Giải SBT Ngữ văn 9 Kết nối tri thức bài 39
VnDoc xin giới thiệu bài Giải sách bài tập Ngữ văn 9 bài 39: Đọc hiểu và thực hành Tiếng Việt sách Kết nối tri thức và cuộc sống chi tiết giúp học sinh dễ dàng xem và so sánh lời giải từ đó biết cách làm bài tập trong SBT Ngữ văn 9.
Bài: Đọc hiểu và thực hành Tiếng Việt
Bài tập 4 trang 15
Đọc bài thơ Nắng mới của Lưu Trọng Lư và trả lời các câu hỏi:
Mỗi lần nắng mới hắt bên song,
Xao xác gà trưa gáy não nùng;
Lòng rượi buồn theo thời dĩ vãng,
Chập chờn sống lại những ngày không.
Tôi nhớ me tôi thuở thiếu thời,
Lúc người còn sống, tôi lên mười
Mỗi lần nắng mới reo ngoài nội,
Áo đỏ người đưa trước giậu phơi.
Hình dáng me tôi chửa xoá mờ
Hãy còn mường tượng lúc vào ra
Nét cười đen nhánh sau tay áo
Trong ánh trưa hè, trước giậu thưa.
(Thi ca Việt Nam chọn lọc, Thơ Lưu Trọng Lư, NXB Đồng Nai, Đồng Nai, 2005, tr. 46)
Trả lời:
– Mỗi dòng thơ gồm 7 chữ (tiếng).
– Bài thơ gieo vần chân (vần hỗn hợp).
– Bài thơ chủ yếu ngắt nhịp 4/3.
Trả lời:
– Trong khổ thơ đầu, tâm trạng của nhân vật “tôi” được diễn tả qua các từ ngữ như: lòng rượi buồn, chập chờn sống lại. Các từ ngữ ấy gợi cảm giác buồn thương, nhớ nhung da diết.
– Tâm trạng ấy được gợi lên từ thời gian, không gian thân quen ngày mẹ còn sống. Đó là vào thời điểm đầu hè, ánh nắng mới tinh khôi, dịu nhẹ bắt đầu bừng lên hắt vào song cửa, sưởi ấm cho ngôi nhà, mang đến cho tâm hồn con người niềm vui. Trong sân, tiếng gà xao xác, não nùng làm xao động không gian trưa hè, đồng thời gợi cảm giác buồn se sắt.
Trả lời:
- Ở hai khổ thơ cuối, trong mường tượng của nhân vật “tôi”, hình ảnh người mẹ hiện lên với đặc điểm sau:
+ Mẹ hiện lên rất đẹp – một vẻ đẹp dịu dàng, e ấp của người phụ nữ xưa, hiền thục, vui tươi với nụ cười rạng rỡ: Nét cười đen nhánh sau tay áo.
+ Mẹ yêu thương, chăm chút cho gia đình, cho các con: “Mỗi lần nắng mới reo ngoài nội”, mẹ lại mang áo ra phơi trước giậu.
- Tình cảm của người con dành cho mẹ là:
+ Hạnh phúc khi được sống trong tình yêu thương của mẹ: “Mỗi lần nắng mới reo ngoài nội” – câu thơ sử dụng biện pháp tu từ nhân hoá, vừa gợi lên hình ảnh ánh nắng lấp lánh, ấm áp vừa gợi lên cuộc sống vui tươi của “tôi” khi mẹ còn sống. Khi còn được ở bên mẹ, thế giới của “tôi” tràn ngập niềm vui bởi nụ cười của mẹ và màu áo đỏ mẹ phơi.
+ Buồn vì mẹ không còn ở bên: Hình ảnh “nắng mới hắt bên song” miêu tả một luồng ánh sáng rọi vào nhà nhưng không đủ sức xua đi bóng tối, cái lạnh, cái hiu hắt của không gian, cũng là của lòng người. Cụm từ mỗi lần diễn tả sự lặp lại đều đặn của hình ảnh, tâm trạng buồn bã khi thiếu vắng mẹ. Các từ láy xao xác, não nùng gợi lên âm thanh tiếng gà làm xao động không gian vắng lặng, gợi cảm giác buồn tê tái.
+ “Tôi” luôn nhớ về mẹ: “Hình dáng me tôi chửa xoá mờ/ Hãy còn mường tượng lúc vào ra”. Hai câu thơ diễn tả nỗi nhớ thương mẹ sâu sắc của người con. Mẹ không còn nhưng hình bóng mẹ vẫn hiện diện đâu đây trong căn nhà. “Tôi” luôn lưu giữ trong tim những hình ảnh, những kí ức đẹp đẽ nhất về mẹ: “Nét cười đen nhánh sau tay áo/ Trong ánh trưa hè, trước giậu thưa..
Trả lời:
– Cảm hứng chủ đạo của bài thơ: tình yêu thương, nỗi nhớ người mẹ đã khuất.
– Chủ đề của bài thơ: tình cảm của người con đối với người mẹ đã khuất, qua đó gửi gắm thông điệp: hãy dành tình cảm, sự chăm sóc cho những người thân yêu khi còn có thể.
Căn cứ xác định chủ đề: nhan đề, mạch cảm xúc, từ ngữ (lòng rượi buồn, nhớ,...), hình ảnh (nắng mới hắt bên song, nắng mới reo ngoài nội, áo đỏ [..] trước giậu phơi, nét cười đen nhánh sau tay áo,...).
Trả lời:
Một số ví dụ sử dụng từ chập chờn có nghĩa giống với nghĩa của từ này trong câu thơ “Chập chờn sống lại những ngày không” là:
– Điện hôm nay chập chờn quá.
– Chập chờn cơn tỉnh cơn mê
Rốn ngồi chẳng tiện dứt về chỉn khôn.
(Nguyễn Du, Truyện Kiều)
Bài tập 5 trang 16
Đọc bài thơ Đây mùa thu tới của Xuân Diệu và trả lời các câu hỏi:
Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang,
Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng;
Đây mùa thu tới – mùa thu tới
Với áo mơ phai dệt lá vàng.
Hơn một loài hoa đã rụng cành,
Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh
Những luồng run rẩy rung rinh lá...
Đôi nhánh khô gầy xương mỏng manh.
Thỉnh thoảng nàng trăng tự ngẩn ngơ...
Non xa khởi sự nhạt sương mờ...
Đã nghe rét mướt luồn trong gió...
Đã vắng người sang những chuyến đò...
Mây vẩn từng không, chim bay đi,
Khí trời u uất hận chia li.
Ít nhiều thiếu nữ buồn không nói,
Tựa cửa, nhìn xa, nghĩ ngợi gì.
(Thơ Xuân Diệu, NXB Văn học, Hà Nội, 2016, tr. 22 – 23)
Trả lời:
- Bài thơ được viết theo thể thơ bảy chữ.
- Đặc điểm của thể thơ được thể hiện qua bài thơ là:
+ Gieo vần chân, vần hỗn hợp (vần liền: tang – hàng, cành – xanh, ngơ – mờ đi – li,...; vần cách: hàng – vàng, xanh – manh, mờ – đò, li – gì).
+ Ngắt nhịp 4/3 đều đặn ở các dòng thơ.
Trả lời:
Mặc dù bước đi của mùa thu rất chậm rãi nhưng nhà thơ đã cảm nhận được những thay đổi tinh tế của cảnh sắc trong vườn:
– Rặng liễu rủ được nhân hoá thành hình ảnh những người phụ nữ đang đứng chịu tang: “Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang,/ Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng”. Từ láy đìu hiu gợi lên cảm giác vắng vẻ, buồn bã.
– Lá cây chuyển vàng khiến mùa thu như khoác lên mình chiếc áo màu mơ phai thơ mộng được dệt nên từ muôn ngàn chiếc lá vàng. Biện pháp tu từ nhân hoá gợi lên sự thay đổi bất ngờ của cây lá mùa thu.
– Một vài loài hoa đã lác đác rụng. Chú ý cách sử dụng từ ngữ mới lạ (hơn một loài hoa) diễn tả hình ảnh chứa nhiều loài hoa tàn rụng.
– Sắc đỏ của lá thu đang lấn dần từng chút sắc xanh. Biện pháp tu từ nhân hoá miêu tả trạng thái chuyển dần từ màu xanh sang màu đỏ của lá thu.
– Những luồng gió thổi nhẹ làm rung rinh lá... Cành cây rụng lá để lộ “đổi nhánh khô gầy xương mỏng manh”. Cách kết hợp từ mới lạ luồng run rẩy nhánh khô gầy; từ láy rung rinh, mỏng manh đã gợi lên những trạng thái vận động mơ hồ, tinh tế của vạn vật khi mùa thu tới.
Trả lời:
- Vầng trăng mùa thu khi mờ khi tỏ được nhân hoá thành cô thiếu nữ thỉnh thoảng “tự ngẩn ngơ”. Cụm từ “tự ngẩn ngơ” diễn tả trạng thái ngẩn ngơ một mình, ngẩn ngơ về chính mình, không còn chú ý gì đến xung quanh, vì vẻ đẹp của thiên nhiên mùa thu quá đỗi thơ mộng hay vì một duyên cớ mơ hồ nào đó.
– Núi non ở xa bắt đầu mờ dần vì sương mù bao phủ.
– Cái rét theo gió thấm đượm khắp không gian. Biện pháp tu từ ẩn dụ (đã nghe rét mướt) kết hợp với nhân hoá (rét mướt luồn trong gió) thể hiện cảm nhận tinh tế của nhà thơ về cái lạnh đầu mùa: Gió rét đầu mùa chưa thổi về ào ạt mà mới chỉ “lén lút” thâm nhập vào “lãnh địa” mùa thu.
– Trời lạnh nên người qua lại trên sông ít. Biện pháp tu từ đảo ngữ (Đã vắng người sang những chuyến đò...) nhấn mạnh tình trạng thưa thớt, vắng vẻ của những chuyến đò.
– Mây cuộn lên từng đám trên bầu trời. Những cánh chim di trú bay về phương nam. Mây và cánh chim gợi lên nỗi buồn chia li như “bèo dạt mây trôi” khắp bốn phương trời.
– Biện pháp tu từ nhân hoá (Khí trời u uất hận chia li) miêu tả vẻ âm u của bầu trời, đồng thời làm toát lên một nỗi buồn bao trùm khắp không gian.
– Cuối bài thơ là hình ảnh một vài thiếu nữ “buồn không nói”, “tựa cửa nhìn xa, nghĩ ngợi”. Những người thiếu nữ tâm hồn trong trẻo, ngây thơ dường như để mặc cho những suy nghĩ bâng khuâng hòa cùng mây trời.
Câu 4 trang 17 SBT Ngữ Văn 9 Tập 2: Qua bài thơ, nhà thơ thể hiện cảm nhận như thế nào về thời gian?
Trả lời:
Sự thay đổi của thiên nhiên trong bài thơ diễn ra nhanh hay chậm, nhiều hay ít? Vì sao nhà thơ lại chú ý đến sự thay đổi đó? Câu thơ “Đây mùa thu tới, mùa thu tới” thể hiện thái độ gì của nhà thơ đối với mùa thu và đối với thời gian?
Qua bài thơ, nhà thơ thể hiện cảm quan mới mẻ về thời gian so với thơ ca trung đại. Thời gian không tuần hoàn mà hữu hạn, một đi không trở lại như Xuân Diệu từng viết trong bài thơ Vội vàng:“Xuân đang tới nghĩa là xuân đang qua/ Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già”. Con người cần sống hết mình bởi đời người ngắn ngủi. Nhà thơ luôn chú ý từng bước đi của thời gian qua sự thay đổi của không gian dù chưa rõ ràng (hơn một, rũa, luồn,...). Khi thấy mùa thu đến trên rặng liễu, ông đã cấp báo: “Đây mùa thu tới, mùa thu tới”, để nhắc nhở mọi người đừng để hoài phí thời gian.
Trả lời:
– Từ rũa là động từ có nghĩa gốc là mài (kim loại, móng tay,...) bằng giũa.
Trong câu thơ này, rũa có nghĩa là lấn dần từng chút một.
Bài tập 6 trang 17
Đọc bài thơ Chiếc lá đầu tiên của Hoàng Nhuận Cầm và trả lời các câu hỏi:
Em thấy không, tất cả đã xa rồi
Trong tiếng thở của thời gian rất khẽ
Tuổi thơ kia ra đi cao ngạo thế
Hoa súng tím vào trong mắt lắm mê say.
Chùm phượng hồng yêu dấu ấy rời tay
Tiếng ve trong veo xé đôi hồ nước
Con ve tiên tri vô tâm báo trước
Có lẽ một người cũng bắt đầu yêu.
Muốn nói bao nhiêu, muốn khóc bao nhiêu
Bài hát đầu xin hát về trường cũ
Một lớp học bâng khuâng màu xanh rủ
Sân trường đêm – Rụng xuống trái bàng đêm.
Nỗi nhớ đầu anh nhớ về em
Nỗi nhớ trong tim em nhớ về với mẹ
Nỗi nhớ chẳng bao giờ nhớ thế
Bạn có nhớ trường, nhớ lớp, nhớ tên tôi.
“- Có một nàng Bạch Tuyết các bạn ơi,
Với lại bảy chú lùn rất quấy”
“– Mười đấy chứ! Nhìn xem trong lớp ấy”
(Ôi những trận cười trong sáng đó lao xao).
Những chuyện năm nao, những chuyện năm nào
Cứ xúc động, cứ xôn xao biết mấy
Mùa hoa mơ rồi đến mùa phượng cháy
Trên trán thầy, tóc chớ bạc thêm.
Thôi hết thời bím tóc trắng ngủ quên
Hết thời cầm dao khắc lăng nhăng lên bàn ghế cũ
Quả đã ngọt trên mấy cành đu đủ
Hoa đã vàng, hoa mướp của ta ơi.
Em đã yêu anh, anh đã xa vời
Cây bàng hẹn hò chìa tay vẫy mãi
Anh nhớ quá! Mà chỉ lo ngoảnh lại
Không thấy trên sân trường – chiếc lá buổi đầu tiên.
(Hoàng Nhuận Cầm, Xúc xắc mùa thu, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội, 1992, tr. 11 – 12)
Trả lời:
– Bài thơ được viết theo thể thơ tám chữ.
– Căn cứ xác định: bài thơ chủ yếu gồm những dòng thơ có 8 chữ.
Trả lời:
– Nhà thơ đã nhắc lại những kỉ niệm sâu sắc của tuổi học trò:
+ Chùm phượng hồng yêu dấu được trao tặng cho người bạn thân.
+ Những rung động mơ hồ đầu tiên của trái tim.
+ Một lớp học dưới những tán cây màu xanh.
+ Trái bàng rụng xuống sân trường lúc đêm khuya.
+ Hình ảnh những người thân yêu: em, mẹ, thầy cô, trường lớp, bạn bè.
+ Một buổi trò chuyện thú vị, các bạn trêu chọc nhau rất vô tư, hồn nhiên.
– Cảm xúc của nhà thơ khi nhắc lại những kỉ niệm thuở hoa niên:
+ Nhớ thương, vương vấn:
• Câu thơ “Em thấy không, tất cả đã xa rồi” thể hiện sự ngậm ngùi, tiếc nuối về khoảng thời gian đã xa, về quá khứ tươi đẹp nay chỉ còn trong kí ức.
• Câu thơ thứ hai, thứ ba sử dụng biện pháp tu từ nhân hoá (tiếng thở của thời gian rất khẽ, tuổi thơ ra đi cao ngạo) diễn tả sự trôi qua rất nhanh, rất vội vã của tuổi thơ, đồng thời thể hiện cảm xúc tiếc nuối, hoài niệm.
• Trong khổ thơ thứ tư, nhà thơ sử dụng lặp lại từ nhớ tới 9 lần để diễn tả nỗi nhớ da diết về “em”, về mẹ, về trường lớp, bạn bè,...
+ Xúc động, xôn xao:
• Biện pháp tu từ điệp ngữ (muốn nói bao nhiêu, muốn khóc bao nhiêu; những chuyện năm nao, những chuyện năm nào; cứ xúc động, cứ xôn xao) diễn tả cảm xúc da diết, trào dâng của nhân vật trữ tình, đồng thời tạo nhạc điệu cho bài thơ.
• Ước mong thầy giáo mãi trẻ, khoẻ: “Trên trán thầy, tóc chớ bạc thêm”.
Trả lời:
– Bâng khuâng, tiếc nuối khi nhận ra tuổi học trò đã trôi qua, tất cả chỉ còn là kỉ niệm:
+ Từ thôi thể hiện cảm xúc hụt hẫng, tiếc nuối khi nghĩ về một thời vô tư “bím tóc trắng ngủ quên” trong lớp học, nghịch ngợm “cầm dao khắc lăng nhăng lên bàn ghế cũ”.
+ Biện pháp tu từ điệp ngữ kết hợp ẩn dụ (quả đã ngọt, hoa đã vàng) nhấn mạnh thực tế tuổi thơ đã ra đi, những cô bé, cậu bé năm nào giờ đã trưởng thành.
+ Lời gọi hoa mướp của ta ơi thể hiện nỗi bâng khuâng, tiếc nuối da diết.
– Buồn bã vì tình yêu tuổi học trò cũng chỉ còn là kỉ niệm: “Em đã yêu anh, anh đã xa vời”. Biện pháp tu từ điệp ngữ (đã) cho thấy tất cả đã thuộc về quá khứ, chỉ còn lại những lưu luyến, vấn vương: “Cây bàng hẹn hò chìa tay vẫy mãi”.
– Lo sợ những kỉ niệm đẹp thuở hoa niên rồi cũng sẽ tan biến: “Anh nhớ quá! Mà chỉ lo ngoảnh lại/ Không thấy trên sân trường – chiếc lá buổi đầu tiên”.
Câu 4 trang 18 SBT Ngữ Văn 9 Tập 2: Nêu chủ đề của bài thơ và căn cứ xác định chủ đề.
Trả lời:
– Chủ đề: tình yêu đối với bạn bè, thầy cô, mái trường; trân trọng những kỉ niệm đẹp của tuổi hoa niên.
– Căn cứ xác định chủ đề:
+ Nhan đề bài thơ: Chiếc lá đầu tiên tượng trưng cho sự chớm nở của tình yêu ban đầu, cho những kỉ niệm đầu tiên không phai mờ trong tâm trí mỗi người.
+ Các từ ngữ bộc lộ cảm xúc như: nhớ, khóc, xúc động, xôn xao,...; những hình ảnh gắn liền với tuổi học trò như: chùm phượng hồng, hoa súng tím, tiếng ve, lớp học, trái bàng,…
Câu 5 trang 18 SBT Ngữ Văn 9 Tập 2: Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là gì?
Trả lời:
Cảm hứng chủ đạo của bài thơ Chiếc lá đầu tiên là nỗi nhớ nhung, tiếc nuối tuổi học trò đã qua.
>>> Bài tiếp theo: Giải SBT Ngữ văn 9 Kết nối tri thức bài 40