
PRO
Phổ biến nhất
PRO+
Tải tài liệu Cao cấp 1 Lớp
Tải tài liệu Trả phí + Miễn phí
Xem nội dung bài viết
Trải nghiệm Không quảng cáo
Làm bài trắc nghiệm không giới hạn
Mua cả năm Tiết kiệm tới 48%
3 Bình luận
Sắp xếp theo
  • Cu Bin
    Cu Bin

    😃😃😃😃😃

    Thích Phản hồi 19/03/23
    • Khang Anh
      Khang Anh

      💯💯💯💯💯💯

      Thích Phản hồi 19/03/23
      • Công chúa béo
        Công chúa béo

        🤝🤝🤝🤝🤝

        Thích Phản hồi 19/03/23
        🖼️

        Gợi ý cho bạn

        Xem thêm
        🖼️

        Lý thuyết Ngữ văn 10 CTST

        Xem thêm