Đáp án đề thi tuyển sinh lớp 10 môn Văn Hải Dương 2024
Đề tuyển sinh lớp 10 môn Văn 2023 Hải Dương
Sáng 2/6, các thí sinh tỉnh Hải Dương sẽ làm bài thi tuyển sinh vào lớp 10 môn Văn năm học 2024 - 2025. VnDoc sẽ gửi tới các bạn Đề thi tuyển sinh lớp 10 môn Văn tỉnh Hải Dương năm 2024 kèm đáp án tham khảo sau khi hết thời gian làm bài. Mời các bạn theo dõi.
1. Đáp án đề thi vào lớp 10 môn Văn Hải Dương 2024
I. ĐỌC HIỂU
Câu 1.
Thể thơ 4 chữ
Câu 2.
Từ ngữ, hình ảnh chỉ các yếu tố có trong hạt gạo làng ta: vị phù sa, hương sen thơm, lời mẹ hát
Câu 3.
Tác dụng của phép điệp:
- Tạo tính nhịp điệu cho bài thơ, khiến cho câu thơ như tuôn trào theo từng đợt cảm xúc mãnh liệt. -Miêu tả hương vị của hạt gạo - kết tinh của những gì thuần thúy, tinh túy nhất: mang trong mình sự chắt chiu của đồng quê, thấm đượm tình yêu của tình mẫu tử, của sự chăm chút từ con người
- Từ đó khẳng định: hạt gạo vô cùng quý giá, thiêng liêng.
Câu 4.
Thái độ cần có với những người đã làm ra hạt gạo:
Người nông dân đã phải vất vả quanh năm, chân lấm tay bùn để làm nên được hạt gạo như lời ca " dẻo thơm từng hạt- đắng cay muôn phần". Vì vậy, khi hưởng thụ thành quả lao động ấy, bản thân mỗi người phải có thái độ trận trọng, biết ơn người đã đổ mồ hôi, dầm sương dãi nắng. Hạt gạo là hạt ngọc của trời, kết tinh những gì tinh túy nhất của thiên nhiên, của đất trời và cả công sức của người lao động.
II. PHẦN LÀM VĂN
Câu 1.
Yêu cầu về hình thức: Đoạn văn khoảng 200 chữ, không mắc lỗi diễn đạt, dùng từ. Đảm bảo đủ 3 phần: mở đoạn, thân đoạn, kết đoạn.
Yêu cầu về nội dung: Làm sáng tỏ được ý nghĩa việc đọc sách đối với cuộc sống mỗi người.
1. Giới thiệu vấn đề: Ý nghĩa của việc đọc sách đối với những người trẻ tuổi
2. Bàn luận: Ý nghĩa của việc đọc sách đối với những người trẻ tuổi:
- Ý nghĩa tác dụng của sách:
+ Sách là tài sản vô giá, là người bạn tốt. Bởi sách là nơi lưu trữ toàn bộ sản phẩm tri thức của con người, giúp ích cho con người về mọi mặt trong đời sống xã hội.
+ Nhất là đối với những người trẻ tuổi – là tương lai của đất nước thì sách lại càng trở thành nguồn tri thức cần có, là chìa khóa để đưa người trẻ ra thế giới
- Chứng minh tác dụng của việc đọc sách:
+ Đọc sách giúp ta có thêm tri thức, mở rộng hiểu biết, thu thập thông tin một cách nhanh nhất (nêu dẫn chứng).
+ Sách bồi dưỡng tinh thần, tình cảm cho chúng ta, để chúng ta trở thành người tốt (dẫn chứng)
+ Sách là người bạn động viên, chia sẻ làm vơi đi nỗi buồn (dẫn chứng)
HS lấy dẫn chứng minh hòa phù hợp.
- Tác hại khi không đọc sách: Hạn hẹp về tầm hiểu biết, tâm hồn cằn cỗi.
Câu 2
I – Mở bài
*Giới thiệu tác giả, tác phẩm, vấn đề nghị luận:
- Nhân vật anh thanh niên – một con người lao động bình thường, giản dị với những nét đẹp sáng ngời trong cách sống , cách nghĩ. Điều đó được thể hiện đặc biệt rõ nét qua đoạn văn ghi lại lời tâm sự của anh với bác họa sĩ và cô kĩ sư trẻ : “Anh hạ giọng, nửa tâm sự, nửa đọc lại một điều rõ ràng đã ngẫm nghĩ nhiều……. Nghĩa là có sách ấy mà. Mỗi người viết một vẻ.”
II – Thân bài
1. Khái quát chung
Lặng lẽ Sa Pa là kết quả của chuyến công tác ở Lào Cai của tác giả trong mùa hè năm 1970, sau này được in trong tập Giữa trong xanh ( 1972). Đây là truyện ngắn tiêu biểu ở đề tài viết về cuộc sống mới hòa bình, xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Miền Bắc. Truyện kể về cuộc gặp gỡ bất ngờ giữa nhân vật anh thanh niên với cô kĩ sư và bác họa sĩ để từ đó ca ngợi những con người với những công việc thầm lặng.
2. Cảm nhận về vẻ đẹp của anh thanh niên trong đoạn trích
a. Giới thiệu về hoàn cảnh sống và công việc của anh thanh niên.
Đoạn trích đưa ta đến vùng đất Sa pa để gặp một chàng thanh niên 27 tuổi làm công tác khí tượng khí tượng kiêm vật lí địa cầu. Qua lời kể của bác lái xe cũng như qua cuộc trò chuyện ngắn ngủi trên đỉnh Yên Sơn giữa anh thanh niên với cô kĩ sư và bác họa sĩ, ta phần nào hiểu được hoàn cảnh sống, công việc và con người anh. Anh sống một mình trên đỉnh Yên Sơn cao 2600 mét, quanh năm làm bạn với thiên nhiên, cây cỏ, mây mù lạnh lẽo, hoàn toàn vắng bóng con người. Khó khăn lớn nhất không phải là thiên nhiên khắc nghiệt mà chính là nỗi cô đơn. Hoàn cảnh sống ấy quả là một thử thách đối với tuổi trẻ vốn sung sức, khát khao hành động. Tuy nhiên cũng chính hoàn cảnh sống đó đã làm cho những vẻ đẹp của anh tỏa sáng lung linh.
b. Nói về anh thanh niên trong đoạn trích này, trước hết ta nhận ra ở anh là tình yêu nghề và niềm đam mê với công việc.
Anh sống một mình trên đỉnh Yên Sơn với công việc bình dị: đo gió, đo mưa, đo nắng, tính mây, đo chấn động mặt đất. Anh quan niệm: “Khi làm việc ta với công việc là đôi sao gọi là một mình được”.Một quan niệm thật giản dị nhưng thể hiện một lẽ sống đẹp. Với anh, khi lao động con người với công việc là đôi, là bạn bởi thế anh không cảm thấy lẻ loi, cô độc. Hơn nữa “ công việc của cháu còn gắn với việc của bao anh em ,đồng chí dưới kia”, bên cạnh anh còn biết bao anh em đồng chí cùng đồng hành với anh, cùng anh âm thầm làm việc phấn đấu hết mình vì việc chung nên không thể gọi là “1 mình được”
Anh tiếp tục lời tâm sự chân tình, cởi mở “Công việc của cháu gian khổ thế đấy, chứ cất nó đi , cháu buồn đến chết mất”. Thực tế công việc vào giờ “ốp” đầy gian nan và vất vả. Chỉ một mình anh đúng một giờ sáng, phải đậy đúng giờ, phải đi ra ngoài trời giá lạnh “gió tuyết và lặng im”, núi non trùng điệp lạnh lẽo , hoang vu. Đó là một thử thách lớn không phải ai cũng dễ dàng vượt qua.Nhưng lạ lùng làm sao” cất nó đi cháu buồn đến chết mất”. Lời tâm sự chân thành làm ta khâm phục biết bao.. Không biết tự bao giờ anh đã yêu công việc đầy gian khổ ấy. Được sống nơi này để làm việc, được cống hiến với anh là niềm hạnh phúc lớn nhất cuộc đời. Nhân vật anh thanh niên đã giúp ta hiểu hơn về thế hệ cha ông trong những năm đầu của thập niên 70 ở thế kỉ XX, về tinh thần xây dựng CNXH của nhân dân ta ở miền Bắc.
c. Không chỉ yêu nghề, anh thanh niên trong đoạn trích này còn là một người sống có lý tưởng, có trách nhiệm.
Anh ý thức một cách rất rõ ràng: Mình sinh ra là gì, mình đẻ ở đâu, mình vì ai mà làm việc?. Nhận thức đó cho thấy anh trẻ nhưng không hời hợt. Anh sống một mình nhưng không cô đơn vì lúc nào trong tư tưởng của anh mục đích sống, lẽ sống vẫn luôn luôn tồn tại và nhắc nhở. Làm một công việc đơn độc, phải dậy vào lúc nửa đêm, phải ra ngoài trời lúc mưa bão, lạnh lẽo, anh có thể nằm ở trong nhà, lấy số liệu cũ mà gọi bộ đàm về để báo cáo. Nhưng anh không làm điều đó. Vì anh có trách nhiệm và anh hiểu rõ việc anh làm ở đây có liên quan, có ảnh hưởng đến cuộc sống lao động và chiến đấu của rất nhiều người lúc bấy giờ. Một con người như anh thật đáng để ta trân trọng và cảm phục!
d. Cùng với vẻ đẹp của tình yêu nghề, của tinh thần trách nhiệm, anh thanh niên còn là một người sống cởi mở, chân thành và rất quý trọng tình cảm.
Chỉ gặp họa sĩ và cô kĩ sư một cách tình cờ, trong thời gian rất ngắn ngủi – 30 phút, thế nhưng anh đã tâm tình cởi mở biết bao điều về công việc của mình với họ. Anh cứ thủ thỉ, tâm tình trò chuyện như đã quen thân tự bao giờ. Bởi với anh, được gặp người, trò chuyện với mọi người là một niềm hạnh phúc . Anh khẳng định nỗi khao khát của mình: Còn người thì ai mà chả“thèm ”hở bác? Nỗi thèm người của anh là một nhu cầu chính đáng, đáng quí. Điều đó cho thấy nỗi khát khao giao cảm được trò chuyện của một con người sống cởi mở , nồng nhiệt. Chính bởi sống cởi mở quí trọng tình cảm mà “ Không vào giờ “ốp” là cháu xuống chơi, lâu thành lệ”. Nghĩa là gặp người, giao cảm trò chuyện với mọi người đã trở thành nhu cầu, thành niềm hạnh phúc của anh. Sự chân thành ,cởi mở , quí trọng tình cảm của anh khiến ta xúc động và trân trọng vô cùng.
Sống một mình trên đỉnh núi, anh không cảm thấy cô đơn vì lúc nào bên cạnh anh cũng có sách. Ngoài giờ làm việc, ngoài lúc phải chăm sóc vườn hoa, đàn gà, anh dành thời gian để đọc sách. Vậy là sống nơi Sa Pa lặng lẽ , anh không cô đơn, buồn tẻ vì đã có sách làm bạn . Sách giúp đỡ đời sống tinh thần của anh thêm phong phú, giúp anh mở rộng tri thức, vốn sống để không ngừng theo kịp thời đại. Sách không chỉ giúp anh nâng cao hiểu biết, nâng cao kiến thức, sách còn giúp anh khuây khoả trong những phút giây rảnh rỗi. Say mê đọc sách là một thói quen, một đức tính đáng quý ở anh.
2. Đánh giá chung
Như vậy, bằng cách kể chuyện tự nhiên, chân thực, đoạn trích trên đã giúp người đọc cảm nhận được vẻ đẹp của nhân vật anh thanh niên. Dù anh thanh niên chỉ xuất hiện trong khoảnh khắc, nhưng bằng cách đặt nhân vật vào tình huống gặp gỡ tình cờ, qua cảm xúc và đánh giá của mọi người xung quanh , những chi tiết tiêu biểu… tác giả đã phác họa chân dung nhân vật với những nét đẹp về tinh thần, tình cảm, cách sống và những suy nghĩ về cuộc sống, về ý nghĩa công việc. Và đằng sau những tình huống ấy, ta nhận ra sự trân trọng, niềm cảm phục của nhà văn dành cho anh thanh niên trong câu chuyện này và cũng là cho tất cả những con người đang cống hiến hết mình vì đất nước.
III – Kết bài:
Đoạn văn ngắn nhưng đã biểu hiện được đầy đủ những nét tiêu biểu cho nội dung và nghệ thuật của tác phẩm, của nhân vật anh thanh niên. Trong cái “lặng lẽ” của Sa Pa, trên đỉnh Yên Sơn bốn mùa mây phủ, có những chàng trai trẻ như anh thanh niên đang sống và âm thầm dâng hiến tuổi xuân của mình cho hạnh phúc con người, cho Tổ quốc thân yêu. Đó là một mẫu người lý tưởng tiêu biểu cho tuổi trẻ Việt Nam Nam của một giai đoạn lịch sử có nhiều gian khổ, hi sinh nhưng cũng thật trong sáng, đẹp đẽ. Vẻ đẹp tâm hồn và những suy nghĩ nghĩ của nhân vật anh thanh niên trong truyện đã gieo vào lòng ta niềm khâm phục, ngưỡng mộ và định hướng cho ta cách sống đẹp, thôi thúc ta khát khao được sống và làm những việc có ích cho cuộc đời.
2. Đề thi vào lớp 10 môn Văn Hải Dương 2024
Lịch thi vào lớp 10 năm học 2024 - 2025 tỉnh Hải Dương
3. Đề thi vào lớp 10 môn Văn tỉnh Hải Dương năm 2023
Môn thi: NGỮ VĂN Ngày thi: 02/06/2023
Thời gian làm bài: 120 phút, không tính thời gian phát đề
(Đề thi có 01 trang)
ĐỀ CHÍNH THỨC
I. PHẦN ĐỌC - HIỂU (3,0 điểm)
Đọc đoạn trích và thực hiện các yêu cầu sau:
Hành tinh thứ năm lạ lẫm hết sức. Đó là hành tinh bé nhất trong tất cả. Nơi đó chỉ vừa đủ chỗ cho một cột đèn đường và một người thắp đèn. Hoàng tử bé không sao hiểu được tác dụng của một cột đèn đường và một người thắp đèn trên một hành tinh không có nhà cửa và cũng chẳng có dân cư ở đâu đó trên bầu trời. Song le, cậu vẫn thầm nhủ trong lòng: “Có thể là người này rất kì quặc. Nhưng ông ta không kì quặc bằng ông vua, hay ông hợm hĩnh, hay ông nhà buôn, hay ông nát rượu. Bởi ít ra công việc của ông ấy còn có một ý nghĩa nào đó. Khi ông ấy thắp đèn lên thì cũng như thể là ông ấy khai sinh thêm một vì sao, một bông hoa. Khi ông ấy tắt đèn đi thì đó là để bông hoa hoặc vì sao đi ngủ. Đấy là một công việc rất chi đẹp đẽ. Và vì việc đó đẹp đẽ nên cũng rất mực có ích."
(Trích Hoàng tử bé, Antoine De Saint - Exupéry, NXB Hội Nhà Văn, 2017, trang 53)
Câu 1 (0,5 điểm). Xác định phương thức biểu đạt chính của đoạn trích trên.
Câu 2 (0,5 điểm).
Theo đoạn trích, vì sao Hành tinh thứ năm lạ lẫm hết sức?
Câu 3 (1,0 điểm). Chỉ ra và nêu ý nghĩa của một biện pháp tu từ trong những câu văn sau: “Có thể là người này rất kì quặc. Nhưng ông ta không kì quặc bằng ông vua, hay ông hợm hĩnh, hay ông nhà buôn, hay ông nát rượu.”
Câu 4 (1,0 điểm). Em có đồng tình với suy nghĩ của Hoàng tử bé khi cậu cho rằng công việc của người thắp đèn là một công việc rất chi đẹp đẽ không? Vì sao?
II. PHẦN LÀM VĂN (7,0 điểm)
Câu 1 (2,0 điểm)
Trong bài thơ Sớm mai con vào lớp ba (Tập Đàn Then, NXB Hội Nhà Văn 1996, tr.38), nhà thơ Y Phương đã viết lời người cha khuyên con như sau:
“Đừng cãi nhau đừng đánh nhau nghe con”
Bằng hiểu biết của cá nhân mình, em hãy viết đoạn văn (khoảng 200 chữ) làm rõ vì sao chúng ta không nên cãi nhau, đánh nhau?
Câu 2 (5,0 điểm)
Cảm nhận của em về hai khổ thơ sau, từ đó làm nổi bật vẻ đẹp tâm hồn người lao động:
Mặt trời xuống biển như hòn lửa.
Sóng đã cài then, đêm sập cửa.
Đoàn thuyền đánh cá lại ra khơi,
Câu hát căng buồm cùng gió khơi.
(...)
Câu hát căng buồm với gió khơi,
Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời.
Mặt trời đội biển nhô màu mới,
Mắt cá huy hoàng muôn dặm phơi.
(Trích Đoàn thuyền đánh cá, Huy Cận, Ngữ văn 9, Tập một, NXBGD Việt Nam, 2017, trang 139, 140)
4. Đáp án đề vào lớp 10 môn Văn tỉnh Hải Dương năm 2023
I. ĐỌC HIỂU (3.0 điểm)
Câu 1 (0.5 điểm):
Cách giải: Phương thức biểu đạt tự sự
Câu 2 (0.5 điểm):
Theo đoạn trích, Hành tinh thứ năm lạ lẫm hết sức vì đó là hành tinh bé nhất trong tất cả, nơi đó chỉ vừa đủ chỗ cho một cột đèn đường và một người thắp đèn.
Câu 3 (0.5 điểm):
- Biện pháp tu từ: liệt kê (hay ông hợm hĩnh, hay ông nhà buôn, hay ông nát rượu)
- Tác dụng: Nhấn mạnh điều mà người nói muốn khẳng định: “ông ta không kì quặc”, đồng thời đưa ra dẫn chứng chứng minh lời nói của mình là đúng.
Câu 4 (0.5 điểm):
- Em đồng tình với suy nghĩ của Hoàng tử bé vì:
+ Công việc của người thắp đèn là công việc làm đẹp cho đời, đem ánh sáng đến cho hành tinh tối tăm không chút ánh sáng, cũng là đem lại niềm hy vọng, ấm áp đến cho hành tinh.
+ “Khi ông ấy thắp đèn lên thì cũng như thể là ông ấy khai sinh thêm một vì sao, một bông hoa” tức là ông đã mang đến những vẻ đẹp, giá trị cho cuộc sống.
II. LÀM VĂN (7,0 đ 0 điểm):
Câu 1 (2 điểm):
a. Giới thiệu vấn đề: “Vì sao chúng ta không nên cãi nhau, đánh nhau?”
b. Giải thích vấn đề:
- Cãi nhau, đánh nhau: Là dùng lời lẽ, hành vi bạo lực để chống chế, bác bỏ ý kiến người khác nhằm bảo vệ ý kiến hoặc việc làm của mình.
=> Đây là hành vi mang tính chất tiêu cực, gây ra hậu quả xấu.
c. Bàn luận vấn đề
- Nguyên nhân gây ra cãi nhau, đánh nhau: Do khác biệt về lối sống, suy nghĩ, quan điểm. Bản thân không kim nén được sự giận dữ, không có sự kiên nhẫn trước ý kiến, lập luận của người khác.
- Tác hại của cãi nhau, đánh nhau.
+ Ảnh hưởng xấu đến tâm lý, tinh thần.
+ Gây hại, gây thương tích đến cơ thể của đối phương và của chính bản thân
+ Gây rạn nứt các mối quan hệ, phá vỡ sự đoàn kết, yêu thương giữa gia đình, cộng đồng, xã hội.
- Biện pháp ngăn chặn hành vi cãi nhau, đánh nhau:
+ Học thói quen cư xử một cách văn minh, phản biện mang tính chất đóng góp, tích cực.
+ Suy nghĩ kĩ trước khi hành động. Tôn trọng ý kiến cá nhân, thân thể của mỗi người
- Liên hệ bản thân: Nhận thức được vì sao chúng ta không nên cãi nhau, đánh nhau, cần cố gắng rèn luyện thể lực, nâng cao tinh thần, trau dồi phẩm chất đạo đức...
Câu 3 (5.0 điểm):
a. Mở bài
- Giới thiệu tác giả: Huy Cận là một trong những nhà thơ tiêu biểu của nền thơ ca hiện đại Việt Nam. - Giới thiệu tác phẩm: Bài thơ “Đoàn thuyền đánh cá “viết năm 1958, trong thời gian ông đi thực tế ở Hòn Gai - Quảng Ninh, được in trong tập “Trời mỗi ngày mỗi sáng”.
- Giới thiệu khái quát về khổ thơ đầu và cuối của bài thơ.
2. Thân bài
a Khô 1 - cảnh ra khơi
- Thời gian nghệ thuật là một buổi hoảng hồn tuyệt đẹp.
Mặt trời xuống biển như hòn lửa
Sóng đã cài then đêm sập cửa.
Các hình ảnh mặt trời, sóng, đêm được nhân hóa, cùng hình ảnh so sánh độc đáo ở câu thơ thứ nhất "như hòn lửa" đã tạo nên một bức tranh thiên nhiên kỳ vĩ, tráng lệ. Ngày đã tắt nhưng không hề ảm đạm. Sự vận động của thời gian được diễn tả qua các động từ "xuống biển”, "cài then", "sập cửa". Những con sóng cài ngang như chiếc then cửa của vũ trụ. Bóng đêm "sập cửa" gợi khoảnh khắc ánh ngày vụt tắt và màn đêm bất ngờ buông xuống, bao trùm lên tất cả.
- Lẽ thường, khi ngày tàn, con người sẽ tạm ngừng mọi công việc để trở về nghỉ ngơi bên gia đình nhưng trên biển có một cuộc sống khác khi đó mới bắt đầu....
Đoàn thuyền đánh cả lại ra khơi
Câu hát căng buồm cùng gió khơi
- Chữ “lại” đã gợi ra vòng tuần hoàn trong hoạt động của những người dân biển, gợi nhịp sống thanh bình của quê hương, đất nước. Sau bao năm tháng chiến tranh, con người Việt Nam mới có một cuộc sống lao động bình yên đến thế.
- Đoàn thuyền ra khơi với khí thế tươi vui, hào hứng, phấn khởi: "Câu hát căng buồm cùng gió khơi": Sự kết hợp giữa "câu hát" và "gió khơi" đã tạo nên sức mạnh lớn đưa con thuyền mạnh mẽ vượt sóng ra khơi. Nghệ thuật ẩn dụ chuyển đổi i cảm giác trong câu thơ cũng tái hiện vẻ đẹp tâm hồn và niềm vui trong lao động của người dân chài.
b. Khổ cuối – cảnh trở về
- Đoàn thuyền trở về trong khúc hát mê say: Nếu mở đầu bài thơ tác giả dùng chữ "cùng" (Câu hát căng buồm cùng gió khơi) thể hiện sự hài hòa giữa con thuyền và ngọn gió, hứa hẹn chuyến đi biển thuận lợi, bình yên thì đến cuối bài ông viết "Câu hát căng buồm với gió khơi" thể hiện niềm vui phơi phới của những người dân chài khi trở về trên những con thuyền đầy ắp cá.
- Đoàn thuyền trở về trong cuộc chạy đua với mặt trời: Hình ảnh nhân hóa "Đoàn thuyền chạy đua cùng mặt trời" khiến con thuyền thành một sinh thể sống, gợi khí thế hăm hở, niềm hân hoan đón chào ngày mới của cả thiên nhiên và con người.
Đoàn thuyền cũng trở về trong ánh sáng rực rỡ, huy hoàng của buổi bình minh và muôn ngàn mắt cá lấp lánh dưới ánh mặt trời.
→ Đoạn thơ mang âm hưởng của một bản anh hùng ca lao động, thể hiện niềm vui phơi phới của những con người làm chủ đất trời.
c. Cảm nhận chung về hai khổ thơ và vẻ đẹp của người lao động
- Cả hai khổ đều thể hiện vẻ đẹp của thiên nhiên biển và con người ở cả hai thời điểm: hoàng hôn và bình minh. Thiên nhiên luôn tươi sáng, kì vĩ, tráng lệ. Con người luôn căng tràn sức sống và say mê lao động.
- Cảm hứng bao trùm lên hai khổ là cảm hứng vũ trụ.
- Bút pháp thơ khoáng đạt, âm hưởng thơ vừa khoẻ khoắn, sôi nổi lại vừa phơi phới bay bổng; lời thơ dõng dạc, điệu thơ như khúc hát say mê, hảo hứng, cách gieo vần có nhiều biến hoá linh hoạt, vấn trắc xen lẫn vần bằng; hình ảnh thơ giàu vẻ đẹp lãng mạn; nhiều biện pháp tu từ đặc sắc (so sánh, nhân hoá); kết cấu đầu cuối tương ứng (lặp lại hình ảnh" mặt trời/ gió khơi/ câu hát").
=> Hai khổ thơ cho thấy vẻ đẹp khỏe khoắn, mạnh mẽ, làm chủ thiên nhiên của người lao động.
d. Liên hệ
Thí sinh tự chọn một tác phẩm khác cũng viết về sự gắn bó của con người và biển quê hương để liên hệ với hai khổ thơ trên. Ví dụ: "Quê hương" của Tế Hanh.
Có thể liên hệ với thực tế đời sống để thấy được người dân Việt Nam luôn có những hành động thiết thực, cụ thể thể hiện tình yêu, sự gắn bó với biển: chống ô nhiễm biển, bảo vệ phẩm nghệ thuật hướng về biển.... cảnh quan biển, sáng tạo những tác phẩm nghệ thuật hướng về biển
→ Khẳng định biển quê hương luôn ở trong trái tim của con người Việt Nam.
3. Kết bài
Khẳng định sự trưởng thành và đổi mới trong phong cách thơ Huy Cận: từ một “nhà thơ cả vạn lí sầu" nhưng sau Cách mạng tháng Tám, thơ ông đã gần gũi, đi sát với thực tế đời sống của nhân dân, ngợi ca cuộc sống mới, con người mới.
-HẾT-