Giao diện mới của VnDoc Pro: Dễ sử dụng hơn - chỉ tập trung vào lớp bạn quan tâm. Vui lòng chọn lớp mà bạn quan tâm: Lưu và trải nghiệm

TOP 12 Viết bài văn phân tích một tác phẩm văn học thơ trào phúng lớp 8

Bản quyền tài liệu thuộc về VnDoc.
Nghiêm cấm mọi hành vi sao chép với mục đích thương mại.

1. Phân tích một tác phẩm văn học thơ trào phúng: Hội Tây

Nguyễn Khuyến là một cây bút trào phúng nổi bật trong làng văn học trung đại Việt Nam. Bút pháp trào phúng của ông nhẹ nhàng, kín đáo nhưng vô cùng sâu cay. Đọc tác phẩm Hội Tây, em mới thực sự cảm nhận được đỉnh cao trong thơ trào phúng của Nguyễn Khuyễn.

Hội tây là một tác phẩm thơ thất ngôn bát cú mẫu mực về cấu tứ và nội dung. Ở ngay câu thơ đầu tiên, tác giả đã giới thiệu đến người đọc một sự kiện tưng bừng gọi nôm na là hội Tây:

“Kìa hội Thăng Bình tiếng pháo reo”

“Hội Thăng Bình” là ngày hội vui mừng do các quan Tây tổ chức tại Thăng Bình. Trong thời gian làm Bố Chánh ở Quảng Nam, Nguyễn Khuyến đã có dịp trực tiếp quan sát các lễ hội này. Nhưng cũng có người lại cho rằng, hội Thăng Bình này là lễ hội người Pháp tại Hà Nội tổ chức để ăn mừng Cách mạng Pháp thành công tại mẫu quốc. Và họ tổ chức lễ hội cho dân đen ở xứ An Nam được chung vui, được hưởng “ké” niềm vui của mẫu quốc. Dù là theo nghĩa nào, thì lễ hội được nhắc đến ở câu thơ đầu cũng chẳng phải một lễ hội truyền thống của dân tộc ta, của người Việt ta tổ chức.

“Bao nhiêu cờ kéo với đèn treo.
Bà quan tênh nghếch xem bơi trải,
Thằng bé lom khom nghé hát chèo.
Cậy sức cây đu nhiều chị nhún,
Tham tiền cột mỡ lắm anh leo.”

Bầu không khí của lễ hội trở nên rạo rực với “cờ kéo” và “đèn treo” - hai món đồ trang trí đến từ Tây phương. Sự hiện diện của nó đã gián tiếp khẳng định đây chỉ là lễ hội của người Pháp mà thôi, chứ chẳng phải của chúng ta. Qua lời kể của Nguyễn Khuyến, lễ hội hiện lên thật tươi vui và sống động. Dù là lễ hội Tây, nhưng các trò chơi xuất hiện vẫn mang đậm truyền thống văn hóa của nước ta, như hát chèo, đánh đu, bơi lội, leo cột… Tuy nhiên, cách cách trò chơi được tả lại thì thật là khác lạ. Nhà thơ sử dụng rất nhiều các tính từ giàu sức gợi, sức tả cho người đọc mặc sức tưởng tượng về lễ hội. Mấy bà quan vốn sang trọng, quý phái thì lại được miêu tả với dáng vẻ tênh nghếch kém duyên. Phận nữ nhi lại tụ tập đi xem người ta cởi trần bơi lội, đã vậy lại còn là các mệnh phụ phu nhân quyền quý. Đối với xã hội phong kiến đương thời thì thật là thiếu đứng đắn. Trong sân hát chèo, nơi biểu diễn nghệ thuật truyền thống, thì lại có mấy thằng bé phải lom khom nghe hát chèo. Sao chúng lại phải lom khom để nghe hát, dù sân chèo rộng đến vậy? Chắc bởi các quan Tây, các phú ông phú bà đã chiếm hết chỗ ngồi, còn chúng phải đứng hầu, rồi tranh thủ nghe hát nên mới phải lom khom. Đến trò chơi đánh đu quen thuộc vào các hội xuân cũng được xuất hiện trong lễ hội. Động tác di chuyển của người chơi được khắc họa bằng từ “cậy sức” làm cho trò chơi vốn mang đến không khí tươi vui, tràn ngập sức sống phút chốc lại trở nên thô thiển, kém duyên dáng của các chị. Còn các anh thì hớn hở trèo lên các cột bôi mỡ vì tiền đang treo trên ngọn cây. Tính từ “tham” được đẩy ngay lên đầu câu, đã nhấn mạnh động cơ, mục đích của người tham gia chơi hội. Tất cả tạo nên một bầu không khí nhốn nháo, lộn xộn.

“Khen ai khéo vẽ trò vui thế,
Vui thế bao nhiêu nhục bấy nhiêu!”

Lễ hội vui vẻ, nhộn nhịp đó được khen là “khéo vẽ trò”. Cụm từ đó khẳng định tính chất mua vui, giải trí của lễ hội theo chiều hướng tiêu cực. “Vẽ trò” là cụm từ mà dân gian thường nói khi nhắc đến một sự kiện được tổ chức rầm rộ, cầu kì nhưng chẳng có ý nghĩa, giá trị gì cả. Hội Tây được khắc họa trong bài thơ này cũng vậy. Người Tây tổ chức lễ hội để mua vui cho chính họ. Và kẻ được đem ra mua vui chính là những người dân An Nam vì tham tiền, ham vui mà mặc kệ danh dự, nhân phẩm, liều mình phấn đấu tham gia. Chúng gom hết những trò chơi dân gian truyền thống của dân tộc từ từ hát chèo đến leo cột, rồi đánh đu. Những trò chơi đặc sắc của dân tộc ta, là niềm tự hào của nền văn hiến nghìn năm, nay bị đem ra làm trò mua vui cho những kẻ xâm lược. Ấy thế mà các nam thanh nữ tú vẫn nhiệt tình tham gia, phô bày dáng vẻ kệch cỡm, kém duyên để đem lại tiếng cười cho lũ thực dân Pháp. Vui sao? Càng vui bao nhiêu thì càng nhục bấy nhiêu. Cặp quan hệ từ tăng tiến bao nhiêu - bấy nhiêu đã khiến người đọc cảm nhận được sự phẫn uất của nhà thơ khi chứng kiến đồng bào mình bỏ mặc danh dự, nhân phẩm đi làm trò mua vui cho kẻ ngoại xâm. Tinh thần tự tôn của dân tộc bị đạp xuống dưới những đồng tiền bẩn thỉu của lũ ngoại bang. Vậy mà họ lại không hề thấy nhục nhã chút nào, vẫn vui vẻ, vẫn hào hứng lắm. Dường như chẳng ai hay về cái thực tại ê chề đang diễn ra ở trước mắt mình.

Ngay từ nhan đề “Hội Tây”, nhà thơ Nguyễn Khuyến đã nhấn mạnh về chủ quyền của ngày hội. Ông phân biệt rành rọt đó là hội của người chứ chẳng phải hội của ta. Từ các vần thơ, hình ảnh tả thực, tác giả đã châm biếm sâu cay về cách tham gia hội người vô cùng hăng hái đến quên mất tự tôn, danh dự của người dân ta. Từ đó, ông vạch trần tấm màn che giả dối nhân danh quyền con người của lũ thực dân Pháp. Bởi khi chúng đem người dân An Nam ra làm trò mua vui, thì nghĩa là chúng chẳng hề xem họ là con người, chẳng hề đối xử bình đẳng với họ. Đó cũng là cái tát thẳng vào những con người đã tự biến mình thành trò vui. Để đánh thức lương tri, lòng tự tôn dân tộc trong chính họ. Đó chính là ngụ ý cao cả của nhà thơ thông qua những vần thơ châm biếm trong Hội Tây.

2. Viết bài văn phân tích một tác phẩm văn học Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu (3 mẫu)

“Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu” hay còn được biết đến với cái tên “Vịnh khoa thi Hương” là một bài thơ nổi tiếng của Tú Xương trong chùm thơ trào phúng. Đây không chỉ là một tác phẩm thơ trào phúng đơn thuần, mà còn chứa đựng những cảm xúc tự trào của chính nhà thơ về bản thân mình, giúp tạo nên âm hưởng độc đáo, ghi dấu ấn sâu đậm trong lòng độc giả.

Lấy bối cảnh là cuộc thi Hương vào năm Đinh Dậu - một kì thi đã ba năm mới được tổ chức lại trong sự hồ hởi, mong chờ của sĩ tử miền Bắc. Nhưng ái ngại thay, lúc này sân thi ở Hà Nội đã bị giặc chiếm mất, nên các sĩ tử ở đây phải lọ mọ sang Nam Định để tham gia thi. Do đó, dẫn đến sự xuất hiện của một trường thi đông đúc cả sĩ tử trường Nam với trường Hà. Sự chen chúc ấy được tác giả tái hiện chỉ qua một từ rất đắt giả: “lẫn”.

“Nhà nước ba năm mở một khoa,
Trường Nam thi lẫn với trường Hà.”

Từ “lẫn” thường dùng để chỉ những đồ tầm thường, giá trị thấp đang trong trạng thái lộn xộn, không ngăn nắp. Thế mà hiện tại lại được dùng để chỉ những sĩ tử - những người học cao hiểu rộng, thuộc tầng lớp được trọng vọng trong xã hội. Nhưng khi nhìn lại dáng vẻ của những sĩ tử này, thì mới thấy tác giả dùng từ “lẫn” thật chẳng sai chút nào:

“Lôi thôi sĩ tử vai đeo lọ”

Ngày thi ba năm mới mở ra một lần, là ngày cô cùng quan trọng, thế nhưng các sĩ tử lại đến trường thi với dáng vẻ lôi thôi, lếch thếch, thiếu tôn trọng người đối diện, đồng thời cũng thiếu tôn trọng chính bản thân mình. Đồng hành với những sĩ tử đó trong trường thi, các vị quan coi thi cũng hiện lên “trang trọng” không kém.

“Ậm ọe quan trường miệng thét loa”

Từ “ậm ọe” miêu tả dáng vẻ những bậc chí sĩ đến coi thi như những kẻ dở hơi, nói chuyện nghuệch ngoạc, chẳng ra gì. Họ gồng lên thét qua loa để yêu cầu các sĩ tử phải giữ trật tự, di chuyển theo đường lối. Hành động đó của các quan coi thi dở hơi bao nhiêu, thì dáng vẻ lôi thôi, lộn xộn, không có chút quy tắc hành xử nào của các sĩ tử càng được bật lên rõ nét. Vốn là những người theo nghiệp đèn sách, bụng một bồ kinh thư mà họ hành xử chẳng khác gì những kẻ sống vô tổ chức, cần phải bị quát nạt, la mắng mới có thể đi vào khuôn khổ. Sự kết hợp của các sĩ tử đó với quan coi thi đã xóa hết đi bầu không khí trang nghiêm của trường thi, biến nơi đây thành một nơi ồn ào, xốn xáo.

Nhưng đâu chỉ dừng lại ở đó, trường thi năm Đinh Dậu còn chào đón sự xuất hiện của những mụ đầm với chiếc váy dài lê quét đất. Những mụ đầm đó đến từ phương Tây - đại diện cho những kẻ đang xâm chiếm đất nước ta, đè đầu cưỡi cổ người dân ta, nuốt chửng nền văn hiến nghìn năm mà chúng ta vốn làm tự hào. Sự xuất hiện của những “mụ đầm” ấy biến trường thi mười mươi trở thành một địa điểm vui chơi cho người ngoài đến thưởng lãm. Chao ôi thật xấu hổ thay, ô nhục thay.

“Nhân tài đất Bắc nào ai đó?
Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà”

Kì thi Đinh Dậu là kì thi lớn suốt ba năm mới tổ chức một lần, chứa đựng nhiều mong mỏi và hi vọng của tác giả. Bởi vậy khi chứng kiến trường thi diễn ra lôm côm, lộn xộn và biến thành sân chơi của những mụ đầm, Tú Xương vô cùng phẫn nộ, bi ai. Ông chua xót thốt lên câu hỏi tìm kiếm nhân tài đất Bắc ngay giữa trường thi lớn nhất miền Bắc - nơi theo lẽ thường hẳn là nơi tề tựu những nhân tài kiệt xuất của quốc gia. Từ đó, ông thể hiện sự mỉa mai, châm biếm sâu cay đến những sĩ tử đang ngồi trong trường thi. Họ đến đây với danh nghĩa là sĩ tử trường Nam, sĩ tử trường Hà, nhưng họ chẳng xứng danh là nhân tài của đất Bắc. Khi từ tác phong bên ngoài đã chẳng thể làm nể phục người ngoài. Nhưng chính bản thân Tú Xương cũng là một trong rất nhiều những sĩ tử đang ngồi ở trong trường thi năm ấy. Chính ông cũng đang là một trong rất nhiều các sĩ tử ngồi làm bài thi trong tiếng ậm ọe của quan trường, trong ánh mắt xem xét, săm soi của những mụ đầm. Đắng cay, ê chề, nhục nhã biết bao khi ông trài phúng những sĩ tử khác thì cũng chính là đang tự trào chính bản thân mình. Giọng văn bởi vậy mà càng thêm chua xót.

“Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà”

Bài thơ kết thúc bởi một hành động “ngoảnh cổ” - một hành động dứt khoát và mang tính biểu tượng. Đó là sự nuối tiếc về quá khứ huy hoàng của Nho giáo, của sự nghiệp lễu chõng đi thi của biết bao sĩ tử. Đó cũng là một lời nhắc nhở, một lời cảnh tỉnh các sĩ tử hãy nhìn lại bản thân, quay đầu là bờ để chọn lại con đường đúng đắn hơn. Nhưng dẫu là tầng nghĩa nào đi chăng nữa, thì toàn bộ câu thơ vẫn chứa đựng sâu nặng sự đau khổ và bất lực của một sĩ tử chứng kiến chính bản thân mình đang dẫm vào hố đen mà mình cho là sai trái.

Chính sự giằng xé trong thầm lặng, đau khổ trong bất lực trước hoàn cảnh của thời đại ấy đã khiến chất tự trào trong thơ Tú Xương thêm sâu cay, đả kích nặng nề hơn bao giờ hết. Bởi vậy mà dù ra đời trong bối cảnh thơ trào phúng ngự trị kho tàng văn học trung đại Việt Nam, thì “Vịnh khoa thi Hương” vẫn luôn là một trong những ngôi sao sáng và nổi bật nhất.

3. Viết bài văn phân tích một tác phẩm văn học: Lai Tân (2 mẫu)

>> Tham khảo các bài văn mẫu hay tại đây Viết bài văn phân tích một tác phẩm văn học thơ trào phúng: Lai Tân

4. Viết bài văn phân tích một tác phẩm văn học Tiến sĩ giấy (2 mẫu)

>> Tham khảo các bài văn mẫu hay tại đây Viết bài văn phân tích một tác phẩm văn học Tiến sĩ giấy

5. Viết bài văn phân tích một tác phẩm văn học Thương vợ

>> Tham khảo các bài văn mẫu hay tại đây Viết bài văn phân tích một tác phẩm văn học Thương vợ

6. Phân tích một tác phẩm văn học thơ trào phúng Ngắn gọn (3 mẫu)

>> Tham khảo đầy đủ các bài văn ngắn gọn tại đây Viết bài văn phân tích một tác phẩm văn học thơ trào phúng lớp 8 Ngắn gọn

Chia sẻ, đánh giá bài viết
26
Chọn file muốn tải về:
Chỉ thành viên VnDoc PRO/PROPLUS tải được nội dung này!
79.000 / tháng
Đặc quyền các gói Thành viên
PRO
Phổ biến nhất
PRO+
Tải tài liệu Cao cấp 1 Lớp
Tải tài liệu Trả phí + Miễn phí
Xem nội dung bài viết
Trải nghiệm Không quảng cáo
Làm bài trắc nghiệm không giới hạn
Mua cả năm Tiết kiệm tới 48%
Sắp xếp theo
    🖼️

    Gợi ý cho bạn

    Xem thêm
    🖼️

    Văn mẫu lớp 8 Sách mới

    Xem thêm