Giao diện mới của VnDoc Pro: Dễ sử dụng hơn - chỉ tập trung vào lớp bạn quan tâm. Vui lòng chọn lớp mà bạn quan tâm: Lưu và trải nghiệm

Soạn bài Cô Tô ngắn gọn

Soạn bài Cô Tô do Nguyễn Tuân sáng tác thuộc môn Ngữ văn lớp 6 học kỳ 2. Bài soạn dưới đây được VnDoc sưu tầm và giới thiệu với các bạn để tham khảo giúp học tập tốt môn Ngữ Văn lớp 6 chuẩn bị cho bài giảng sắp tới đây của mình.

Lưu ý: Nếu bạn muốn Tải bài viết này về máy tính hoặc điện thoại, vui lòng kéo xuống cuối bài viết.

Để giao lưu và dễ dàng chia sẻ các tài liệu học tập hay lớp 6 để chuẩn bị cho năm học mới, mời các bạn tham gia nhóm facebook Tài liệu học tập lớp 6.

CÔ TÔ (NGUYỄN TUÂN)

1. Bài văn có thể chia làm mấy đoạn? Nội dung chính của mỗi đoạn là gì?

Hướng dẫn trả lời:

ĐoạnGiới hạnNội dung
Đoạn 1Từ đầu → "theo mùa sóng ở đây"
  • Cảnh đẹp của Cô Tô sau trận bão đi qua
Đoạn 2Từ "Mặt trời lại rọi lên" → "là là nhịp cánh"
  • Cảnh tượng tráng lệ và hùng vĩ khi mặt trời mọc trên biển
Đoạn 3Phần còn lại
  • Cảnh sinh hoạt buổi sáng trên đảo Cô Tô

2. Vẻ đẹp trong sáng của đảo Cô Tô sau khi trận bão đi qua đã được miêu tả như thế nào? Em hãy tìm và nhận xét những từ ngữ (đặc biệt là tính từ), hình ảnh diễn tả vẻ đẹp ấy trong đoạn đầu của bài.

Hướng dẫn trả lời:

- Vẻ đẹp trong sáng của đảo Cô Tô sau khi trận bão đi qua được miêu tả tỉ mỉ và sống động, hấp dẫn với nhiều tính từ, từ láy, giúp khắc họa khung cảnh thiên nhiên trong sáng và tinh khôi nơi đây.

- Các hình ảnh diễn tả vẻ đẹp ấy trong đoạn đầu bài:

  • Một ngày trong trẻo, sáng sủa;
  • Cây thêm xanh mượt;
  • Nước biển lam biếc đặm đà hơn;
  • Cát lại vàng giòn hơn;
  • Lưới càng thêm nặng mẻ cá giã đôi.

- Các tính từ miêu tả màu sắc, ánh sáng: trong trẻo, sáng sủa, trong sáng, xanh mượt, lam biếc, vàng giòn.

⇒ Nhận xét:

  • Các tính từ chỉ màu sắc và ánh sáng trong kết cấu câu văn đặc tả nhấn mạnh (thêm, hơn) đã làm nổi bật các hình ảnh (bầu trời, nước biển, cây trên núi đảo, bãi cát), khiến cho khung cảnh Cô Tô được hiện lên thật trong sáng, tinh khôi.
  • Nghệ thuật dùng tính từ đặc tả nói trên kết hợp với việc chọn điểm nhìn từ trên cao, tác giả giúp người đọc cùng hình dung và cảm nhận về vẻ đẹp tươi sáng về toàn cảnh Cô Tô.

3. Đoạn văn tả cảnh mặt trời mọc trên biển (từ Mặt trời lại rọi lên ngày thứ sáu đến Một con hải âu bay ngang, là là nhịp cánh) là một bức tranh rất đẹp. Em hãy tìm những từ ngữ chỉ hình dáng, màu sắc, những hình ảnh mà tác giả đã dùng để vẽ nên cảnh đẹp rực rỡ ấy. Nhận xét về những hình ảnh so sánh mà tác giả đã dùng ở đây.

Hướng dẫn trả lời:

- Những từ chỉ hình dáng, màu sắc: tròn trĩnh, đầy đặn, hồng hào, màu ngọc trai nước biển ửng hồng.

- Những hình ảnh so sánh:

  • chân trời, ngấn bể sạch như tấm kính lau hết mây hết bụi
  • tròn trĩnh phúc hậu như lòng đỏ một quả trứng thiên nhiên đầy đặn
  • ... y như một mâm lễ phẩm tiến ra từ trong bình minh để mừng cho sự trường thọ của tất cả những người chài lưới trên muôn thuở biển Đông

⇒ Nhận xét: Qua cách chọn lọc chính xác các từ ngữ, những hình ảnh so sánh trên đây thật rực rỡ, tráng lệ. Với tài năng quan sát và miêu tả tinh tế của tác giả, cảnh mặt trời mọc ở Cô Tô được thể hiện trong một khung cảnh rộng lớn bao la, đồng thời thể hiện niềm giao cảm hân hoan giữa con người và vũ trụ.

4. Cảnh sinh hoạt và lao động của người dân trên đảo đã được miêu tả qua những chi tiết, hình ảnh nào trong đoạn cuối bài văn? Em có cảm nghĩ gì về cảnh ấy?

Hướng dẫn trả lời:

- Cảnh sinh hoạt và lao động của người dân trên đảo đã được miêu tả qua những chi tiết, hình ảnh:

  • Quanh giếng nước ngọt: vui như một cái bến và đậm đà mát nhẹ hơn mọi cái chợ trong đất liền (sử dụng hình ảnh so sánh);
  • Chỗ bãi đá, bao nhiêu là thuyền của hợp tác xã đang mở nắp sạp (sử dụng lượng từ không xác định);
  • Thùng và cong và gánh nối tiếp đi đi về về (sử dụng liên từ và điệp từ);

⇒ Nhận xét: Đó là cảnh sinh hoạt và lao động khẩn trương, tấp nập. Đó cũng là khung cảnh của cuộc sống thanh bình sau bão: "Trông chị Châu Hoà Mãn địu con, thấy nó dịu dàng yên tâm như cái hình ảnh biển cả là mẹ hiền mớm cá cho lũ con lành". Hình ảnh so sánh liên tưởng độc đáo này thể hiện sự đan quyện trong cảm xúc giữa cảnh và người, đồng thời thể hiện đặc sắc tình yêu Cô Tô của riêng một Nguyễn Tuân - "người đi tìm cái đẹp" toàn bích và hài hoà.

LUYỆN TẬP

1. Em hãy viết một đoạn văn tả cảnh mặt trời mọc (trên biển, trên sông, trên núi hay ở đồng bằng) mà em đã quan sát được.

Hướng dẫn trả lời:

Chừng 5 giờ sáng vào mùa hè, chính là lúc mặt trời bắt đầu mọc. Từ phía chân trời xa, từ dưới miền đen thăm thẳm, quả cầu đỏ tươi khổng lồ từ từ nhô lên. Chiếu ánh sáng hiền hòa, màu cam đến với mọi vật. Chú gà trống vội vàng tình giấc, chạy lên trên ụ rơm, dõng dạc cất tiếng gáy Ò… ó… o… Cả bầu trời lúc này, là một vùng biển màu hồng cam mơ màng, nó hắt lên con đường, hắt lên vòm cây những vệt sáng nhá nhem. Những cơn gió buổi sớm mai nhè nhẹ, mang theo những mát lạnh cuối còn sót lại sau đêm dai. Từ chiếc lá, nhành hoa khẽ ru mình theo lá, rũ bớt những giọt sương đang đọng lại trên mình. Âm thanh xào xạc của lá cây đánh thức mấy chú chim nhỏ dậy, ríu ran cả khu vườn. Dần dần, mặt trời lên cao hơn nữa, ánh sáng cũng dần nhạt đi, trả lại màu thiên thanh vốn có của bầu trời. Cảnh vật cũng dần rõ ràng hơn trong làn sương mỏng tanh buổi sáng. Trong mấy ngôi nhà, dần lục đục những âm thanh của người thức dậy buổi sáng. Một ngày mới lại bắt đầu.

>> Xem thêm: Viết một đoạn văn tả cảnh mặt trời mọc mà em quan sát được (10 mẫu)

2. Chép lại và học thuộc đoạn văn (từ Mặt trời nhú lên dần dần đến Một con hải âu bay ngang, là là nhịp cánh.

TÁC GIẢ VÀ TÁC PHẨM CÔ TÔ

1. Thể loại

- Kí là "một loại hình văn học trung gian, nằm giữa báo chí và văn học, gồm nhiều thể - chủ yếu là văn xuôi tự sự như bút kí, hồi kí, du kí, phóng sự, kí sự, nhật kí, tuỳ bút,..." (Lê Bá Hán - Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi: Từ điển thuật ngữ văn học, sđd).

- Các bài học: Cô Tô (của Nguyễn Tuân), Cây tre Việt Nam (của Thép Mới), Lòng yêu nước (của I.Ê-ren-bua), Lao xao (của Duy Khán) thuộc thể loại kí.

2. Tác giả

- Nhà văn Nguyễn Tuân (còn có các bút danh khác: Ngột Lôi Quất, Thanh Hà, Nhất Lang, Tuân, Ân Ngũ Tuyên, Tuấn Thừa Sắc) sinh ngày 10 tháng 7 năm 1910 tại Hà Nội. Quê quán: làng Mọc, thôn Thượng Đình, xã Nhân Mục (nay là phường Nhân Chính), quận Thanh Xuân, Hà Nội; mất ngày 28 tháng 7 năm 1987 tại Hà Nội; Hội viên sáng lập Hội Nhà văn Việt Nam (1957).

- Thời thanh, thiếu niên, Nguyễn Tuân theo gia đình làm ăn sinh sống ở nhiều nơi, đặc biệt ở các tỉnh miền Trung: Khánh Hoà, Phú Yên, Hội An, Đà Nẵng, Huế, Hà Tĩnh và Thanh Hoá. Ông học đến bậc trung học ở thành phố Nam Định. Năm 1929, do tham gia phong trào bãi khoá, bị đuổi học và sau đó, do phản đối chế độ thuộc địa, ông đã hai lần bị bắt, bị tù (một lần tại Băng Cốc - Thái Lan và bị giam tại Thanh Hoá (1930) và lần thứ hai bị bắt tại Hà Nội, giam tại Nam Định (1941).

- Từ những năm 30 của thế kỉ XX, Nguyễn Tuân bắt đầu viết văn và làm báo, chủ yếu đăng trên các báo, tạp chí: Trung Bắc tân văn, Đông Tây, An Nam tạp chí, Tao đàn, Hà Nội tân văn, Thanh nghị, Tiểu thuyết thứ bảy. Từ 1937, ông chuyên sống bằng nghề viết văn và nổi tiếng từ 1938, 1939 với Một chuyến đi, Vang bóng một thời,...

- Sau Cách mạng, năm 1946, Nguyễn Tuân cùng với đoàn văn nghệ sĩ vào công tác tại Khu Năm (Trung Bộ). Năm 1947, ông phụ trách một đoàn kịch lưu động. Từ năm 1948 đến 1996, ông giữ trách nhiệm Tổng thư kí Hội Văn nghệ Việt Nam. Thời gian này, ông đã tham gia nhiều chiến dịch và về các vùng sau lưng địch để sáng tác. Sau 1954, Nguyễn Tuân sống và hoạt động văn nghệ ở Hà Nội. Từ năm 1958, ông là Uỷ viên Ban chấp hành Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật Việt Nam và là Uỷ viên Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam (khoá I và II).

- Những tác phẩm đã xuất bản: Ngọn đèn dầu lạc (phóng sự, 1939); Vang bóng một thời (truyện ngắn, 1940); Chiếc lư đồng mắt cua (tùy bút, 1941); Tóc chị Hoài (tuỳ bút, 1943); Tuỳ bút II (tuỳ bút, 1943); Nguyễn (truyện ngắn, 1945); Chùa Đàn (truyện, 1946); Đường vui (tuỳ bút, 1949); Tình chiến dịch (bút kí, 1950); Thắng càn (truyện, 1953); Chú Giao làng Seo (truyện thiếu nhi, 1953); Đi thăm Trung Hoa (bút kí, 1956); Tuỳ bút kháng chiến (tuỳ bút, 1955); Tùy bút kháng chiến và hoà bình (tuỳ bút, 1956); Truyện một cái thuyền đất (truyện thiếu nhi, 1958); Sông Đà (tuỳ bút, 1960); Hà Nội ta đánh Mĩ giỏi (tuỳ bút, 1972); Tuyển tập Nguyễn Tuân (tập I: 1981, tập II: 1982).

- Ngoài ra, Nguyễn Tuân còn viết tiểu luận phê bình văn học và dịch giới thiệu văn học. Nhà văn đã được nhận: Giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (đợt I, năm 1996).

ĐỀ THI GIỮA KÌ 2 LỚP 6 CÓ ĐÁP ÁN

Đề thi giữa kì 2 lớp 6 được tải nhiều:

Đề thi giữa kì 2 lớp 6 (chọn lọc):

------------------------------------------------------------------------------------

Dưới đây là bài soạn Cô Tô bản rút gọn nếu bạn muốn xem hãy kích vào đây Soạn văn 6: Cô Tô

Bài tiếp theo: Soạn bài Các thành phần chính của câu

Ngoài bài soạn bài lớp 6 bên trên, chúng tôi còn sưu tập rất nhiều tài liệu học kì 2 lớp 6 từ tất cả các trường THCS trên toàn quốc của tất cả các môn Toán, Văn, Anh, Lý, Địa, Sinh. Hy vọng rằng tài liệu lớp 6 này sẽ giúp ích trong việc ôn tập và rèn luyện thêm kiến thức ở nhà. Chúc các bạn học tốt và đạt kết quả cao trong kì thi sắp tới

Mời các bạn tham khảo tài liệu liên quan:

Chia sẻ, đánh giá bài viết
88
Sắp xếp theo
    🖼️

    Gợi ý cho bạn

    Xem thêm
    🖼️

    Soạn văn 6 siêu ngắn Chân trời

    Xem thêm