Giao diện mới của VnDoc Pro: Dễ sử dụng hơn - chỉ tập trung vào lớp bạn quan tâm. Vui lòng chọn lớp mà bạn quan tâm: Lưu và trải nghiệm

Cốt truyện là gì?

Cốt truyện là gì? được VnDoc sưu tầm và tổng hợp lí thuyết trong chương trình giảng dạy Ngữ văn lớp 6. Hi vọng rằng đây sẽ là những tài liệu hữu ích trong công tác giảng dạy và học tập của quý thầy cô và các bạn học sinh.

Lưu ý: Nếu bạn muốn Tải bài viết này về máy tính hoặc điện thoại, vui lòng kéo xuống cuối bài viết.

Câu hỏi: Cốt truyện là gì?

Trả lời:

Cốt truyện là một hệ thống cụ thể những sự kiện, biến cố, hành động trong tác phẩm tự sự và tác phẩm kịch thể hiện mối quan hệ qua lại giữa các tính cách trong một hoàn cảnh xã hội nhất định nhằm thể hiện chủ đề tư tưởng của tác phẩm.

I. Khái niệm cốt truyện

Cốt truyện là hình thức tổ chức cơ bản nhất của truyện; nó bao gồm các giai đoạn phát triển chính, một hệ thống sự kiện cụ thể được tổ chức theo yêu cầu tư tưởng và nghệ thuật nhất định, tạo thành một bộ phận cơ bản, quan trọng nhất trong hình thức động của các tác phẩm văn học, nhất là đối với các sáng tác thuộc các loại tự sự và kịch.

II. Cơ sở chung của cốt truyện

- Cơ sở khách quan. Ðó là xung đột xã hội. Trong quá trình xây dựng tác phẩm, nhà văn bao giờ cũng thể hiện trực tiếp hoặc gián tiếp những xung đột xã hội của thời đại vào tác phẩm của mình. Vì vậy, cốt truyện mang tính lịch sử cụ thể, được qui định bởi những điều kiện lịch sử, xã hội mà nhà văn đang sống. Chính những điều kiện lịch sử, xã hội khác nhau đã tạo nên sự khác nhau giữa các cốt truyện trong thần thoại và cổ tích, giữa những truyện thơ Nôm và văn học hiện đại… Dostoiepxki nhấn mạnh vai trò của cuộc sống trong việc xây dựng cốt truyện:

“Anh hãy nhớ lấy lời tôi: đừng bao giờ bịa ra các cốt truyện. anh hãy lấy những cái do bản thân cuộc sống cung cấp. Không một trí tưởng tượng nào nghĩ ra được những điều mà đôi khi cuộc sống bình thường quên thuộc nhất đưa lại. Hãy tôn trọng cuộc sống”.

“ Không nên tuyệt đối hóa ý kiến của Dostoiepxki nhưng rõ ràng trong đời sống văn học, nhất là trong văn học của các trào lưu hiện thực, nhiều cốt truyện đã được xây dựng từ chính những câu chuyện ngoài cuộc đời. Cốt truyện của những tác phẩm Bà Bovary của Flobert, Ðỏ và đen của Standhal. Nhiều cốt truyện của Tsêkhôp, L. Tônxtôi, Dostoiepxki ...thường dựa vào những câu chuyện có thật ngoài cuộc đời và trên báo chí… Ở Việt Nam, ta có thể kể đến cốt truyện của các tác phẩm Ðào kép mới của Nguyễn Công Hoan, Chí phèo của Nam Cao, Ðất nước đứng lên của Nguyên Ngọc, Hòn Ðất của Anh Ðức, Người mẹ cầm súng của Nguyễn Thi...”

- Cơ sở chủ quan. Xung đột xã hội mới chỉ là cơ sở khách quan của cốt truyện vì vậy không thể đồng nhất xung đột xã hội với cốt truyện. Khi nói đến cốt truyện, cần chú ý rằng, đó luôn luôn là sản phẩm sáng tạo của người nghệ sĩ. Thông qua cốt truyện, nhà văn vừa khái quát những xung đột xã hội, vừa thể hiện tâm hồn, tình cảm và sự đánh giá chủ quan của họ đối với cuộc sống. Vì vậy, không thể bê nguyên xi những chuyện có thật ngoài cuộc đời vào tác phẩm. Những xung đột xã hội phải được đồng hóa một cách có nghệ thuật nhằm loại trừ những yếu tố ngẫu nhiên, thứ yếu để xây dựng cốt truyện theo hướng điển hình hóa. Vì vậy, cùng xuất phát từ một xung đột xã hội giống nhau, những nhà văn khác nhau lại xây dựng những cốt truyện khác nhau nhằm thể hiện quan điểm, thái độ, ý đồ tư tưởng, phong cách nghệ thuật, cá tính sáng tạo của nhà văn đối với cuộc sống. Những xung đột xã hội giữa nông dân, địa chủ, quan lại được thể hiện qua nhiều cốt truyện khác nhau trong các tác phẩm của các nhà văn Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan, Nam Cao, Nguyên Hồng ...là những thí dụ cụ thể.

Quá trình xây dựng cốt truyện là một quá trình lao động phức tạp và gian khổ. Timôfiép có nhận xét về quá trình xây dựng cốt truyện của L. Tônxtôi như sau:

"Tất cả các cốt truyện của Tônxtôi đều được thai nghén nhiều năm và mỗi cốt truyện đều có một lai lịch phức tạp và một số phận riêng của nó. Tônxtôi lo lắng về các cốt truyện, giận dỗi đối với chúng như người sống vậy, đôi khi ông chán, mệt mi vì chúng, vì sự vật lộn với tài liệu và ngôn từ để không ngừng hoàn thiện từng cốt truyện, từng tác phẩm. Trong đầu óc thiên tài của ông, trong các phòng thí nghiệm tuyệt diệu ấy, bao giờ cũng có nhiều cốt truyện luôn luôn sống và vật chọi với nhau, làm cho ông phải lần lượt chú ý tới chúng lúc nhiều hơn, lúc ít hơn".

III. Các thành phần chính của cốt truyện trong tác phẩm văn học

- Mỗi cốt truyện thường bao gồm các thành phần: trình bày, thắt nút, phát triển, điểm đỉnh, kết thúc. Năm thành phần đó có ý nghĩa tương đối và cần được nhận thức một cách linh hoạt khi đi vào tìm hiểu và phân tích tác phẩm, tùy từng mỗi thành phần của cốt truyện có một vị trí và chức năng riêng. Thế nhưng, không phải bất cứ cốt truyện nào cũng bao hàm đầy đủ các thành phần như vậy. Vì vậy, cần tránh thái độ máy móc khi phân tích thành phần của cốt truyện. Vấn đề không phải là xác định một cách hình thức mỗi thành phần mà là thâm nhập sâu sắc vào nội dung cụ thể của tác phẩm, khảo sát các chặng đường phát triển có ý nghĩa quyết định đối với số phận nhân vật, đặc biệt là các nhân vật chính. Có như thế, việc phân tích các thành phần của cốt truyện mới đem lại hiệu quả thiết thực cho nghiên cứu khoa học và cảm thụ nghệ thuật. Cơ sở sâu xa của cốt truyện là một xung đột xung đột đang vận động. Vì vậy, quá trình phát triển của một cốt truyện cũng giống như quá trình vận động của xung đột, bao gồm các bước hình thành, phát triển và kết thúc.

- Nhìn chung, một cốt truyện thường có các thành phần chính sau:

1. Phần trình bày

+ Trình bày là phần giới thiệu khái quát về bối cảnh và các nhân vật. Qua phần trình bày, người đọc có thể sơ bộ hiểu được các nhân vật đặc biệt là các nhân vật chính về mặt quan cảnh mà các nhân vật đặc biệt là các nhân vật chính về mặt quan hệ gia đình, lứa tuổi, nghề nghiệp, tài năng, lai lịch và hoàn cảnh mà các nhân vật đó đang sinh sống và hoạt động. Trong phần này, thường mâu thuẫn chưa vận động và phát triển. Chưa có những sự kiện đặc biệt làm thay đổi tình thế, đặt nhân vật trước những thử thách hoàn cảnh trong phần trình chưa phát huy năng động tính, thường được người kể chuyện hoặc tác giả trực tiếp giới thiệu.

Ví dụ: trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, phần trình bày nhằm giới thiệu tài sắc của chị em Thúy Kiều và sinh hoạt của gia đình Viên ngoại. Phần này thường có một sự kiện mở đầu có tác dụng như là nguyên nhân trực tiếp làm bùng nổ xung đột cơ bản của tác phẩm. Cảnh Lí tưởng sai Trưởng tuần đóng cổng làng để thu thuế, cảnh thu thuế ở đình làng, cảnh nghèo đói túng thiếu của gia đình chị Dậu là phần giới thiệu của tiểu thuyết Tắt đèn của Ngô Tất Tố.

+ Phần trình bày có khi cũng là phần nhập đề nhưng không phải mọi nhập đề đều đảm nhiệm chức năng của phần trình bày. Trong truyện ngắn Chí Phèo, để nhập đề, Nam Cao miêu tả đoạn Chí Phèo say rượu vừa đi vừa chửi. Lối nhập đề này đã gợi ngay được sự chú ý của người đọc vào Chí Phèo kiểu người đặc biệt, từ đó tác giả dẫn ngay vào phần trình bày để giới thiệu lai lịch của nhân vật này.

2. Phần thắt nút tạo tình huống

+ Thắt nút là khởi điểm sự vận động của mâu thuẫn và xung đột. Nó thường được đánh dấu bằng một sự kiện nào đó đặc biệt. Sự kiện này đặt các nhân vật trước một sự lựa chọn, đòi hỏi sự tham gia của các nhân vật vào xung đột. Trong toàn bộ cốt truyện, phần thắt nút chiếm một trường độ không dài nhưng có ý nghĩa đột xuất và quan trọng. Trong kịch, phần thắt nút được xác định rõ rệt hơn các thể truyện và kí. Phần thắt nút có nhiệm vụ bộc lộ trực tiếp những mâu thuẫn được tích tụ một cách âm ỉ từ trước, các nhân vật sẽ đứng trước những thử thách, đòi hỏi phải bày tỏ những thái độ, chọn lựa cách xử sự, hành động, phản ứng, từ đó bộc lộ rõ tính cách. Sự kiện này có tác dụng làm thay đổi tình thế ban đầu, lôi cuốn các nhân vật cùng tham gia vào xung đột và qua đó, các nhân vật sẽ bước đầu bộc lộ những nét bản chất của chúng. Theo Lê Bá Hán, “phần thắt nút trong Truyện Kiều là cảnh gia đình Kiều gặp cơn gia biến, Kiều phải bán mình chuộc cha. Những sự kiện đó làm thay đổi tình thế ban đầu, đặt nhân vật vào những hoàn cảnh và thử thách mới”. Chính sự kiện này, người đọc thấy được sự hy sinh cao cả của Kiều và cũng từ đây xung đột bùng nổ giữa một bên là những con người giàu lòng nhân ái và một bên là những thế lực phong kiến đen tối, bạo tàn. Còn phần thắt nút của tiểu thuyết Tắt đèn của Ngô Tất Tố là cảnh tuần đinh, lính lệ đến đánh đập anh Dậu để đòi sưu thuế.

3. Phần phát triển tình huống truyện

+ Phát triển là phần quan trọng của cốt truyện bao gồm nhiều cảnh ngộ, nhiều sự kiện và biến cố khác nhau. Tính cách của nhân vật chủ yếu được xác định qua phần phát triển. Phần này có một trường độ bao quát hơn cả trong cốt truyện so với các thành phần khác. Tính cách có thể thay đổi và hoàn chỉnh thông qua những môi trường khác nhau trong phần phát triển.

Ví dụ, trong truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao, phần phát triển bao gồm chng đường từ khi Chí Phèo trở về làng đến khi gặp Thị Nở. Trên chng đường này, Chí đã làm biết bao nhiêu việc mù quáng và tội lỗi, bản chất của hắn bị tha hóa. Từ một thanh niên hiền lành, y trở thành một kẻ hung bạo. Tính cách của hắn ngày càng phát triển theo chiều hướng đó để dẫn đến những tình thế căng thẳng.

+ Phần phát triển cũng là phần vận động của biến cố và mâu thuẫn để đẩy đến chỗ căng thẳng nhất. Trong toàn bộ cốt truyện, phần dài nhất và quan trọng nhất là phần phát triển. Khác với phần thắt nút chỉ dùng một sự kiện, phần này bao gồm một chuỗi sự kiện hoặc biến cố nối tiếp nhau nhằm làm cho xung đột phát triển cả về chiều sâu và chiều rộng. Đồng thời, qua đó khẳng định bản chất của các tính cách trong những tình huống khác nhau. Đây là phần quan trọng và dài nhất của cốt truyện bao gồm nhiều cảnh ngộ, sự kiện và biến cố khác nhau. Tính cách nhân vật chủ yếu được xác định trong phần này. Nó có thể được thay đổi thông qua các bước ngoặt, môi trường khác nhau.

Ví dụ, phần phát triển trong Truyện Kiều của Nguyễn Du là cuộc đời 15 năm lưu lạc, từ “chữ trinh đáng giá nghìn vàng” đến “tấm lòng trinh bạch từ nay xin chừa”, là những chuỗi dài bi kịch “thanh lâu hai lượt thanh y hai lần”, là sự tiếp xúc với đủ các hạng người trong xã hội, là nỗi đau khổ này đến nỗi đau khổ khác của Kiều. Trong tiểu thuyết Tắt đèn của Ngô Tất Tố, phần phát triển bao gồm những sự kiện: mấy đứa con bị đói, chồng bị bắt, chị Dậu một mình tất tả ngược xuôi cho đến lúc người nhà lí trưởng ném cái xác lạnh ngắt, mê man bất tỉnh của anh Dậu vào nhà.

4. Điểm đỉnh của tình huống

+ Nối tiếp phần phát triển, giai đoạn căng thẳng nhất của cốt truyện được gọi là đỉnh điểm. Ở đó, nhà văn cho thấy cách giải quyết của mình đối với xung đột đã được miêu tả hoặc cho thấy những khả năng trong việc giải quyết xung đột đó. Phần này, còn được gọi là cao trào, là phần bộc lộ cao nhất của xung đột. Lúc này, xung đột đã phát triển đến độ gay gắt, quyết liệt, đòi hỏi phải phải được giải quyết theo một chiều hướng nhất định. Điểm đỉnh là mâu thuẫn phát triển đến điểm đỉnh là phát triển đến độ cao nhất trong cả quá trình vận động. Nó có ý nghĩa quyết định với số phận của nhân vật. Tình thế đặt ra có ý nghĩa quyết định với vận mệnh của nhân vật.

Ví dụ, trong Truyện Kiều của Nguyễn Du, từ khi Kiều gặp Từ Hải, câu chuyện có xu hướng đi vào điểm đỉnh. Mâu thuẫn căng thẳng nhất khi Từ Hải chết và Kiều bị ép lấy Thổ quan. Từ Hải chết, bi kịch của đời nàng lên đến cực điểm. Nhân vật bị dồn vào một tình thế bi đát nhất không còn lý do để tồn tại và tất yếu Thúy Kiều phải tự vẫn để kết thúc số phận ngang trái, nặng nề của mình.

+ Điểm đỉnh thường là một khoảnh khắc, một thời điểm ngắn nhưng có tác dụng quyết định đối với nhân vật trung tâm. Trong truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao, từ khi Chí Phèo gặp Thị Nở, câu chuyện đi vào điểm đỉnh. Thị Nở đã đem lại cho Chí Phèo những giờ phút êm ấm nhất trong toàn bộ cuộc đời ngang ngược của Chí. Hắn có điều kiện để tỉnh táo nhìn ngắm lại cuộc đời mình và chợt hiểu ra một cách xót xa quá khứ đau đớn của mình để rồi lo lắng cho tương lai. Chí Phèo có thể trở lại làm người lương thiện hay không hay lại tiếp tục bị xô đẩy trên con đường tội lỗi? Tình thế lúc này rõ ràng mang ý nghĩa thử thách và đặt nhân vật trước hai khả năng, trước hai con đường, có ý nghĩa quyết định. Chí Phèo bị từ chối, mâu thuẫn lên đến cao điểm, thực tế xã hội tàn nhẫn lại đẩy hắn đi vào con đường thứ hai. Trong tiểu thuyết Tắt đèn của Ngô Tất Tố là lúc chị Dậu bị dồn vào đường cùng đã xô tên Cai Lệ và túm tên người nhà Lí trưởng “lẳng một cái, ngã nhào ra thềm”.

5. Phần kết thúc (mở nút)

+ Kết thúc là sự giải quyết cụ thể của mâu thuẫn. Kết thúc chấm dứt một quá trình vận động và giải quyết những mặt đối lập của xung đột. Có những kết thúc đóng kín lại một quá trình, lại có những kết thúc hé mở ra một chặng đường mới. Phần này cho thấy kết quả của xung đột đã được miêu tả.

Ví dụ: Phần kết thúc trong Truyện Kiều của Nguyễn Du là Kiều được cứu sống, là đoạn đoàn viên của Kiều với Kim Trọng và gia đình sau 15 năm lưu lạc. Một kết thúc thiếu tính hiện thực, nó được tạo ra do quan niệm “có hậu” của tác giả hơn là do sự chi phối của quy luật khách quan. Thường các tác phẩm chỉ có một cách kết thúc nhưng cá biệt cũng có tác phẩm kết thúc bằng nhiều cách khác nhau.

+ Phần kết thúc thường tiếp nối sau ngay điểm đỉnh của cốt truyện vì điểm đỉnh không thể kéo dài mà xu hướng nhân vật khi phát triển qua điểm đỉnh thường dẫn ngay đến kết thúc. Ở đó, nhà văn cho thấy cách giải quyết của mình đối với xung đột đã được miêu tả, hoặc cho thấy những khả năng trong việc giải quyết xung đột đó. Đây là phần giải quyết xung đột của cốt truyện một cách cụ thể. Ở đây, tác giả trình bày những kết quả của toàn bộ xung đột của cốt truyện. Một cốt truyện tốt, bao giờ phần kết thúc cũng được giải quyết một cách tự nhiên, phù hợp với qui luật của cuộc sống. Tuy nhiên trong văn học cổ thường có phần kết thúc phù hợp với ước muốn chủ quan của con người.

Ví dụ: Trong tiểu thuyết Tắt đèn của Ngô Tất Tố, chị Dậu từ lúc bị bắt lên hầu quan phủ, sau đó phải xa chồng, xa con để đi làm vú hầu quan cố nhà quan Tỉnh, đến lúc chị choàng dậy mở cửa chạy té ra sân: “Trời tối đen như mực, như cái tiền đồ của chị”, là phần kết thúc của tác phẩm.

+ Việc xác định các thành phần của một cốt truyện suy cho cùng cũng là để nắm được vững chắc chủ đề và tư tưởng của tác phẩm thể hiện trực tiếp qua những bước phát triển của tính cách và cũng là để nắm được đầy đủ chẳng đường đi của từng tính cách nhân vật trong tác phẩm.

+ Như vậy, các thành phần chính trên đây tạo một cốt truyện đầy đủ. Tuy nhiên, trong thực tế văn học, không phải lúc nào cốt truyện cũng đầy đủ cả năm thành phần, đồng thời cũng không phải được trình bày theo thứ tự như trên. Ở một số cốt truyện, có thể thiếu mất một vài thành phần, ở một số cốt truyện khác, có thể không có phần mở đầu hoặc nhiều khi lại bắt đầu bằng phần kết thúc hoặc một biến cố gần với điểm đỉnh. Vì vậy, khi tìm hiểu và xác định các thành phần của cốt truyện, không nên gò ép những biến cố hay sự kiện vào thành phần này hay thành phần khác với những lí do có tính chất hình thức. Cần tìm hiểu và phân tích sự xây dựng cốt truyện có thể hiện được những xung đột xã hội, sự phát triển của nó có phù hợp với quy luật cuộc sống và có thể hiện được ý đồ nghệ thuật của tác giả hay không.

-----------------------------------------------

Trên đây VnDoc đã giới thiệu nội dung bài Cốt truyện là gì? Ngoài ra các bạn có thể tham khảo thêm một số chuyên mục Lý thuyết môn Ngữ Văn 6, Soạn bài lớp 6, Văn mẫu lớp 6, Giải Vở bài tập Ngữ Văn 6, Soạn văn 6 siêu ngắn.

Chia sẻ, đánh giá bài viết
2
Chọn file muốn tải về:
Chỉ thành viên VnDoc PRO tải được nội dung này!
79.000 / tháng
Đặc quyền các gói Thành viên
PRO
Phổ biến nhất
PRO+
Tải tài liệu Cao cấp 1 Lớp
Tải tài liệu Trả phí + Miễn phí
Xem nội dung bài viết
Trải nghiệm Không quảng cáo
Làm bài trắc nghiệm không giới hạn
Mua cả năm Tiết kiệm tới 48%
Sắp xếp theo
    🖼️

    Gợi ý cho bạn

    Xem thêm
    🖼️

    Lý thuyết ngữ văn 6 CTST

    Xem thêm