Theo em vì sao chị Dậu được gọi là điển hình về người nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng 8?

Theo em vì sao chị Dậu được gọi là điển hình về người nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng 8? được VnDoc sưu tầm và tổng hợp nhằm giúp các bạn học sinh cùng quý thầy cô tham khảo để chuẩn bị cho bài học sắp tới đây của môn Ngữ văn lớp 8.

Lưu ý: Nếu bạn muốn Tải bài viết này về máy tính hoặc điện thoại, vui lòng kéo xuống cuối bài viết.

Câu hỏi: Theo em vì sao chị dậu được gọi là điển hình về người nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng 8?

A. Vì chị Dậu là người nông dân khổ nhất từ trước đến nay

B. Vì chị Dậu là người phụ nữ nông dân mạnh mẽ nhất từ trước đến nay.

C. Vì chị Dậu là người phụ nữ nông dân phải chịu nhiều khổ cực nhưng vẫn giữ được bản chất vô cùng tốt đẹp.

D. Vì chị Dậu là người phụ nữ nông dân luôn nhịn nhục trước áp bức của bọn thực dân phong kiến.

Lời giải:

Đáp án C. Vì chị Dậu là người phụ nữ nông dân phải chịu nhiều khổ cực nhưng vẫn giữ được bản chất vô cùng tốt đẹp.

Chị Dậu được gọi là điển hình về người nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám vì chị Dậu là người phụ nữ nông dân phải chịu nhiều khổ cực nhưng vẫn giữ được bản chất vô cùng tốt đẹp

I. Vài nét về tác giả, tác phẩm

Tác giả

Ngô Tất Tố (1893 – 1954) là một trong những nhà văn xuất sắc nhất của trào lưu văn học hiện thực trước Cách mạng tháng Tám. Ông tham gia, đóng góp ở nhiều lĩnh vực: viết báo, tiểu thuyết, phóng sự, khảo cứu triết học, văn học cổ, dịch thuật văn học… và ở lĩnh vực nào ông cũng gặt hái được những thành công.

Bên cạnh những công trình khảo cứu giá trị, Ngô Tất Tố có một khối lượng bài báo đồ sộ đề cập đến nhiều vấn đề thời sự, xã hội, chính trị. Với một lối viết sắc sảo, điêu luyện, giàu tính chiến đấu, một lập trường dân chủ tiến bộ; một phong cách chuyên nghiệp và một giọng điệu châm biếm “rất” Ngô Tất Tố. Ông đã được coi là “một tay ngôn luận xuất sắc trong đám nhà nho” – Vũ Trọng Phụng.

Rất gần với phong cách báo chí ấy nhưng dài hơi hơn, giàu chất văn học hơn là những thiên phóng sự: “Tập án cái đình” (1939), “Việc làng” (1940); … và khó có thể ngờ được rằng tác giả của những bài phóng sự sắc sảo, đanh thép ấy lại cũng chính là người đã dịch những bài thơ Đường cổ điển rất thoát và rất có thần.

Ngô Tất Tố đặc biệt nổi tiếng với tư cách là một nhà văn chuyên viết về đề tài nông thôn và số phận người nông dân dưới chế độ phong kiến, thực dân lúc đó. “Tắt đèn” là tiểu thuyết tiêu biểu, cho mảng đề tài này.

Ngoài ra, Ngô Tất Tố còn có tiểu thuyết “Lều chõng” tái hiện tỉ mỉ, sinh động chế độ thi cử đương thời với một cảm quan phê phán tính chất khắc nghiệt, tiêu cực, phản khoa học của nền giáo dục, khoa cử phong kiến lúc bấy giờ.

“Tắt đèn” có thể coi là tác phẩm tiêu biểu nhất trong sự nghiệp văn học của Ngô Tất TỐ. Lấy đề tài từ một vụ thuế ở một làng quê đồng bằng Bắc Bộ trong những năm 1930 – 1945, cuốn tiểu thuyết vừa phản ánh được nỗi thống khổ của người nông dân vừa lột trần được bộ mặt bất nhân, tàn ác của giai cấp thống trị.

Tác phẩm

“Tắt đèn” là một bức tranh thu nhỏ của nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám với hàng loạt nhân vật điển hình, sinh động. Đó là vợ chồng tên địa chủ keo kiệt, tàn nhẫn; là bọn cường hào tham lam, hống hách; là tên quan bỉ ổi; là những người phụ nữ nông dân bị áp bức, chà đạp đến độ phải vùng lên phản kháng và dù bị vùi dập dưới bùn đen, họ vẫn giữ trọn những phẩm chất đẹp đẽ trong tâm hồn.

Với nghệ thuật tạo tình huống, ngôn ngữ điêu luyện, hình ảnh sinh động, những hình tượng điển hình.. và một cảm quan hiện thực sâu sắc, nhất quán, “Tắt đèn” đã trở thành một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của trào lưu văn học hiện thực trước Cách mạng tháng Tám. Cũng chính với tác phẩm này, Ngô Tất Tố được tôn xưng là “Nhà văn của nông dân”.

II. Hình ảnh chị Dậu trong đoạn trích Tức nước vỡ bờ

Mở đầu đoạn trích, chị Dậu hiện lên với dáng vẻ của một người vợ nghèo hiền hậu, yêu thương chồng con. Hành động lấy quạt, quạt cho cháo chóng nguội, “rón rén bưng một bát lớn đến chỗ chồng nằm”, “đón lấy cái Tỉu và ngồi xuống đó như có ý chờ xem chồng chị ăn có ngon miệng hay không”, giọng dịu dàng, lo lắng nói với chồng… đều thể hiện điều đó.

Khi bọn cai lệ và người nhà lí trưởng sầm sập tiến vào, chị đã van xin tha thiết. Dáng điệu run run, cách xưng hô cháu – ông, sắc mặt xám lại, lời lẽ quỵ luỵ… của chị đã cho thấy thân phận thấp cổ bé họng của người nông dân xưa. Họ bị áp bức đến độ phải nhẫn nhục chịu đựng, đến độ phải van xin cả những kẻ tay sai mạt hạng nhất của bọn quan lại. Nhưng những lời van xin tha thiết của chị không được đếm xỉa. Đến khi cai lệ “bịch luôn vào ngực chị Dậu mấy bịch rồi sấn đến để trói anh Dậu”, chị đã “liều mạng cự lại”:

“Chồng tôi đau ốm, ông không được phép hành hạ”.

Hành động “cự lại” của chị lúc này vẫn chỉ là bằng lí lẽ. Chị nói đến cái lí đương nhiên trong cuộc sống, cái đạo lí tối thiểu trong phép ứng xử giữa người với người. Chị không xưng “cháu” nữa mà xưng “tôi”. Bằng sự thay đổi đó, chị đã đứng thẳng lên, có vị thế ngang hàng với cai lệ. Nhưng rồi lí lẽ cũng chẳng ăn thua. Cai lệ vẫn tàn nhẫn thẳng tay “tát vào mặt chị một cái đánh bốp rồi hắn cứ nhảy vào cạnh anh Dậu”, chị đã vùng lên:

“Chị Dậu nghiến hai hàm răng:

– Mày trói ngay chồng bà đi, bà cho mày xem!”.

Dường như sự tức giận, phẫn uất đã lên đến cao độ. Chị Dậu không còn ý thức kìm chế theo thân phận bị áp bức của mình nữa mà đã tự xưng là “bà”, gọi cai lệ là “mày”. Cách xưng hô ấy, câu nói hết sức “đanh đá” ấy cho thấy sự căm giận ngùn ngụt của chị. Vị thế giữa chị và cai lệ đã bị đảo ngược. Chị không còn là một người phụ nữ yếu đuối, bé mọn nữa mà đang nhìn bọn tay sai với tư thế của người trên.

Cảnh tượng chị Dậu quật ngã cai lệ và người nhà lí trưởng thể hiện sức mạnh ghê gớm tiềm ẩn bên trong người phụ nữ “lực điền”. Đối lập với bộ dạng thảm hại của hai tên tay sai, hình ảnh chị Dậu nổi bật lên với tư thế ngang tàng của người dám đứng lên tự bảo vệ lẽ công bằng cho bản thân và cho những người thương yêu. Sức mạnh ấy phải chăng chính là sức mạnh của lòng yêu thương? Sự thay đổi thái độ của chị Dậu, hành động bất ngờ, quyết liệt của chị do bị o bê quá mà thành “tức nước vỡ bờ”. Dù là van xin, dù là cãi lí hay phản kháng… cũng chỉ là các cách khác nhau để bảo vệ người chồng ốm yếu trong tình thế nguy kịch. Hiểu như thế chúng ta mới thấy hành động quyết liệt, giọng điệu đanh đá của chị Dậu ở đoạn sau không hề mâu thuẫn với thái độ dịu dàng, nhẫn nhịn, lo lắng ở đoạn đầu, thậm chí còn bổ sung, thống nhất với nhau. Đơn giản vì đó là những biểu hiện khác nhau của một tấm lòng yêu thương chồng con rất mực.

Như vậy, nhân vật chị Dậu đã được xây dựng như một tính cách đa diện: hiền dịu, hi sinh nhưng không hề yếu đuối mà vẫn tiềm tàng một tinh thần phản kháng, một sức sống mạnh mẽ. Chị đã nhận thức được sự bất công và không chấp nhận: “Thà ngồi tù. Để chúng nó làm tình làm tội mãi thế, tôi không chịu được…”. Mặc dù, hành động của chị Dậu có tính chất bột phát, chưa giải quyết được vấn đề (sau đoạn này, cả nhà chị Dậu vẫn bị trói, điệu ra đình làng) nhưng đã khẳng định được sức mạnh tiềm tàng của người nông dân, ý thức của họ về sự bất công và báo trước một xu thế tất yếu sẽ xảy ra theo quy luật “Con giun xéo lắm cũng quằn”.

-----------------------------------------------

Trên đây VnDoc đã giới thiệu nội dung bài Theo em vì sao chị Dậu được gọi là điển hình về người nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng 8? Ngoài ra các bạn có thể tham khảo thêm một số chuyên mục Lý thuyết môn Ngữ Văn 8, Soạn bài lớp 8, Văn mẫu lớp 8, Giải Vở bài tập Ngữ Văn 8, Soạn văn 8 siêu ngắn.

Mời bạn đọc cùng tham gia nhóm Tài liệu học tập lớp 8 để có thêm tài liệu học tập nhé

Đánh giá bài viết
1 41
Sắp xếp theo

    Ngữ văn 8

    Xem thêm